Ảnh hưởng của uy tín đối với hiệu quả truyền thông
GIỚI THIỆU VỀ TÀI LIỆU
Một yếu tố quan trọng nhưng ít được nghiên cứu đối với hiệu quả truyền thông là thái độ của khán giả đối với nhà truyền thông. Trong số liệu thu được gián tiếp về vấn đề này qua các nghiên cứu về "uy tín" mà ở đó đối tượng nghiên cứu được hỏi về thái độ đồng tình hay phản đối với những phát ngôn của những cá nhân khác nhau, mức độ đồng ý thường cao hơn khi những phát ngôn xuất phát từ những nguồn "uy tín". Có rất ít nghiên cứu về tác động tương đối của hoạt động truyền thông có cùng nội dung thông tin được thực hiện bởi những nhà truyền thông khác nhau đối với dư luận sau hoạt động truyền thông khi không tính tới quan điểm của nhà truyền thông. Tuy nhiên bối cảnh nghiên cứu sau này có thể xác thực hơn với hoàn cảnh thực tế mà những kết quả nghiên cứu sẽ được áp dụng
8 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2142 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của uy tín đối với hiệu quả truyền thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Page 1
ảnh hưởng của uy tín nguồn tin đối với hiệu quả truyền thông
Một yếu tố quan trọng nhưng ít được nghiên cứu đối với hiệu quả truyền thông là
thái độ của khán giả đối với nhà truyền thông. Trong số liệu thu được gián tiếp về vấn đề
này qua các nghiên cứu về "uy tín" mà ở đó đối tượng nghiên cứu được hỏi về thái độ đồng
tình hay phản đối với những phát ngôn của những cá nhân khác nhau, mức độ đồng ý
thường cao hơn khi những phát ngôn xuất phát từ những nguồn "uy tín". Có rất ít nghiên
cứu về tác động tương đối của hoạt động truyền thông có cùng nội dung thông tin được thực
hiện bởi những nhà truyền thông khác nhau đối với dư luận sau hoạt động truyền thông khi
không tính tới quan điểm của nhà truyền thông. Tuy nhiên bối cảnh nghiên cứu sau này có
thể xác thực hơn với hoàn cảnh thực tế mà những kết quả nghiên cứu sẽ được áp dụng.
ở một trong những báo cáo nghiên cứu của Hovland, Lumsdaine và Sherffield,
những ảnh hưởng của hoạt động truyền thông đã được nghiên cứu mà không xét tới nguồn
trong thiết kế bảng hỏi điều tra dư luận. Họ phát hiện rằng sau khi xem một bộ phim về
chiến tranh, những khán giả cho rằng mục đích của bộ phim là "tuyên truyền" thì thay đổi
thái độ ít hơn so với những khán giả cho rằng mục đích của phim là "thông tin". Nhưng một
nghiên cứu như vậy không loại trừ khả năng là những kết quả thu được có thể được giải
thích bởi những yếu tố tiền giả định; nghĩa là những người "không tin" vào những nguồn
thông tin đại chúng nhìn chung có thể ít phản hồi đối với những hoạt động truyền thông như
vậy. Nghiên cứu này được thiết kế nhằm giảm tối thiểu những khó khăn về phương pháp đề
cập ở trên qua việc kiểm tra thực nghiệm nguồn truyền thông và kiểm tra những ảnh hưởng
của nguồn tin tới quan điểm của đối tượng điều tra khi họ không biết về nguồn tin.
Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu này là nhằm điều tra mức độ thu thận thông tin của
dư luận từ những nguồn truyền thông có độ tin cậy cao và nguồn truyền thông có độ tin cậy
thấp sau một khoảng thời gian. Hovland, Lumsdaine và Sherffield đã chứng minh rằng một
số thay đổi trong dư luận hướng theo quan điểm của nhà truyền thông sau một khoảng thời
gian thì lớn hơn so với ngay sau khi hoạt động truyền thông diễn ra. Khoảng thời gian này
họ gọi là "hiệu ứng ngủ gật". Một giả thuyết mà họ đưa ra cho kết quả này là các cá nhân có
thể không tin tưởng vào động cơ của nhà truyền thông và ban đầu không quan tâm tới quan
điểm của nhà truyền thông nên sự thay đổi tức thời
trong thái độ là rất ít, thậm chí không có. Tuy nhiên, sau một thời gian họ có thể nhớ và
chấp nhận cái được thông tin nhưng không nhớ nguồn thông tin ấy từ đâu. Vì thế, họ có thể
cứ đồng tình với quan điểm nhà truyền thông đã trình bày. Trong nghiên cứu của ba học giả
ở trên , chỉ có một nguồn được sử dụng, vì vậy không có bất cứ kiểm tra nào về những ảnh
hưởng khác nhau khi nguồn bị nghi ngờ là có động cơ tuyên truyền và khi nó không có
động cơ như vậy. Thử nghiệm đang xét nhằm mục đích kiểm tra sự khác nhau trong việc lưu
giữ cũng như tiếp nhận những thông điệp khác nhau được những nguồn "tin cậy" và "không
tin cậy" cung cấp.
Thủ tục tiến hành
Thiết kế tổng thể của nghiên cứu nhằm trình bày hoạt động truyền thông như nhau
cho hai nhóm, nhóm thứ nhất là nhà truyền thông được xem là "tin cậy", và nhóm còn lại là
nhà truyền thông được xem là "không tin cậy". Các câu hỏi điều tra dư luận được thực hiện
trước, ngay sau khi, và một tháng sau hoạt động truyền thông.
Do khả năng có những yếu tố nhất định ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa nhà truyền
thông và nội dung của từng chủ đề truyền thông nên bốn chủ đề khác nhau (với tám nhà
truyền thông) đã được sử dụng. Với mỗi chủ đề hai bài viết được chuẩn bị, một thể hiện
quan điểm "đồng tình", một thể hiện quan điểm "phản đối" với vấn đề truyền thông. ứng
với mỗi bài viết là một nguồn "tin cậy" và "không tin cậy". Những chủ để truyền thông được
lựa chọn đều là những chủ đề đang được quan tâm và gây tranh luận nhằm thu được sự phân
chia tương đối đồng đều về dư luận truyền thông.
Page 2
Sau đây là bốn chủ đề và những nhà truyền thông được lựa chọn đại diện cho những
nguồn có "độ tin cậy cao" và "độ tin cậy thấp".
Nguồn
" độ tin cậy cao"
Nguồn
" độ tin cậy thấp"
A. Thuốc kháng chất Hi-xta-
min:
Thuốc kháng chất Hi-xta-min có
nên tiếp tục được bán mà không
có sự chỉ dẫn của bác sĩ?
Tạp chí Sinh học và Y
tế New England
Tạp chí A*
[một tạp chí tranh xuất bản
hàng tháng với số lượng
lớn]
B. Tàu ngầm nguyên tử:
Một tàu ngầm nguyên tử khả thi
có thể được xây dựng trong thời
kỳ này hay không?
Robert J. Oppenheimer Pravda
C. Tình trạng thiếu thép:
Liệu ngành công nghiệp thép có
phải chịu trách nhiệm cho tình
trạng thiếu thép hiện tại?
Bản tin của Ban kế
hoạch Quốc gia về
nguồn lực
Một nhà báo A*
[nhà báo chuyên mục của
một tập đoàn thông tấn
chống lao động, chống
chính sách cải cách mới,
"ủng hộ phái cánh tả"]
D. Tương lai của các rạp chiếu
bóng:
Với sự phát triển của TV, liệu sẽ
có sự suy giảm trong số lượng
các rạp chiếu bóng hoạt động
cho tới năm 1955?
Tạp chí Fortune Một nhà báo B*
[nhà báo chuyên về những
tin đồn đại của những minh
tinh màn bạc nữ cho một tập
đoàn thông tấn đặc quyền]
* Tên của một trong những tạp chí và hai trong số những nhà báo được sử dụng trong
nghiên cứu được giữ kín để tránh những rắc rối có thể gây cho họ. Những nguồn này sẽ
được đề cập tới từ đây về sau chỉ với những chữ cái được gán.
Trong một số trường hợp nguồn là những nhà báo và trong những trường hợp khác là
những ấn phẩm xuất bản định kỳ, một số là những nhà báo và ấn phẩm không có thật
(nhưng hợp lý), và số còn lại là có thật.
Những bản "đồng tình" hay "phản đối" của mỗi bài báo trình bày lượng sự kiện
ngang ngang nhau đối với mỗi chủ đề và sử dụng tư liệu về cơ bản là giống nhau. Chúng
khác nhau ở sự nhấn mạnh của tư liệu và ở kết luận rút ra từ những sự kiện. Bởi vì có hai
phiên bản cho mỗi chủ đề và chúng được chuẩn bị sao cho mỗi nguồn có thể được một
trong hai phiên bản, như vậy sẽ có bốn khả năng kết hợp về nội dung và nguồn cho mỗi
topic.
Hoạt động truyền thông được trình bày trong một cuốn sách nhỏ mà trong đó mỗi
chủ đề trong bốn chủ đề khác nhau đó sẽ có một bài báo cùng với tên của tác giả hay tạp chí
định kỳ ở cuối mỗi bài. Trật tự của các chủ đề trong các cuốn sách nhỏ được giữ nguyên.
Hai nguồn tin cậy và hai nguồn không tin cậy được thể hiện trong mỗi cuốn sách nhỏ. Hai
mươi tư cuốn sách nhỏ khác nhau thể hiện những khả năng kết hợp khác nhau được sử
dụng. Một ví dụ cho một sự kết hợp như vậy trong một cuốn sách nhỏ như sau:
Chủ đề Bài viết Nguồn
Tương lai của các rạp chiếu
bóng
Đồng tình Fortune
Tàu ngầm nguyên tử Phản đối Pravda
Tình trạng thiếu thép Đồng tình Nhà báo A
Page 3
Thuốc chống kháng Hi-xta-
min
Phản đối Tạp chí Sinh học
và
Y tế New
England
Những bảng hỏi được thiết kế nhằm thu thập số liệu về lượng thông tin sự kiện tiếp
nhận được từ hoạt động truyền thông và mức độ thay đổi quan điểm của đối tượng theo định
hướng của nhà truyền thông. Sự đánh giá của đối tượng điều tra về độ tin cậy nói chung của
mỗi nguồn cũng được thu thập, và trong phần sau bảng hỏi, đối tượng cũng được hỏi về sự
ghi nhớ tên tác giả của mỗi bài báo.
Đối tượng nghiên cứu là sinh viên khoa Sử của trường Đại học Yale. Bảng hỏi đầu
tiên được phát năm ngày trước hoạt động truyền thông và được giới thiệu với sinh viên dưới
hình thức một cuộc điều tra dư luận đơn thuần do "Hội Đồng điều tra dư luận quốc gia"
thực hiện. Những câu hỏi thăm dò dư luận chính về những chủ đề được lựa chọn cho hoạt
động truyền thông được phân bố rải rác trong nhiều câu hỏi không liên quan khác. Cũng có
những câu hỏi nhằm tìm hiểu sự đánh giá của đối tượng điều tra về độ tin cậy nói chung đối
với một danh mục dài các nguồn truyền thông trong đó bao gồm cả những nguồn quan
trọng được sử dụng trong hoạt động truyền thông được điều tra. Sự đánh giá của đối tượng
điều tra dựa trên nấc thang năm điểm từ "rất tin cậy" tới "rất không tin cậy".
Do các nhà điều tra mong đợi rằng đối tượng sẽ không liên hệ điều tra thực nghiệm
với bảng hỏi "trước đó", nên họ đã nghĩ ra cách tổ chức như sau: Chuyên gia thực nghiệm
cấp cao được mời giảng cho lớp khi giảng viên của lớp vắng mặt năm ngày sau khi thực
hiện bảng hỏi đầu tiên. Những nhận xét, đánh giá của chuyên gia đó sẽ là những chỉ dẫn
cho cuộc thử nghiệm:
Vài tuần trước đây Giáo sư [giảng viên của lớp] đã đề nghị tôi gặp gỡ với lớp trong
buổi sáng nay để thảo luận về giai đoạn nào đó của Những vấn đề đương đại. Giáo sư đã gợi
ý đó là một chủ đề thú vị về Tâm lý của hoạt động truyền thông. Chắc chắn đây là một vấn
đề quan trọng bởi vì rất nhiều trong số thái độ và quan điểm của chúng ta không dựa vào
kinh nghiệm trực tiếp mà dựa vào những gì chúng ta nghe trên đài hay đọc trên báo chí.
Cuối cùng tôi đã chấp nhận chủ đề thảo luận này nhưng với điều kiện tôi phải có một vài số
liệu sống thú vị để đưa ra bình luận của cá nhân. Vì vậy, chúng tôi đã thoả thuận sử dụng
tiết học này để điều tra về vai trò của việc đọc báo và tạp chí với tư cách là những phương
tiện truyền thông để báo cáo kết quả sau đó và thảo luận về tầm quan trọng của báo chí và
tạp chí trong lần thảo luận sau.
Chính vì lý do đó mà hôm nay tôi sẽ yêu cầu các bạn đọc một số đoạn trích từ những
bài báo trong những tờ báo và tạp chí xuất bản gần đây về những chủ đề thu hút tranh luận.
Các tác giả đã cố gắng tổng kết khái quát những thông tin sẵn có trong khi xem xét thấu
đáo nhiều kía cạnh khác nhau của vấn đề. Tôi đã lựa chọn những vấn đề mới nhất đang
được thảo luận rộng rãi và những chủ đề đang được được Gallup, Roper và những người
khác đang quan tâm nghiên cứu về công luận.
Các bạn làm ơn đọc mỗi bài báo cẩn thận như thể các bạn đang đọc nó trong tờ báo
và tạp chí các bạn yêu thích. Khi đọc xong mỗi bài báo, hãy viết tên của mình vào góc phải
bên dưới để đánh dấu rằng bạn đã đọc xong nó và tiếp tục đọc bài báo tiếp sau. Khi các bạn
hoàn tất việc đọc, sẽ có một câu hỏi ngắn về thái độ của bạn đối với những bài đọc.
Có ai hỏi gì trước khi chúng ta bắt đầu không?
Bảng hỏi thứ hai, được phát ra ngay sau khi những cuốn sổ nhỏ được thu hồi, có
hình thức hoàn toàn khác so với bảng hỏi trước đó. Nó bao gồm một loạt những câu hỏi
chung khái quát về thái độ của đối tượng điều tra đối với những bài báo, và dần dần chuyển
sang những câu hỏi chính về quan điểm của đối tượng về nội dung được thảo luận trong các
bài báo. Cuối bảng hỏi có một loạt những câu hỏi về các thông tin sự kiện. Mười sáu câu hỏi
lựa chọn, bốn cho mỗi phạm vi nội dung, được sử dụng cùng với một câu hỏi gợi lại trí nhớ
về tác giả của mỗi bài báo cho những bài báo đối tượng đọc.
Page 4
Bảng hỏi tương tự được thực hiện bốn tuần sau hoạt động truyền thông. Đối tượng
nghiên cứu không được báo trước rằng họ sẽ được một bảng hỏi thứ hai.
Tổng số đối tượng tham gia cho việc phân tích thông tin là 223. Do sinh viên khoa
Sử không bị bắt buộc phải đến lớp thường xuyên nên tổng số sinh viên có mặt trong cả ba
lần điều tra giảm đáng kể. Do tỉ lệ bắt buộc để phân tích thông tin trước và sau hoạt động
truyền thông nên số liệu sẽ được lấy từ 61 sinh viên có mặt trong cả ba lần. Do đó, để phục
vụ cho hoạt động phân tích chính, nghiên cứu đã sử dụng một mẫu gồm 244 hoạt động
truyền thông (bốn cho mỗi sinh viên). Do những phân tích khác nhau sẽ cần đến việc sử
dụng số lượng hoạt động truyền thông khác nhau, nên số lượng chính xác của các hoạt động
truyền thông sử dụng trong mỗi quá trình phân tích được trình bày trong mỗi bảng.
Kết quả
Trước khi tiến hành những phân tích chính, điều quan trọng là chỉ ra những cơ sở ưu
tiên đối với mức độ uy tín khác nhau mà các nguồn truyền thông được các chuyên gia thực
nghiệm lựa chọn phải thực sự được đối tượng điều tra công nhận và phản hồi lại. Một phần
trong bảng hỏi được phát trước hoạt động truyền thông đã yêu cầu đối tượng đánh giá sự độ
tin cậy của mỗi tác giả và ấn phẩm trong tương quan với các tác giả và ấn phẩm khác. Fig.
1 cung cấp phần trăm đối tượng đánh giá "độ tin cậy" của những nguồn điều tra.
Nguồn thứ nhất có tên bên dưới mỗi chủ đề được các nhà thực nghiệm chọn là có uy
tín cao, nguồn thứ hai là có uy tín thấp. Người ta thấy rằng có sự phân biệt rõ ràng về uy tín
trong định hướng lựa chọn ban đầu của nhà thực nghiệm. Sự khác biệt giữa các thành viên
của mỗi cặp trong bảng là rất đáng kể(.... từ 13 tới 20). Kết quả trong Fig. 1 thu thập được
từ tất cả số đối tượng có mặt khi bảng hỏi đầu tiên được thực hiện. Những tỷ lệ phần trăm
cho mẫu nhỏ hơn của các đối tượng có mặt trong cả ba lần điều tra không khác nhiều lắm so
với tỷ lệ của cả nhóm nói chung.
Sự khác nhau trong quan niệm truyền thông giữa những tiểu nhóm khán giả. Sau
hoạt động truyền thông, đối tượng được hỏi về ý kiến của họ đối với sự khách quan trong
việc trình bày mỗi chủ đề và mức độ hợp lý trong những kết luận nhà truyền thông đưa ra.
Mặc dù các hoạt động truyền thông được xem là giống nhau, nhưng có sự khác biệt lớn
trong cách đối tượng trả lời đối với nguồn có uy tín cao và nguồn có uy tín thấp. Đánh giá
của đối tượng cũng chịu ảnh hưởng của quan điểm cá nhân của họ đối với chủ đề trước khi
hoạt động truyền thông được thực hiện. Sự đánh giá của đối tượng về bốn hoạt động truyền
thông được trình bày trong Table 1. Có 14/16 khả năng so sánh, những nguồn có uy tín thấp
được đánh giá kém khách quan và ít hợp lý hơn những nguồn có uy tín cao tương ứng. Sự
khác biệt trong việc phản đối với quan điểm của nguồn truyền thông có uy tín thấp và việc
đồng tình với quan điểm của nguồn truyền thông có uy tín cao của công chúng, xét về mức
ý nghĩa là 0.0043 (Table 1).
ảnh hưởng của uy tín nguồn tin đối với sự tiếp nhận thông tin và
sự thay đổi quan điểm
Thông tin. Không có sự khác biệt đáng kể trong lượng sự kiện thông tin mà đối
tượng thu nhận được từ nguồn có uy tín cao và nguồn có uy tín thấp. Table 2 cung cấp số
lượng trung bình các câu trả lời đúng trong phần câu hỏi thông tin khi tư liệu được những
nguồn có uy tín cao và nguồn có uy tín thấp thực hiện.
3 Những giá trị khả năng đưa ra trong bảng mặc dù có ý nghĩa rất quan trọng nhưng được tín
toán một cách dè chừng. Phần trắc nhiệm quan trọng gồm hai phần được sử dụng triệt để,
mặc dù trong một số bảng có thể khẳng định rằng xu hướng khác biệt phù hợp với những dự
đoán lý thuyết, và do đó trắc nhiệm một phần có thể là hợp lý. Khi phân tích những thay
đổi, phần trắc nhiệm có ý nghĩa quan trọng đã cân nhắc tới mối quan hệ nội tại (Hovland,
Sheffield, và Lumsdaine, tiếp theo trang 138), nhưng những phân tích về sự đồng tình hay
phản đối trong dư luận sau hoạt động truyền thông lại được tính toán dựa trên giả định thận
trọng về sự độc lập của các hoạt động truyền thông riêng lẻ.
Page 5
Table 1. Đánh giá về sự "khách quan" và "hợp lý" của những hoạt động truyền thông
giống nhau......
* Câu hỏi: Bạn có cho rằng tác giả của bài báo khách quan trong việc trình bày những sự
kiện từ cả hai phía của vấn đề hay tác giả chỉ báo cáo một chiều?
** Câu hỏi: Bạn có cho rằng quan điểm của tác giả ở phần kết luận có phù hợp với tư liệu bày
hay bạn cho rằng quan điểm của tác giả không phù hợp với tư liệu trình bày?
Quan điểm, ý kiến. Có những khác biệt quan trọng trong mức độ thay đổi ý kiến về
một chủ đề khi tư liệu được truyền tải từ những nguồn khác nhau. Kết quả được phản ánh
trong Table 3. Đối tượng thay đổi ý kiến theo định hướng của nhà truyền thông trong đa số
trường hợp khi nguồn có uy tín cao hơn là khi nguồn có uy tín thấp. Mức độ khác biệt thấp
hơn 0.1.
Từ Figure 1 có thể thấy rằng chưa tới 100 % đối tượng đồng tình với quan điểm
thống nhất của cả nhóm về mức độ tin cậy của mỗi nguồn. Những kết trong Table 3 được tái
phân tích qua việc sử dụng đánh giá riêng của mỗi đối tượng với tư cách là biến độc lập về
uy tín nguồn tin. Những ảnh hưởng đối với ý kiến được nghiên cứu trong những trường hợp
mà nguồn tin được đánh giá là "rất tin cậy" hoặc "tương đối tin cậy" và trong những trường
hợp nguồn tin được đánh giá là "không tin cậy" hoặc "ít tin cậy". Kết quả thu được từ phân
tích này được trình bày trong Table 4. Kết quả trong việc sử dụng đánh giá của đối tượng về
độ tin cậy của nguồn tin nói chung là tương tự như kết quả khi độ tin cậy của nguồn được
phân tích theo phân loại ưu tiên của các chuyên gia thực nghiệm (Table 3). Chỉ có một số
thay đổi nhỏ. Có thể thấy mặc dù biến được lựa chọn đôi chút "thuần hơn"(purer) trong
phân tích này, lợi thế này được bù lại bởi sự khác biệt có chiều hướng gia tăng đối với sự
không tin cậy trong đánh giá của bản thân đối tượng về độ tin cậy của nguồn tin.
Lưu giữ thông tin và ý kiến trong mối quan hệ với nguồn tin
Thông tin. Giống trường hợp đối với kết quả ngay sau khi hoạt động truyền thông
diễn ra (Table 2), không có sự khác biệt trong việc lưu giữ thông tin sự kiện sau bốn tuần
giữa những nguồn có uy tín cao và những nguồn có uy tín thấp. Kết quả trong Table 5 cho
thấy những điểm số lưu giữ thông tin trung bình cho một trong bốn chủ đề nghiên cứu bốn
tuần sau hoạt động truyền thông.
ý kiến. Kết quả đạt được rất đáng quan tâm đối với sự bảo lưu những thay đổi về ý
kiến. Table 6 cho thấy những thay đổi trong ý kiến từ ngay sau hoạt động truyền thông đến
những thay đổi ý kiến bốn tuần sau hoạt động truyền thông. Có thể thấy rằng so với những
thay đổi ngay sau hoạt động truyền thông, có sự suy giảm ở mức độ đồng tình với nguồn có
uy tín cao, nhưng lại có sự gia tăng đối với nguồn có uy tín thấp. Như vậy, kết quả này
tương tự như "hiệu ứng ngủ gật" mà Hovland, Lumsdaine và Sheffield đã phát hiện. Kết quả
thu được từ Table 3 và 6 được so sánh trong Figure 2, ở đó chỉ rõ những thay đổi về ý kiến
từ trước tới ngay sau khi và từ trước tới bốn tuần sau hoạt động truyền thông.
Sự mất đối với nguồn"tin cậy" và sự được của nguồn "không tin cậy" được thể hiện
rõ trên biểu đồ. Một phân tích song song sử dụng đánh giá cá nhân của đối tượng về uy tín
nguồn tin (tương tự như phương pháp của Table 4) cho thấy kết quả nhìn chung là tương tự.
Lưu giữ tên nguồn tin. Một giả thuyết được đưa ra cho "hiệu ứng ngủ gật" liên quan
tới giả định rằng việc quên nguồn tin có thể sẽ xảy ra nhanh hơn so với việc quên nội dung.
Đây là điểm khó kiểm chứng nhất về mặt thực nghiệm bởi vì những kiểm chứng về việc lưu
giữ nguồn và việc lưu giữ nội dung hầu như không thể tương đương. Tuy nhiên, có thể so
sánh việc ghi nhớ tên nguồn khi đối tượng ban đầu đồng ý với quan điểm của nguồn tin và
coi nhà truyền thông là nguồn "tin cậy" với những nguồn mà họ bất đồng quan điểm và coi
là "không tin cậy". Số liệu về phần này được trình bày trong Table 7.
Không có sự khác biệt rõ ràng ngay sau hoạt động truyền thông chứng tỏ việc tiếp
thu ban đầu tên của những nguồn khác nhau là có thể so sánh được (hay đáng kể). Tuy
nhiên trong một thời gian sau đó xuất hiện sự khác biệt rõ ràng trong việc lưu giữ tên của
Page 6
những nguồn tin "không tin cậy" trong nhóm ban đầu đồng tình với quan điểm của nhà
truyền thông khi so sánh với nhóm không đồng tình với quan điểm của nhà truyền thông (p
= .02). Do "hiệu ứng ngủ gật" xuất hiện trong nhóm ban đầu không đồng tình với nguồn
không tin cậy (nhưng sau đó lại đồng tình), rất thú vị khi lưu ý rằng trong nhóm này việc
lưu giữ tên nguồn tin lại thấp nhất. Có rất ít đối tượng có mặt để kiểm tra liệu rằng việc lưu
giữ là thấp hơn trong số chính những đối tượng có "hiệu ứng ngủ gật" nhưng lại không có sự
khác biệt rõ ràng từ sự phân tích của mẫu nhỏ.
Thảo luận
Trong điều kiện của lần thử nghiệm này, cả sự tiếp nhận và lưu giữ thông tin sự kiện
đều không bị ảnh hưởng bởi độ tin cậy của nguồn. Tuy nhiên thay đổi trong quan điểm thì
lại có quan hệ sâu sắc tới độ tin cậy của nguồn tin trong hoạt động truyền thông. Sự khác
biệt này là phù hợp với những kết quả trong báo cáo nghiên cứu của Hovland, Lumsdaine và
Sheffield, những người đã phát hiện ra sự khác biệt rõ ràng giữa những ảnh hưởng của phim
ảnh đối với thông tin và dư luận. Đối với thông tin sự kiện, họ khám phá ra rằng những khác
biệt trong việc tiếp nhận và lưu giữ có quan hệ chủ yếu tới những khác biệt trong năng lực
học tập. Nhưng đối với quan điểm thì yếu tố quan trọng nhất là mức độ "tiếp nhận" của tư
liệu. Trong cuộc thử nghiệm này, biến này có thể tham gia với tư cách là hệ quả của sự khác
biệt trong uy tín nguồn tin.
Những kết quả từ thử nghiệm này bổ sung những chi tiết quan trọng cho những phát
hiện của Hovland, Lumsdaine và Sheffield về bản chất của "hiệu ứng ngủ gật". Trong khi họ
buộc phải đưa ra những suy luận/kết luận về khả năng không tin cậy của nguồn, yếu tố này
luôn được kiểm soát về mặt thực nghiệm trong thử nghiệm này và đã chứng tỏ là yếu tố
quyết định có ý nghĩa quan trọng trong những thay đổi quan điểm tiếp sau đó. Trong phân
biệt của họ về "học tập" và "tiếp nhận", người ta có thể giải thích những kết quả từ thử
nghiệm này bằng việc khẳng định rằng nội dung của truyền thông (những giả thuyết, lập
luận,... ) được nhớ và bị quên với mức độ như nhau bất kể nhà truyền thông là ai. Nhưng
mức độ thay đổi quan điểm ý kiến phụ thuộc vào cả việc học và tiếp nhận, và ảnh hưởng của
nhà truyền thông không tin cậy sẽ can thiệp vào sự tiếp nhận tư liệu truyền thông ("Tôi biết
điều ông ta nói nhưng tôi không tin"). Những học giả được đề cập ở phần trước gợi ý rằng
sự can thiệp này giảm đi theo thời gian và với tốc độ nhanh hơn việc quên nội dung, cái
cung cấp cơ sở cho việc tạo dựng quan điểm ý kiến. Điều này có thể dẫn tới mức độ nhìn
chung như nhau trong sự đồng tình với quan điểm của nguồn tin cậy cũng như không tin
cậy trong lần thứ hai thực hiện bảng hỏi. Đối với nguồn tin cậy, việc quên nội dung có thể là
nguyên nhân chủ yếu cho sự suy giảm trong mức độ thay đổi quan điểm. Nhưng với nguồn
không tin cậy thì sự suy giảm do việc quên lại được thay thế bởi việc yếu tố "không tiếp
nhận" không còn khả năng can thiệp. Như vậy ảnh hưởng thực còn lại sẽ là sự gia tăng trong
mức độ đồng tình với quan điểm của nguồn tin tại thời điểm thực hiện bảng hỏi lần hai sau
hoạt động truyền thông. Những kết quả này hoàn toàn phù hợp với giả thuyết cho rằng có sự
khác biệt lớn trong mức độ đồng tình với những nguồn tin cậy và không tin cậy ngay sau
hoạt động truyền thông, nhưng mức độ đồng tình với hai nhóm nguồn thì gần như giống
nhau sau bốn tuần.
Công thức của Hovland, Lumsdaine và Sheffield khiến việc quên nguồn trở thành
điều kiện quan trọng đối với hiện tượng "ngủ gật". Trong phân tích này, yêu cầu quan trọng
là xu hướng giảm đối với tư liệu thông tin của nguồn không tin cậy sau một khoảng thời
gian4. Điều này có thể hoặc có thể không bắt buộc nguồn tin phải bị quên. Tuy nhiên khi
thời gian trôi qua mỗi đối tượng chắc chắn có thể ít liên hệ một cách ngẫu nhiên nội dung
với nguồn tin, chính vì vậy, sự trôi qua của thời gian như là một yếu tố trung gian góp phần
xoá đi việc lưu giữ nguồn và gây ra sự phản đối5.
4Trong phần phân tích này sự khác biệt trong những ảnh hưởng của nguồn tin cậy và không
tin cậy được chủ yếu là do những ảnh hưởng bác bỏ tiêu cực đối với nguồn không tin cậy.
Page 7
Mặt khác, trong những nghiên cứu về uy tín nguồn tin, ảnh hưởng thường do sự gia tăng ảnh
hưởng tích cực của nguồn tin uy tín. Trong cả hai trường hợp nghiên cứu chỉ có một sự khác
biệt trong ảnh hưởng của hai loại tác động. Nghiên cứu trong tương lại phải thiết lập được
một nền tảng "trung tính" hữu hiệu nhằm trả lời cho câu hỏi về định hướng tuyệt đối của
những ảnh hưởng.
5 Trong hiếm các trường hợp với thời gian có thể xảy ra sự thay đổi về thái độ đối
với nguồn, trong trường hợp như vậy người ta nhớ nguồn nhưng không còn có khuynh
hướng thờ ơ và phản đối gay gắt tư liệu truyền thông nữa. Chưa có chứng cứ gì được phát
hiện chứng minh cho sự hoạt động của yếu tố này trong cuộc thực nghiệm này; số liệu của
chúng tôi không chỉ ra sự khác biệt đáng kể trong sự đánh giá về độ tin cậy của nguồn từ
lúc trước cho tới khi sau hoạt động truyền thông.
Chính trong mối liên hệ này sự khác biệt về phương pháp được đề cập trước đây giữa
thủ tục tiến hành thử nghiệm này và thủ tục thường được vận dụng trong các nghiên cứu về
"uy tín" trở nên rất quan trọng. Trong phần phân tích này, nguồn không tin cậy được coi là
một dấu hiệu dẫn đến sự không tiếp nhận. Khi một đối tượng được hỏi về quan điểm tại thời
điểm mà đối tượng ngẫu nhiên không thể nhớ quan điểm của nguồn tin. Vì vậy, nguồn
không phải là dấu hiệu tạo ra quan điểm không chấp nhận ở đối tượng. Trong kỹ phương
pháp nghiên cứu "uy tín" thông thường, việc gắn tên của nguồn với phát ngôn sẽ góp phần
khôi phục nguồn với tư cách là một dấu hiệu; và vì vậy những hiệu ứng phân biệt đạt được
trong thiết kế hiện tại sẽ không thể đạt được. Một thử nghiệm hiện đang được thực hiện để
xác định liệu rằng "hiệu ứng ngủ gật" sẽ mất đi khi dấu hiệu nguồn được nhà thực nghiệm
khôi phục tại thời điểm sự kiểm chứng về sự thay đổi quan điểm bị trì hoãn.
Cuối cùng, kết quả chung thu được có thể khái quát một cách ngắn gọn như sau:
Trong nghiên cứu này, toàn bộ đối tượng là sinh viên đại học. Trong tương lai cần phải có
những nghiên cứu đối với các nhóm đối tượng khác nhau về độ tuổi và trình độ. Bốn chủ đề
và tám nguồn tin được sử dụng nhằm làm tăng sự khái quát của biến về "nguồn tin". Tuy
nhiên, chưa có sự phân tích về những khác biệt trong ảnh hưởng tới hiệu quả truyền thông ở
những chủ đề khác nhau. Nhìn một cách tổng thể, ảnh hưởng của hoạt động truyền thông
của chủ đề " Tàu ngầm nguyên tử" và"Tình trạng thiếu thép" thì lớn hơn và có quan hệ chặt
chẽ hơn với độ tin cậy của biến số nguồn hơn là ảnh hưởng của chủ đề "Tương lai của điện
ảnh". Sự phân tích nguyên nhân của những ảnh hưởng khác nhau là một vấn đề nghiên cứu
thú vị trong tương lai. Việc nhắc lại nghiên cứu bằng một chắc nghiệm đơn cho mỗi quãng
nghỉ của hoạt động truyền thông thì thoả đáng hơn so với việc kiểm chứng hai lần, mặc dù
sự khác biệt trong việc kiểm chứng có thể ít quan trọng về mặt quan điểm hơn là với những
câu hỏi thông tin. Việc khái quát hoá kết quả nghiên cứu mới chỉ tập trung vào tình huống
các đối tượng được tiếp cận thực nghiệm với hoạt động truyền thông; hay tình huống "khán
giả bất đắc dĩ". Một vấn đề nghiên cứu thú vị khác có thể là việc lặp lại thử nghiệm trong
những điều kiện giống tự nhiên, nơi các đối tượng có thể tự kiểm soát sự tiếp cận của họ đối
với hoạt động truyền thông. Cuối cùng, đối với nghiên cứu này, điều quan trọng là việc sử
dụng những nguồn tin có thái độ ủng hộ rõ ràng một trong hai mặt của một vấn đề truyền
thông. Có những kết hợp khác về quan điểm và nguồn tin mà ở đó nhà truyền thông và quan
điểm của họ gắn bó chặt chẽ tới mức người ta có thể tức khắc liên tưởng tới nguồn tin khi
họ nghĩ tới vấn đề. Trong những điều kiện như thế, việc quên nguồn có thể không xảy ra mà
kết quả cũng sẽ không có "hiệu ứng ngủ gật".
Kết luận
1. Những ảnh hưởng của uy tín nguồn tin tới việc tiếp nhận và lưu giữ tư liệu truyền thông
được nghiên cứu bằng việc trình bày nội dung truyền thông giống nhau của những
nguồn mà khán giả coi là có độ "tin cậy cao" hay có độ "tin cậy thấp". Những ảnh
hưởng của nguồn tin đối với sự kiện thông tin và với quan điểm được đo đạc bằng việc
Page 8
sử dụng các bảng hỏi điều tra trước, ngay sau khi và bốn tuần sau hoạt động truyền
thông.
2. Sự phản hồi tức thì đối với mức độ "khách quan" của việc trình bày và mức độ "hợp lý"
trong những kết luận rút ra từ hoạt động truyền thông chịu ảnh hưởng lớn từ quan điểm
ban đầu của đối tượng nghiên cứu về chủ đề và từ sự đánh giá của đối tượng về mức độ
tin cậy của nguồn tin: đối với những hoạt động truyền thông giống nhau 71.7 % trường
hợp được những đối tượng ban đầu có cùng quan điểm với nhà truyền thông cho rằng
kết luận của nguồn có uy tín cao là "hợp lý", nhưng chỉ có 36.7 % trường hợp được đối
tượng có quan điểm khác với nhà truyền thông cho rằng kết luận của nguồn có uy tín
thấp là "hợp lý".
3. Không có sự khác biệt trong lượng sự kiện thông tin tiếp nhận từ nguồn có "uy tín cao"
và nguồn có "uy tín thấp", và không có sự khác biệt trong lượng thông tin lưu giữ trong
khoảng thời gian bốn tuần sau hoạt động truyền thông.
4. Mức độ thay đổi quan điểm của đối tượng ngay sau hoạt động truyền thông theo định
hướng của nhà truyền thông lớn hơn nhiều khi tư liệu thông tin do nguồn tin cậy thực
hiện hơn là do nguồn không tin cậy.
5. Có sự suy giảm ở mức độ đồng tình của đối tượng đối với quan điểm của nhà truyền
thông khi tư liệu do nguồn tin cậy thực hiện sau một khoảng thời gian truyền thông,
nhưng lại có sự gia tăng khi tư liệu được truyền thông bởi nguồn không tin cậy.
6. Việc quên tên của nguồn thì chậm hơn trong số những đối tượng lúc đầu ủng hộ nguồn
tin cậy hơn là trong số những đối tượng không ủng hộ nó.
7. Những ý nghĩa về mặt lý thuyết của kết quả nghiên cứu được thảo luận. Số liệu về
những thay đổi trong quan điểm sau hoạt động truyền thông (dưới tác động của hiệu ứng
ngủ gật) có thể được lý giải bằng giả thuyết rằng việc tiếp nhận nội dung truyền thông là
ngang nhau dù cho nó được thực hiện bởi nguồn tin cậy hay không tin cậy, tuy nhiên có
sự phản kháng ban đầu đối với sự tiếp nhận tư liệu của nguồn truyền thông không tin
cậy. Nếu sự phản kháng trong việc tiếp nhận giảm đi cùng với thời gian trong khi chính
nội dung mới là cơ sở tạo dựng quan điểm bị quên chậm hơn, thì sẽ có sự gia tăng trong
mức độ ủng hộ với nguồn không tin cậy sau hoạt động truyền thông.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ảnh hưởng của uy tín đối với hiệu quả truyền thông.pdf