Như vậy, từ khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của WTO đến năm 2010,
ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam
tiếp tục tăng qua các năm. Trong tương lai,
bên cạnh những điều kiện thuận lợi như sự ổn
định về chính trị của Việt Nam, công cuộc đổi
mới ở nước ta đang đạt được những thành tựu
cần phải ghi nhận, cũng như uy tín của Việt
Nam đang được tăng thêm. Thêm vào đó hiện
nay xu thế toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc gia tăng thương mại và đầu tư
quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế. Vì thế viện trợ ODA của
Nhật Bản cho Việt Nam trong những năm
tới dự báo sẽ tiếp tục tăng và không bị ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng của nước Mỹ
(2011); cũng như trận động đất sóng thần
vào ngày 11.3.2011 đã ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế Nhật.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản dành cho Việt Nam từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO đến nay (2010), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 149
VIỆN TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) CỦA NHẬT BẢN DÀNH CHO
VIỆT NAM TỪ SAU KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN
CỦA TỔ CHỨC WTO ĐẾN NAY (2010)
Bùi Thị Kim Thu*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Kể từ năm 1992, mối quan hệ giữa Việt Nam - Nhật Bản chính thức được tái thiết sau 13 năm gián
đoạn (1979 - 1992). Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản được thể hiện qua các lĩnh vực: quan hệ
thương mại, quan hệ đầu tư (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Ba lĩnh vực này cũng
là những mục tiêu chính mà Chính phủ Việt Nam đang đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế và
xoá đói giảm nghèo. Trong đó, viện trợ ODA là lĩnh vực đã có vai trò rất lớn trong sự phát triển
kinh tế-xã hội Việt Nam. Đặc biệt, từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì
nguồn viện trợ đó ngày càng tăng lên bất chấp những khó khăn mà cuộc khủng hoảng 2008 ở Mỹ
đưa đến. Có thể nói hình thức ODA là “chiếc chìa khoá” ngoại giao kinh tế để từ đó mà Nhật Bản
có thể mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực kinh tế khác.
Từ khoá: Viện trợ phát triển chính thức (ODA), kinh tế, xã hội, Việt Nam, Nhật Bản.
Trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính
thức thứ 150 của tổ chức WTO vào ngày
11.7.2006 thì việc viện trợ ODA của Nhật Bản
dành cho Việt Nam đã đạt được những thành
tựu khả quan. Nhật Bản thường phát huy vai
trò của mình ở châu Á bằng các chương trình
viện trợ phát triển chính thức ODA to lớn. Với
Việt Nam cũng vậy, họ thực hiện các hoạt
động cho vay ưu đãi ngay từ trước khi đẩy
mạnh các hoạt động đầu tư và thương mại.
Mục đích ODA của Nhật Bản là giúp Việt
Nam khôi phục kinh tế-xã hội và cải cách thị
trường nhằm góp phần tăng cường sự phát
triển ổn định và hợp tác trong khu vực, trước
hết là sự chuẩn bị để hợp tác với chính phủ
Nhật Bản. Do đó, ODA Nhật Bản được coi là
những bước đi đầu của việc tạo lập nền móng
cho đầu tư trực tiếp và phát triển buôn bán.
VIỆN TRỢ CỦA NHẬT BẢN CHO VIỆT
NAM TRƯỚC 2006
Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ chính
thức ODA cho Việt Nam từ tháng 11.1992
sau khi có “Hội thảo quốc tế về chuyển sang
kinh tế thị trường”. Chính phủ Nhật Bản đã
thông báo quyết định viện trợ ODA trở lại
Tel: 0976 1985 86, Email: thubtk@tnu.edu.com
cho Việt Nam với một khoản tín dụng ưu đãi
bằng hàng hoá trị giá 45,5 tỷ yên với ưu đãi
1,7%/năm trong vòng 30 năm trong đó 10
năm đầu không phải trả lãi [1 tr.43]. Như vậy,
sau 14 năm gián đoạn (1979-1992) mà
nguyên cớ là từ phía Nhật Bản đã thực thi cái
gọi là “phạt” Việt Nam vì đã đưa quân đội
vào Campuchia đến nay đã được giải toả cũng
chính là từ phía Nhật Bản chủ động thực thi.
Việc Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ Việt
Nam, không chỉ thúc đẩy mối quan hệ giữa
hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao
và kinh tế. Đồng thời còn có tác động không
nhỏ tới các quan hệ đối ngoại khác, các tổ
chức quốc tế khác cũng đã quyết định nối lại
viện trợ cho Việt Nam, hỗ trợ quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của
Việt Nam
Hiện nay, Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn
nhất cho Việt Nam. Tính đến cuối năm 2005,
tổng số ODA của Nhật Bản dành cho Việt
Nam đã vượt qua con số 10 tỷ USD, xấp xỉ
10,5 tỷ USD trong đó trên 10% là viện trợ
không hoàn lại, phần còn lại là các khoản ưu
đãi tín dụng với lãi suất thấp và thời gian tài
trợ dài. Tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài
trợ cho Việt Nam (CG) những năm vừa qua,
Nhật Bản tiếp tục khẳng định vị trí là nhà tài
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 150
trợ đứng đầu ở Việt Nam. Đặc biệt sau khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO, Nhật Bản đã tăng cường tài trợ ODA
cho Việt Nam.
VIỆN TRỢ CỦA NHẬT BẢN CHO
VIỆT NAM TỪ 2006-2010
Tháng 6.2006, Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà
Nội công bố chính sách ODA mới của Nhật
Bản cho Việt Nam. Chính sách này được
hoạch định từ năm 2000 và từ năm 2008 bắt
đầu áp dụng sẽ trở thành chính sách ODA cơ
bản cho Việt Nam trong thời gian tới. Điểm
khác biệt so với chính sách ODA cũ là các dự
án nhận hỗ trợ sẽ được lựa chọn thông qua
đối thoại chứ không theo yêu cầu như trước
đây và khoản hỗ trợ được hoạch định ngay tại
nước nhận ODA nhằm sử dụng nguồn vốn
một cách có hiệu quả. Do vậy, chính sách
ODA mới của Nhật Bản ưu tiên hỗ trợ vào 3
lĩnh vực sau:
(1) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để thực
hiện mục tiêu này, Nhật Bản sẽ tập trung hỗ
trợ vào lĩnh vực cải cách kinh tế như hoàn
thiện môi trường đầu tư, phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, phát triển kinh tế tư nhân,
nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông vận tải,
điện lực, công nghệ thông tin, đào tạo nguồn
nhân lực, cải cách doanh nghiệp nhà nước.
(2) Cải thiện xã hội
(3) Hoàn thiện thể chế pháp luật. Nhật Bản hỗ
trợ Việt Nam cải cách hành chính, trong đó có
cải cách chế độ công chức thông qua sử dụng
kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến của Nhật
Bản [2 tr.14].
Như vậy, chính sách ODA của Nhật Bản đặc
biệt chú ý đến phát triển cơ sở hạ tầng để tạo
điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt
Nam, phát triển nguồn nhân lực và giải quyết
tốt các vấn đề xã hội như phát triển bền vững.
Thực hiện những ưu tiên phát triển như vậy
ODA của Nhật Bản đã có tác dụng tích cực
đến phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội của Việt Nam trong những năm qua.
Ba lĩnh vực này cũng là những mục tiêu chính
mà Chính phủ Việt Nam đang đặt ra trong kế
hoạch phát triển và xoá đói giảm nghèo.
Chính sách ODA mới này một lần nữa được
ghi nhận và xem xét nghiêm túc trong cuộc
họp giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và
Thủ tướng Shinzo Abe tại Nhật Bản ngày
19.10.2006.
So với các nước trong khu vực, Nhật Bản là
nước tài trợ ODA hàng đầu cho Việt Nam.
Năm 2006 viện trợ ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam đạt mức cao, trị giá lên tới 835,6
triệu USD. Tại hội nghị nhóm các nhà tài trợ
quốc tế cho Việt Nam vào tháng 7 năm 2007,
Nhật Bản tuyên bố viện trợ ODA cho năm tài
khoá 2007 mức kỉ lúc 123 tỷ Yên khoảng (1,1
tỷ USD) tăng 19% so với năm 2006 trong đó
viện trợ không hoàn lại là 7,4 tỷ Yên [4].
Ngày 23.2.2009, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật
Bản Hirofumi Nakasone tuyên bố nối lại
ODA cho Việt Nam sau 6 tháng tạm ngưng
(từ tháng 8/2008 đến 2/2009) sau một trường
hợp tham nhũng tai tiếng (được biết đến dưới
tên vụ tham nhũng CPI) liên quan đến Dự án
đại lộ Đông-Tây ở Sài Gòn tài trợ bởi ODA
Nhật Bản đã bị phanh phui. Đồng thời cam kết
khoản viện trợ ODA cho Việt Nam tài khoá
năm 2008 trị giá 83,2 tỷ Yên (900 triệu USD).
Ngày 26.10.2009, Chính phủ Nhật Bản đã
quyết định cung cấp 64,891tỷ Yên (hơn 721
triệu USD) vốn viện trợ phát triển chính thức
cho Việt Nam thuộc đợt 1 tài khoá 2009 nhằm
hỗ trợ phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam.
Trong năm 2009, ODA của Nhật Bản dành
cho Việt Nam đã đạt 155 tỷ yên, cao nhất từ
trước đến nay. Khoản vốn vay này sẽ được
đầu tư cho 6 dự án lớn: Xây dựng đường tàu
điện ở Thủ đô Hà Nội; Đường vành đai 3 Hà
Nội; Đường tàu cao tốc từ Thành phố Hồ Chí
Minh đến Dầu Giây; Cải thiện môi trường
nước Thành phố Hồ Chí Minh, Cải thiện môi
trường nước ở thành phố Huế; và Dự án xây
dựng mạng lưới truyền tải điện. Thông qua
các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam
xây dựng nhiều công trình hạ tầng kinh tế - xã
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 151
hội như: khôi phục Bệnh viện Chợ Rẫy
(Thành phố Hồ Chí Minh), xây dựng Cảng cá
Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp Bệnh viện Bạch
Mai, xây dựng hệ thống cấp nước ở Gia Lâm
(Hà Nội) và Hải Dương, xây dựng các cầu
nhỏ ở nông thôn, và hơn 200 trường tiểu học
ở vùng bão, nâng cấp và xây dựng nhiều công
trình như: quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10,
các cầu trên quốc lộ 1, Nhà máy nhiệt điện
Phả Lại 2, Phú Mỹ 1, Nhà máy thủy điện
Hàm Thuận - Đa Mi, đại lộ Đông - Tây
(Thành phố Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy
(Quảng Ninh), cầu Thuận Kiều (Hải Phòng),
cầu Thanh Trì (Hà Nội), đường hầm xuyên
đèo Hải Vân v.v.. Đáng lưu ý, cầu Bãi Cháy
hiện đang là cầu lớn và hiện đại nhất không
chỉ ở Việt Nam mà cả ở Đông - Nam Á, và là
một trong 5 cầu hiện đại nhất thế giới.
Ngày12/03/2010, tại Tổng lãnh sự quán Nhật
Bản, TP.Hồ Chí Minh, đã diễn ra lễ ký kết
hợp đồng viện trợ không hoàn lại với tổng số
tiền 478.690 USD cho 5 dự án thuộc chương
trình viện trợ không hoàn lại của chính phủ
Nhật Bản tại Việt Nam. Đặc biệt, chương
trình này không dựa trên yêu cầu của chính
phủ Việt Nam mà dựa vào yêu cầu xin viện
trợ từ chính quyền địa phương.
Cụ thể 5 dự án trong chương trình viện trợ lần
này bao gồm 2 dự án trang thiết bị y tế cho
bệnh viện Hàm Long (Bến Tre) và phòng
khám đa khoa tại Hậu Giang, 2 dự án xây
dựng trường tiểu học tại Ninh Thuận và Bình
Thuận, 1 dự án xây dựng hệ thống cống đập
tại Cần Giuộc, Long An.
Tính cả 5 dự án này, trong năm tài khoá 2009
đến cuối tháng 3.2010, Tổng lãnh sự Nhật
Bản đã thực hiện tổng cộng 9 dự án với tổng
số tiền là 855.97 USD [5]. Đây là chương
trình viện trợ không hoàn lại lớn nhất từ trước
đến nay dành cho các địa phương của chính
phủ Nhật Bản trong vòng 15 năm qua. Ngoài
ra, một dự án trang thiết bị y tế cho huyện
Long Mỹ, Hậu Giang cũng đã được ký kết.
Tính đến cuối năm 2010, tổng số tiền viện
trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản đã
lên đến hơn 7,8 triệu USD, triển khai tại 26
tỉnh thành trên cả nước
Ngày 2.3.2010 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư Võ Hồng Phúc và Đại sứ Nhật Bản tại
Việt Nam, ông Sakaba Mitsuo, đã ký kết
Công hàm trao đổi về việc Chính phủ Nhật
Bản cung cấp cho Chính phủ Việt Nam 25,8
tỷ Yên (tương đương 285 triệu USD) vốn vay
ODA thuộc đợt hai năm tài khoá 2009 để tiếp
tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam phát triển cơ
sở hạ tầng kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường,
tạo điều kiện thận lợi để Việt Nam tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập
kinh tế quốc tế [5].
Khoản ODA lần này đã nâng tổng số vốn
ODA của Nhật Bản cho Việt Nam lên 1,56 tỷ
USD cho năm tài khoá 2009, và sẽ được sử
dụng trong việc triển khai 5 dự án, gồm Dự án
nhà ga T2 Nội Bài (12,6 tỷ Yên); Dự án
đường cao tốc từ Nhật Tân đi Nội Bài (6,5 tỷ
Yên); Dự án xây dựng cầu Cần Thơ (4,6 tỷ
Yên); Dự án khôi phục cầu Quốc lộ 1 giai
đoạn 3, đoạn Cần Thơ- Cà Mau (1 tỷ Yên) và
Dự án phát triển cơ sở hạ tầng Khu công nghệ
cao Hoà Lạc (1,005 tỷ Yên) [6].
Đại sứ Nhật Bản Sakaba Mitsuo cho biết,
trong số 5 dự án trên, Đại sứ hy vọng rằng 2
dự án quan trọng có liên quan mật thiết với
nhau là Dự án đường cao tốc Nội Bài-Nhật
Tân và Nhà ga T2 Nội Bài sẽ được triển khai
thuận lợi và hoàn thành tiến độ vào năm
2014. Vốn vay cho Dự án nhà ga T2 Nội Bài
có mức lãi suất 0,2% / năm, trong thời hạn 40
năm, gồm 10 năm ân hạn.
Theo ông Sakaba Mitsuo, vào cuối tháng 3
năm 2010 Nhật Bản sẽ công bố chính thức
thêm tổng số viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ
kỹ thuật cho năm tài khoá 2009, dự kiến trị giá
110 triệu USD. Như vậy, tổng số vốn viện trợ
cho Việt Nam năm tài khoá 2009 sẽ lên tới
1,67 tỷ USD, số vốn lớn nhất từ trước tới nay
của Nhật Bản dành cho Việt Nam. Trong 6
tháng đầu năm 2010, tổng số vốn của Nhật
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 152
Bản cho Việt Nam vay ước tính là 100 tỷ yên,
cao hơn nhiều so với những năm trước.
Nhật Bản luôn là nước cung cấp ODA lớn
nhất cho Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng.
Đại sứ nhấn mạnh rằng, hiện các khoản vay
viện trợ của Nhật Bản dành cho Việt Nam đều
có mức lãi suất rất thấp, không quá 1%/năm
do Nhật Bản tiếp tục duy trì quan điểm đối tác
chiến lược với Việt Nam và hỗ trợ phát triển
kinh tế, đồng thời tạo ưu tiên cho các doanh
nghiệp Nhật Bản tham gia triển khai các dự
án sử dụng vốn vay của Nhật Bản.
Vào tháng 10/2010, trong chuyến thăm Việt
Nam, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan cũng
cam kết tiếp tục hỗ trợ ODA cho Việt Nam để
thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn,
như là xây dựng sân bay, bến cảng, đường
quốc lộ, đường cao tốc Bắc–Nam. Cuối tháng
5.2010, tại Hà Nội, Hội nghị đối thoại chính
sách giữa Việt Nam và Nhật Bản đã xây dựng
các dự án mới mà Nhật Bản có khả năng viện
trợ cho Việt Nam trong tài khoá mới.
Ba dự án sẽ được xem xét là Dự án xây dựng
đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Bến Lức -
Long Thành), Dự án Trung tâm Vũ trụ Việt
Nam (Khu công nghệ cao Hoà Lạc) và tiếp
tục cung cấp ODA cho Nhà máy Điện Nghi
Sơn (Thanh Hóa).Từ năm 1992-2010, ODA
của Nhật Bản dành cho Việt Nam khoảng hơn
14 tỷ USD chiếm khoảng gần 50% lượng
ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành
cho Việt Nam
Dự kiến, quý III/2011, phía Nhật Bản sẽ cử
đoàn chuyên gia sang thẩm định các dự án
mới trước khi quyết định các thủ tục tiếp theo.
Bên cạnh đó, Việt Nam và Nhật Bản cũng đã
thống nhất sẽ tiếp tục thảo luận để sớm thống
nhất việc ký kết Công hàm trao đổi tín dụng
ưu đãi cho Dự án phát triển cơ sở hạ tầng
Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng.
TÁC ĐỘNG CỦA ODA ĐẾN NỀN KINH
TẾ CỦA VIỆT NAM
Việc phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và
đào tạo của Việt Nam cũng đã được chính
phủ Nhật Bản hỗ trợ tích cực. Hàng năm
thông qua nguồn ODA từ nhiều quỹ tài chính
khác nhau, Nhật Bản đã cung cấp một số
lượng đáng kể học bổng đào tạo đại học và
sau đại học cho các sinh viên và cán bộ khoa
học kĩ thuật của Việt Nam. Ngoài ra ODA của
Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam trong nhiều
sáng kiến hợp tác trong khuôn khổ ASEAN,
ASEM, tiểu vùng sông Mêkông mở rộng.
Nhật Bản cũng cố gắng giúp Việt Nam phát
triển những ngành công nghiệp cao như năng
lượng hạt nhân vũ trụ. Chẳng hạn, Việt Nam
sẽ xây dựng trung tâm vũ trụ đầu tiên (ở Hoà
Lạc) bằng khoản vay 350 triệu USD vốn
ODA của Nhật Bản. Trung tâm này sẽ hoàn
thành vào năm 2017 và khi đó Việt Nam sẽ có
khả năng sản xuất những vệ tinh nhỏ. Trong
suốt quá trình này Nhật Bản sẽ chuyển giao
công nghệ không gian có liên quan của mình
và giúp đào tạo nhân sự cho Việt Nam.
Nhật Bản là nước có tiềm lực lớn về kinh tế,
nguồn vốn, công nghệ cao, kinh nghiệm quản
lí hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Về khoa học kỹ thuật công nghệ, các dự án
ODA của Nhật Bản được thực hiện qua JICA,
Bộ ngoại giao là những cơ quan có đội ngũ
cán bộ chất lượng cao và kinh nghiệm quản lí
hiện đại. Dưới các cơ quan này là các công ty
hàng đầu về thiết kế và trang thiết bị hiện đại
trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng kinh tế.
Thông qua các dự án ODA, chúng ta được
tiếp cận với công nghệ hiện đại, học tập được
những kinh nghiệm quản lí tiên tiến.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải
cải thiện tình hình hoạt động không hiệu quả
của các doanh nghiệp nhà nước và xây dựng,
thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân. Do vậy,
Chính phủ Nhật Bản ngoài việc hỗ trợ cải tạo
nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế còn hỗ trợ cải
cách các doanh nghiệp nhà nước, phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực kinh tế
tư nhân của Việt Nam bằng cách giúp thực
hiện kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước
lớn, để hỗ trợ cho việc xúc tiến cải cách
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 153
doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Chính
phủ Nhật Bản cũng coi trọng việc dự thảo
chính sách, hướng dẫn kinh doanh hoặc xây
dựng các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
khu vực kinh tế tư nhân thông qua các ngân
hàng của Việt Nam [6].
Việt Nam hiện nay vẫn nằm trong nhóm nước
đang phát triển, vì thế xoá đói giảm nghèo là
một chủ trương lớn, một quyết sách lớn và
nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chính phủ Nhật Bản đã đóng góp quan trọng
trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt
Nam. Ngoài việc hỗ trợ cho các công trình hệ
thống điện, thông tin liên lạc, nước sạch
trường học, vệ sinh môi trường cho các
trường học, y tế ở nông thôn, Nhật Bản còn
giúp về kinh nghiệm đào tạo nhân lực, đặc
biệt là cán bộ làm công tác xoá đói giảm
nghèo để đẩy nhanh tiến trình thực hiện các
chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Chính nhờ sự hỗ trợ đó mà đời sống dânu7
nhiều vùng được cải thiện, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
Có thể coi ODA là chất xúc tác cho các nguồn
đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư
nhânvào Việt Nam. Bởi việc xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng đã tạo môi trường đầu
tư thuận lợi cho các đối tác trong đó có Nhật
Bản, vì những tuyến đường đều dẫn đến các
khu công nghiệp, cảng biển, tạo ra những điều
kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư thực hiện các
dự án của mìnhTức là ODA đã tạo sự tin
cậy cho các nhà đầu tư bỏ vốn vào Việt Nam.
Đây được xem như hệ quả tất yếu của mối
quan hệ tương tác giữa ODA và FDI của Nhật
tại Việt Nam. Ví dụ như dự án Khu công
nghiệp Bắc Thăng Long-nhờ xây dựng hệ
thống đường cao tốc, cầu vượt mà đã trở
thành khu công nghiệp lớn nhất ở phía Bắc
nơi tập trung đông các nhà đầu tư Nhật Bản.
Nhìn chung chính sách ODA của Nhật Bản
trong thời gian qua là phù hợp với kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và đáp ứng
được sự mong muốn của Chính phủ và nhân
dân Việt Nam-Nhật Bản. ODA của Nhật Bản
trong thời gian qua có ý nghĩa to lớn trong
việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã
gia nhập WTO, là thành viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc
nhiệm kì 2008-2009. Thêm vào đó, mối quan
hệ Việt Nam-Nhật Bản ngày càng phát triển
trở thành đối tác chiến lược của nhau; nhiều
đánh giá cho rằng ODA của Nhật Bản đã
được sử dụng có hiệu quả ở Việt Nam. Những
thuận lợi đó đã tạo cho nước ta nhiều triển
vọng trong việc thu hút,ư3 dụng ODA của
Nhật Bản trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Có thể nói hình thức ODA là “chiếc chìa khoá”
ngoại giao kinh tế để từ đó mà Nhật Bản có thể
mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực kinh tế,
thương mại và đầu tư phát triển các hoạt động
sản xuất kinh doanh và dịch vụ tại Việt Nam,
thu được nhiều lợi nhuận lớn hơn nhiều lần so
với số vốn ODA đã cho đó trong tương lai.
Quyết định nối lại viện trợ ODA của Nhật Bản
cho Việt Nam đã góp phần quan trọng trong
việc khai thông mối quan hệ của Việt Nam với
các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt khác
cũng như việc khởi động trở lại quan hệ hợp
tác kinh tế song phương giữa hai nước. Từ
năm 1992 đến nay, trong các năm 1998, 1999
và 2009 khi kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó
khăn thì Chính phủ Nhật Bản vẫn luôn là nhà
tài trợ lớn nhất cho Việt Nam.
Như vậy, từ khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của WTO đến năm 2010,
ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam
tiếp tục tăng qua các năm. Trong tương lai,
bên cạnh những điều kiện thuận lợi như sự ổn
định về chính trị của Việt Nam, công cuộc đổi
mới ở nước ta đang đạt được những thành tựu
cần phải ghi nhận, cũng như uy tín của Việt
Nam đang được tăng thêm. Thêm vào đó hiện
nay xu thế toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc gia tăng thương mại và đầu tư
quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nền kinh tế. Vì thế viện trợ ODA của
Nhật Bản cho Việt Nam trong những năm
tới dự báo sẽ tiếp tục tăng và không bị ảnh
Bùi Thị Kim Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 149 - 154
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 154
hưởng bởi cuộc khủng hoảng của nước Mỹ
(2011); cũng như trận động đất sóng thần
vào ngày 11.3.2011 đã ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế Nhật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Quang Minh, Ngô Xuân Bình (2005), Quan hệ
Việt Nam-Nhật Bản quá khứ hiện tại và tương lai, Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội, 2005
[2].Ngọc Trịnh, 35 năm quan hệ kinh tế Việt Nam-
Nhật Bản một chặng đường phát triển, Nghiên cứu
Đông Bắc Á, số 8 (90) 8-2008.
[3]. Nguyễn Quang Thuấn (2008), Vai trò ODA của
Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam,
Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11(93) 11-2008.
[4]. TTXVN, ODA là câu chuyện thành công trong
quan hệ Việt Nam-Nhật Bản,
Http:///.vnagency.com.vn
[5]. Website của Bộ Ngoại giao Việt Nam
[6]. Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
SUMMARY
JAPAN’S OFFICIAL DEVELOPMENT ASSISTANCE TO VIETNAM SINCE VIETNAM
OFFICIALLY JOINED WTO
Bui Thi Kim Thu
College of Sciences – TNU
Since 1992, relations between Vietnam - Japan officially rebuild after 13 year hiatus (1979-1992).
Vietnam economic relations, Japan is reflected in the fields of trade relations, investment relations
(FDI) and official development assistance (ODA). These three areas are also key objectives that the
Government of Vietnam is located in economic development plans and poverty reduction. In
particular, the ODA is sector has a huge role in the economic development of Vietnam-social. Since
Vietnam became an official member of WTO, the aid that is increasing in spite of the difficulties that
the 2008 crisis in the U.S. lead.
Form of ODA can be said is "the key" economic diplomacy so that the Japanese can expand into other
economic sectors.
Key words: Official development assistance (ODA), economic, social, Vietnam, Japan.
Tel: 0976 1985 86, Email: thubtk@tnu.edu.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vien_tro_phat_trien_chinh_thuc_oda_cua_nhat_ban_danh_cho_vie.pdf