Văn hóa tôn giáo nói chung, văn hóa
Phật giáo và văn hóa Công giáo nói riêng,
có tác động hết sức to lớn đến đời sống tinh
thần của con người Việt Nam. Tư tưởng
khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa
ác. của Phật giáo cùng tư tưởng bác ái của
Công giáo đã có tác dụng thức tỉnh lương
tri con người, điều chỉnh hành vi của các cá
nhân và cộng đồng để xây dựng một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Trên cơ sở đó, con người
sẽ được sống trong môi trường hòa bình,
nhân ái, không có chiến tranh hủy diệt,
khủng bố quốc tế và xung đột tôn giáo.
Từ những nghiên cứu trên, cũng có thể
khẳng định rằng, ảnh hưởng đối với đời
sống văn hóa tinh thần, không có ảnh
hưởng nào mạnh hơn tôn giáo và cũng
không có sự “quyến rũ” nào mạnh bằng sự
“quyến rũ” của tôn giáo khi tôn giáo đã đi
vào lòng người. Tôn giáo tuy có một số mặt
hạn chế nhất định, nhưng xét về mặt bản
chất, tôn giáo chính là văn hóa, là một trong
những nguồn gốc của văn hóa. Và như vậy,
sự du nhập của Phật giáo hay Công giáo
vào Việt Nam chính là sự du nhập văn hóa
từ bên ngoài vào, hòa quyện với văn hóa
truyền thống để tạo ra một luồng văn hóa
mới tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc
Việt Nam
12 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa Phật giáo và Công giáo trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Đức Chính
33
Văn hóa Phật giáo và Công giáo
trong đời sống tinh thần của người Việt Nam
Vũ Đức Chính *
Tóm tắt: Văn hóa tôn giáo có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa
tinh thần người Việt Nam. Các tôn giáo ở Việt Nam luôn tồn tại song hành cùng lịch
sử dân tộc, có những đóng góp tích cực nhất định cho nền văn hóa, góp phần tạo nên
bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Sự du nhập của Phật giáo, Công giáo
vào Việt Nam đã góp phần làm phong phú và “nâng cấp” đời sống văn hóa tinh thần
xã hội ở tín ngưỡng và đạo đức, văn học và nghệ thuật. Bài viết tập trung trình bày văn
hóa Phật giáo và Công giáo trong đời sống tín ngưỡng và đạo đức của người Việt Nam
hiện nay.
Từ khóa: Văn hóa; Phật giáo; Công giáo; Việt Nam.
1. Mở đầu
Văn hoá tôn giáo thuộc lĩnh vực văn hóa
tâm linh, là một thành tố của văn hóa tinh
thần nói chung, xếp bên cạnh các lĩnh vực
văn hóa chính trị, văn hóa tư tưởng, văn hóa
khoa học, văn hóa nghệ thuật, văn hóa giáo
dục, văn hóa thẩm mỹ...
Đời sống tinh thần của xã hội và đời
sống vật chất là hai hoạt động sống cơ bản
của con người. Khái niệm đời sống tinh
thần xã hội bao gồm toàn bộ hiện thực tinh
thần của xã hội; gồm cả ý thức cá nhân, ý
thức của các tập đoàn người. Đời sống tinh
thần bao hàm toàn bộ quá trình sản xuất,
phân phối, tiêu dùng các giá trị tinh thần; là
tổng hòa tất cả các hiện tượng tinh thần,
trong đó có những hiện tượng đã trở thành
phổ biến, có hiện tượng mới phôi thai đang
trong quá trình hình thành, đồng thời có cả
những hiện tượng cũ tồn tại với tư cách là
tàn dư của xã hội.
Văn hóa tôn giáo đóng vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần
con người Việt Nam. Với tư cách là một
thành tố của kiến trúc thượng tầng, văn hóa
tôn giáo luôn có sự tác động trở lại hiện
thực, cái đã sản sinh ra nó, đáp ứng những
khát vọng của con người. Văn hóa tôn giáo
tạo nên những giá trị, thúc đẩy và làm
phong phú đời sống văn hóa tinh thần của
xã hội; song đôi khi cũng có những cản trở
đối với xã hội.(*)
Là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh
những tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài,
Hòa Hảo, Việt Nam còn có những tôn giáo
du nhập từ bên ngoài vào như Phật giáo,
Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo... Các tôn
giáo ở Việt Nam luôn tồn tại song hành
cùng lịch sử dân tộc, đã có những đóng góp
tích cực nhất định cho nền văn hóa, góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của
dân tộc Việt Nam.
(*) Thạc sĩ, Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam. ĐT: 04 39422427.
Email: Minhnhatphucloc@yahoo.com.vn.
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
34
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Đảng và
Nhà nước ta đã nhìn nhận lại vai trò của tôn
giáo đối với đời sống xã hội, nhất là đối với
đời sống tinh thần: “Tôn giáo là vấn đề còn
tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với
công cuộc xã hội mới” [4].
Nghiên cứu vai trò của văn hóa tôn giáo
đối với đời sống tinh thần Việt Nam hiện
nay có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời
sự. Bài viết này tập trung làm rõ vai trò của
văn hóa Phật giáo và Công giáo trong đời
sống tinh thần của người Việt Nam hiện
nay trên hai phương diện chủ yếu: tín
ngưỡng và đạo đức.
2. Văn hóa Phật giáo trong đời sống
tín ngưỡng và đạo đức
Với sự du nhập và phát triển của tín
ngưỡng tâm linh, Phật giáo đã tạo ra vòng
tròn đồng tâm hội tụ các tín ngưỡng khác
nhau của người Việt Nam từ lịch sử đến
hiện tại.
Các triều đại phong kiến Việt Nam (từ
thời Lý, Trần) đã kết hợp một cách hài hòa
dựa trên tinh thần tư tưởng, giáo lý của
Phật để trị nước an dân, mưu cầu một sự
an bình thịnh vượng cho nước nhà. Phật
giáo gắn bó và có ảnh hưởng rất lớn đối
với Nhà nước. Nhiều bậc cao tăng đã có vị
trí quan trọng như những cố vấn chính trị
thực sự của triều đình. Trước khi quyết
định một vấn đề hệ trọng nào đó, triều đình
thường thành tâm thỉnh ý các bậc cao tăng
[14, tr.345].
Trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của
người dân, mái chùa thân thương đã in đậm
dấu ấn trong tư tưởng, tình cảm mỗi người,
mỗi cộng đồng làng xã với hình ảnh “mái
chùa che chở hồn dân tộc”.
Dân dựng chùa thờ Phật, Thánh Mẫu, Tổ
tiên không chỉ có mục đích giải thoát, thể
hiện đạo đức “uống nước nhớ nguồn” mà cả
mục đích nhờ Phật “che chở” cho những lúc
thất cơ lỡ vận, ốm đau, cầu mong mưa thuận
gió hòa, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,
ra khơi đánh cá được bình an, thuyền bè đi
lại trên sông thuận buồm xuôi gió...
Ảnh hưởng của Phật giáo còn thể hiện rõ
qua cấu trúc của nhiều ngôi chùa và qua việc
sắp xếp điện thờ trong chùa. Sự dung hợp
Phật giáo với tín ngưỡng truyền thống và các
tôn giáo khác trong cách thờ tự tại chùa đã
khiến cho tính chất Phật giáo ở đồng bằng
Bắc Bộ khác với cội nguồn ở Ấn Độ.
Trong chùa, chính điện (Tam Bảo) là
trung tâm của sự thờ cúng. Ở đây có nhiều
bàn thờ; bàn thờ chính được đặt ở giữa,
thường được làm thành những bậc từ cao
xuống thấp. Không có một công thức
chung cho sự bài trí tượng ở các chùa Việt
Nam. Vị trí của các tượng thay đổi một
cách linh hoạt tùy theo từng ngôi chùa.
Tuy nhiên, nhìn chung chính điện ở các
chùa theo phái Bắc tông vùng đồng bằng
Bắc Bộ thường được bài trí thờ theo năm
lớp thể hiện chư Phật trong ba đời: quá
khứ, hiện tại, tương lai. Bên cạnh các chư
Phật luôn có các Thánh Tăng theo hầu.
Bên cạnh đó, chùa còn thờ cả các vị vua,
những người có công với chùa, những nhà
tu hành (sư tổ), Tứ vị Pháp vương Phật
(Vân, Vũ, Lôi, Điện)... Khi văn hóa Việt
Nam chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Lão
giáo, trong không gian chùa thờ thêm
Thần, Thánh, Tiên, người, trời, đất...
Như vậy, chùa không chỉ là nơi thực
hành tín ngưỡng của riêng Phật giáo mà còn
là nơi thực hành nhiều loại tín ngưỡng khác
nhau. Nó là cái trục cơ bản, là nền tảng tín
ngưỡng để hội tụ các loại hình tín ngưỡng
có mặt trong cuộc sống tín ngưỡng của
người Việt Nam. Chùa không chỉ là nơi
hướng thiện “từ, bi, hỷ, xả”, mà còn là nơi
Vũ Đức Chính
35
trùng tu công đức, cầu xin để đạt được các
sở nguyện đời thường và cả khi về cõi vĩnh
hằng (nói rộng ra, cả vòng đời con người
gắn với chùa) Con người mới sinh ra thì
bán khoán cho Đức Ông ở chùa, lúc trưởng
thành thì làm lễ tơ hồng ở chùa, khi chết đi
làm lễ cầu siêu ở chùa. Và chính sự hội tụ
của Phật giáo đó mà khách hành hương khi
đến chùa bị choáng ngợp trước các tượng
pháp, các ban, các cung.
Tập quán đi lễ chùa đã trở thành nét đẹp
trong văn hóa tâm linh của nhân dân ta.
Xưa kia khi hạn hán kéo dài, quan lại và kỳ
hào đến chùa thờ Tứ Pháp để làm lễ đảo vũ,
cầu cho dân có nước cấy cày, cho cỏ cây
tươi tốt, mùa màng bội thu; các bậc cao
niên trong làng lại lo làm lễ cầu an đầu
năm, lễ cầu mát vào hè, lễ dâng sao giải
hạn, trừ ôn dịch, sâu bọ phá hoại mùa
màng... cho dân chúng.
Ngày nay, từ thành thị đến nông thôn, vào
các ngày Sóc, Vọng, người dân thường đến
chùa lễ Phật. Đối với Phật giáo, ngày Sóc,
ngày Vọng là ngày “trưởng tịnh”, tức là
ngày trong sạch nhất. Ngày này người xuất
gia phải làm lễ Bồ Tát, tức đọc tụng Giới
luật và kiểm điểm lại hành vi của mình. Đối
với những tín đồ Phật giáo, những người
không xuất gia tu hành thì ngày này sẽ làm
lễ “Sám hối”. Chính vì vậy, ngày Sóc, Vọng
được gọi là ngày sám hối.
Chùa luôn gắn liền với làng và hội chùa
cũng chính là hội làng: “Dù ai buôn đâu bán
đâu/ Đến ngày Phật đản năm châu cũng về/
Dù ai buôn bán trăm bề /Đến ngày Phật đản
ta về chùa ta”. Đầu năm thường có các lễ
hội chùa lớn như lễ hội chùa Hương Tích,
được tổ chức từ mồng 6 tháng Giêng và kéo
dài đến 25 tháng Ba: “Chẳng đi thì nhớ, thì
thương/ Đi thì mến cảnh chùa Hương chẳng
về/ Một là vui thú Sơn Khê/ Hai là đã trót
lời thề cùng ai”.
Tục đi chùa vãn cảnh, cầu tự, cầu may
đã trở thành một nét đẹp văn hóa, một
phong tục của người dân Việt Nam. Chùa
Hương ở Mỹ Đức (Hà Nội) là một trong
những địa danh nổi tiếng linh thiêng trong
dân gian về việc cầu tự. Trong động
Hương Tích, thuộc quần thể chùa Hương,
dân gian còn đặt tên cho những nhũ đá tự
nhiên là: Đụn Vàng, Đụn Bạc, Đụn Cô,
Đụn Cậu, Nong Tằm, Nong Gạo... Từ xa
xưa người Việt tin rằng, ai mong ước được
giàu có thì sờ Đụn Vàng, Đụn Bạc; ai cầu
có con, có cháu thì sờ Đụn Cô, Đụn Cậu;
ai muốn mùa màng bội thu thì sờ vào
Nong Tằm, Nong Gạo...
Lễ hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mồng
5 đến mồng 7 tháng ba qua ca dao: “Trai
chưa vợ nhớ hội chùa Thầy/ Gái chưa
chồng nhớ hang Cắc Cớ”.
Lễ hội chùa Dâu (tức lễ hội chùa Diên
Ứng) ở tỉnh Bắc Ninh tổ chức vào mồng 8
tháng tư. Nét đặc biệt của lễ hội là việc tổ
chức rước các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện... Trong lễ hội còn có
các trò chơi như múa gậy, múa sư tử, múa
trống... Ngoài ra có rất nhiều lễ hội chùa
khác như các lễ hội chùa Keo, chùa Am,
chùa Đậu, chùa Lim.
Lễ hội chùa được tổ chức quanh năm và
thường gắn với những cầu mong, nguyện
ước về vật chất, tinh thần của người dân là
minh chứng cho sự gắn bó chặt chẽ giữa
nhà chùa và cộng đồng dân cư. Vì thế có ý
kiến cho rằng, hiện nay chùa thực sự là
những trung tâm văn hóa xã hội. Người dân
đến chùa để tìm sự thanh thản của cõi lòng,
gửi ở đó tất cả đức tin và hòa vào đó với
bao sinh hoạt cộng đồng bổ ích. Nhà tu
hành đến với dân bằng tất cả lòng thành, ưu
đời mẫn thế. Qua đó cũng thể hiện vai trò
của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của
người dân.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
36
Hiện nay, tín ngưỡng Phật giáo còn ảnh
hưởng đến một số gia đình. Người dân rước
Phật về thờ tại nhà bằng ảnh Phật, tượng
Phật, tượng các ngài Bồ Tát Quan Âm...
Nhiều bài văn khấn, văn cầu cuối năm, đầu
năm, giỗ tết, ma chay... trong gia đình có
nội dung thể hiện tính tín ngưỡng Phật giáo
rõ nét; đặc biệt câu mở đầu thường bằng
việc tôn xưng danh hiệu “Nam mô A Di Đà
Phật”. Phật giáo đã đi vào lòng dân, vào đời
sống tinh thần của đông đảo nhân dân như
một niềm tin.
Những phân tích trên đây cho thấy sự kết
hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian
bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước đã
tạo nên nét đặc sắc và sự độc đáo trong đời
sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Nó thể
hiện những mong ước, khát vọng vươn lên
của con người.
Bên cạnh việc lên chùa lễ Phật vào ngày
rằm, mồng một hàng tháng, đại đa số các gia
đình người Việt hiện nay đều sắm lễ để thắp
hương tổ tiên, gia tộc ở trong gia đình mình.
Ngày rằm tháng giêng và rằm tháng bảy trở
thành một trong những ngày lễ quan trọng
nhất trong năm. Người dân quan niệm “cúng
quanh năm không bằng rằm tháng giêng”,
hay “cúng quanh năm không bằng rằm tháng
bảy”. Ngày rằm tháng bảy được giới Tăng
Ni, Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan Bồn. Đây
là ngày lễ Tự tứ - tức ngày Chư Tăng mãn
hạ, các Phật tử nhân ngày này cúng dàng
Chư Tăng nhằm mục đích báo hiếu cho cha
mẹ, tổ tiên. Vào ngày này, tất cả con cháu
trong các gia đình thường lên chùa lễ Phật.
Những ai còn mẹ còn cha thì cài hoa hồng
nơ xanh, mất mẹ còn cha thì cài hoa trắng nơ
xanh, mất cha còn mẹ thì cài hoa hồng nơ
trắng, mất cả cha lẫn mẹ thì cài hoa trắng nơ
trắng. Việc cài hoa nhằm thầm nhắc nhở bổn
phận của con cái đối với cha mẹ, đó là sự tôn
kính và hiếu thảo.
Lễ Vu Lan từ lâu đã trở thành ngày lễ để
con cái tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Có lẽ,
trước khi Phật giáo vào Việt Nam, người
Việt Nam không có một lễ hội nào nhắc
nhở đạo làm con cụ thể và sinh động như lễ
hội này. Có thể nói, lễ Vu Lan của Phật
giáo đã có ảnh hưởng rất lớn, mang ý nghĩa
giáo dục đạo đức cho những người làm con
trong bối cảnh đạo đức xã hội đang có sự
suy thoái, xuống cấp nghiêm trọng; hiện
tượng con cái hỗn láo, bạc đãi, thậm chí
đánh đập cha mẹ đang diễn ra trong xã hội
Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, Phật giáo còn hội nhập với tín
ngưỡng bản địa, tạo ra một tín ngưỡng
chung của cộng đồng quốc gia dân tộc.
Phật giáo đã tham gia vào việc tổ chức các
ngày lễ lớn của đất nước như ngày 1 tháng
5, ngày 27 tháng 7, ngày Quốc khánh 2
tháng 9, ngày giỗ Tổ Hùng Vương, Đại lễ
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội...
Với những hoạt động thực tiễn đó, Phật
giáo đã khẳng định những giá trị nhân bản ở
tầm nhân loại. Người dân đến với tín
ngưỡng Phật giáo không chỉ cầu Phật phù
hộ cho bản thân, cho gia đình, bạn bè, mà
còn cầu cho “Quốc thái dân an”, đất nước
thịnh vượng, thế giới bình an.
Như vậy, tín ngưỡng Phật giáo đã trở
thành một phong tục ăn sâu vào nếp sống
của người dân Việt Nam. Phong tục này đã
và đang góp phần duy trì, chuyển tải và
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức
truyền thống của dân tộc. Nét đẹp trong đời
sống văn hóa tinh thần này chắc chắn sẽ
được chắt lọc, phát huy trong quá trình xây
dựng nếp sống mới ở nước ta trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Văn hóa Phật giáo còn có ảnh hưởng đối
với đạo đức của người Việt Nam. Trước hết
đó là tình cảm và bổn phận thầy - trò. Trong
Phật giáo, chữ “Sư” trong từ nhà sư, nguyên
Vũ Đức Chính
37
nghĩa là Thầy, Phạn ngữ viết là Guru hay
Sàstà. Một trong những hoạt động chính
của nhà sư là dạy đạo lý làm người, dạy
giáo lý, nghi thức của nhà Phật và dạy việc
tu hành... Hai chữ “Hòa thượng” Phạn ngữ
viết là Upadhyaya, cũng được dịch là “Thân
giáo sư”. Điều này cũng có nghĩa là Phật
giáo luôn gắn bó với sự nghiệp giáo dục.
Phật giáo rất quan tâm đến việc xây
dựng và củng cố mối quan hệ thầy - trò.
Kinh Trung A Hàm có viết: thầy trò nên lấy
đạo tương cảm tự nhiên, tin kính nhau, coi
người như mình; thầy nên theo như Pháp
mà dạy trò, nên dạy trò những điều trò chưa
biết, nên giảng cho trò những điều mình đã
nghe, nên chỉ cho họ biết cách chọn bạn
thân, nên đem hết những chỗ mình biết dạy
bảo họ. Cách hay nhất để làm rạng danh
người thầy chính là dốc lòng đào tạo cho
được những học trò giỏi hơn mình. Còn trò
thì nên cung kính thầy, nên lễ kính cúng
dâng thầy, nên tôn trọng và quí ngưỡng
thầy, nên vâng thuận lời thầy, nên ghi nhớ
lời thầy [12].
Những lời khuyên của Phật về bổn phận
của học trò đối với thầy và của thầy đối với
học trò nêu trên đến nay vẫn còn nguyên
giá trị. Điều đó khẳng định, Phật giáo là
một bộ phận cấu thành truyền thống “tôn sư
trọng đạo” của người Việt Nam.
Bên cạnh mối quan hệ thầy trò, mối quan
hệ giữa những người lãnh đạo đối với nhân
dân cũng được Phật giáo đề cập tới. Theo
Kinh Bồ Tát Diệu Tử, lãnh đạo xã hội phải
biết thương dân, gần dân, cần dân và chỉ bảo
cho dân. Người dân phải biết tuân theo luật
lệ và kính người lãnh đạo. Lãnh đạo và
người dân phải sống theo nguyên tắc lục
hòa: cùng nhau chung sống, không cãi cọ
nhau, vui vẻ với nhau, cùng tuân theo và sửa
chữa cho nhau, cùng giảng giải cho nhau
hiểu biết, cùng chia quyền lợi cho nhau.
Ngoài ra, Phật giáo còn đề cập đến bổn
phận vợ chồng, bổn phận họ hàng, bổn
phận chúng sinh... những bổn phận này
được ghi trong Kinh A Hàm, Kinh Hoa
Nghiêm rất rõ.
Một trong những học thuyết quan trọng
nhất của Phật giáo, có ảnh hưởng lớn đến
suy nghĩ, hành vi của con người trong xã
hội là thuyết Nhân - Quả. Nội dung chính
của học thuyết đó là, tất cả những vật thể vô
tri, thực vật, động vật, loài người, đều chịu
tác động trực tiếp, thường xuyên và vô tận
của Luật Nhân - Quả. Kiếp này chính là
Quả của kiếp trước và là Nhân của kiếp sau.
Nếu gây Nhân xấu tất phải nhận Quả xấu.
Phật giáo rất chú trọng hậu quả do hoạt
động của con người mang lại. Theo Phật
giáo, con người phải tự chịu trách nhiệm
trước hành động của mình.
Thuyết Nhân - Quả, Nghiệp báo của
Phật giáo tuy còn có một số điểm mang tính
chất duy tâm thần bí (như quan niệm rằng
con người hiện tại là Nghiệp báo của con
người quá khứ). Nhưng xét về mặt luân lý
đạo đức, thuyết Nhân - Quả đề cao vai trò
của cá nhân con người. Người gieo Nhân
lành sẽ được Quả tốt, kẻ gieo Nhân ác sẽ
được Quả xấu. Song bản thân mỗi con
người, khi nỗ lực cố gắng thì có thể cải
thiện được Nghiệp ác sang Nghiệp thiện.
Tòa án để xử phạt tốt, xấu ở đây là tòa án
của luật Nhân - Quả và là tòa án lương tâm.
Chính vì vậy, nó có tác dụng rất lớn trong
việc rèn luyện đạo đức của mỗi cá nhân.
Những nội dung của thuyết Nhân - Quả
trên đây cho thấy, có sự trùng hợp giữa tư
tưởng Phật giáo với quan niệm sống của
người Việt Nam, đó là: “ở hiền gặp lành”, “ác
giả ác báo”, “đời cha ăn mặn đời con khát
nước”, “cha mẹ hiền lành để phúc cho con”,
“thiện giả thiện báo”... Đây cũng là triết lý
đạo đức, lối sống của con người Việt Nam.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
38
Những ảnh hưởng về tín ngưỡng, đạo
đức của Phật giáo đối với người Việt (người
Kinh) nói riêng và người Việt Nam nói
chung đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Con
người trong thời đại xây dựng chủ nghĩa xã
hội vẫn cần có tình thương yêu, lòng bao
dung, sự độ lượng. Đặc biệt, trong thế giới
ngày nay, khi mà các cuộc chiến tranh giữa
các sắc tộc và tôn giáo đang diễn ra, tình
yêu thương giữa người với người càng phải
được phát huy, đẩy cao thêm một bước
mới. Tình yêu thương đồng loại chính là
động lực thúc đẩy sự hy sinh quên mình
cho người khác, cho dân tộc và cho nhân
loại; nó hướng con người đến hành vi thiện,
tránh xa cái ác.
Ngoài ra các “giới luật” trong Phật giáo,
đặc biệt là “ngũ giới” có tác dụng khuyên
răn giúp tín đồ có được cuộc sống đức độ,
làm điều thiện, tránh xa cái ác. Những tiêu
chuẩn đạo đức này cũng có tác động đến
các cá nhân, gia đình và xã hội. Chủ trương
bảo vệ cuộc sống của con người và các tạo
vật thiên nhiên của Phật giáo có sự tác động
nhất định với chủ trương kêu gọi bảo vệ
môi trường sinh thái của Nhà nước ta hiện
nay. Việc nhấn mạnh “Giới sát” của Phật
giáo trong thời gian gần đây cũng là góp
phần vào việc cảnh tỉnh, nhắc nhở nhân loại
hãy đoàn kết bảo vệ nền hòa bình chung,
tôn trọng quyền được sống và quyền tự chủ
của mỗi quốc gia.
Như vậy, có thể thấy trải qua quá trình
lịch sử lâu dài tồn tại và phát triển ở Việt
Nam, Phật giáo đã được bổ sung, làm mới
bằng nhiều giá trị văn hóa của dân tộc Việt
Nam. Phật giáo cũng đã góp phần củng cố,
duy trì và chuyển tải các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam. Những giá trị văn
hóa truyền thống ấy chính là một phần quan
trọng trong nền tảng văn hóa tinh thần Việt
Nam, để dân tộc ta tiến hành, xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trong thời đại mới và xây dựng một đất
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Mục đích của nước ta hiện nay là đào tạo
được những con người có đầy đủ cả tài lẫn
đức. Hồ Chí Minh đã nói: nếu chỉ chú ý đến
“cái tài” mà quên đi “cái đức” thì chỉ là kẻ
phá hoại. Ngược lại, có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, công
việc đào tạo người tài giỏi phải gắn liền với
việc giáo dục luân lý đạo đức. Vì thế,
không có gì tốt hơn là bảo tồn, phát huy các
giá trị luân lý, đạo đức truyền thống. Trong
đó, những đóng góp của Phật giáo cho nền
luân lý đạo đức của người Việt nói riêng,
của dân tộc Việt Nam nói chung, trong lịch
sử và hiện tại đáng được trân trọng, tự hào
và cần phải gìn giữ.
3. Văn hóa Công giáo trong đòi sống
tín ngưỡng và đạo đức người Việt Nam
Cư dân người Việt Nam ở đồng bằng
Bắc Bộ vốn có văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo
với tính chủ đạo là tam giáo (Nho giáo,
Phật giáo, Đạo giáo). Cho đến thế kỷ XVI,
trong tầng văn hoá Việt Nam chưa chịu sự
ảnh hưởng của Công giáo. Từ thế kỷ XVII,
Công giáo dần dần bén rễ vào văn hoá của
cư dân người Việt Nam. Do nhiều nguyên
nhân, trong thời kỳ đầu, hoạt động truyền
giáo vào Việt Nam hết sức chậm chạp, sức
lan tỏa không lớn và chỉ phát triển chủ yếu
trong cộng đồng cư dân nghèo đói ở vùng
ven biển, ven sông. Hơn thế, các tín đồ gia
nhập đạo Công giáo lại không bắt đầu bằng
niềm tin tôn giáo mà từ nhu cầu của cuộc
sống “đi đạo lấy gạo mà ăn”. Nguyên nhân
chính không chỉ do thái độ phản ứng của
người Việt Nam đối với sự áp đặt văn hóa
Công giáo theo tinh thần Vatican I, mà thực
chất còn vì hai nền văn hóa, hai lối sống
Đông - Tây rất khác nhau và rất xa lạ với
người Việt Nam. Nhưng cuối cùng người
Việt Nam, với năng lực thích nghi riêng
Vũ Đức Chính
39
biệt của mình đã xây dựng cho mình một
nền văn hóa dân tộc hiện đại.
Sự hội nhập trước hết là ở tâm thức (hay
tâm linh) sống đạo của người Công giáo
Việt Nam. Tuy là những tín đồ thực thụ, có
niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, vào
những tín lý của Công giáo, song họ vẫn
luôn tiềm ẩn một tâm linh đa thần từ sâu
thẳm. Họ quan niệm Thánh Quan thầy như
một vị Thành hoàng làng có chức năng chở
che, phù giúp cho cộng đồng. Vì vậy, ngày
kỷ niệm Thánh Quan thầy được tổ chức như
một ngày hội làng với những cuộc đi kiệu,
rước xách, lỗ bộ, cờ quạt, y phục và cả tấu
nhạc, hành vân lưu thủy của cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước, cầu cho mưa thuận,
gió hòa.
Hương ước nhiều làng Công giáo ở
đồng bằng Bắc Bộ còn cho thấy, ở những
làng này vẫn duy trì tập tục xuống đồng,
tục ăn cơm mới. Không ít làng Công giáo
còn giữ tục cầu mưa, cầu cho phong đăng
hòa cốc. Sau mùa gặt, nông dân còn dâng
nông sản gạo, đậu, trái cây lên chân tượng
Chúa để tạ ơn.
Một số vị Thánh khác được người dân
tín đồ chức nghiệp hoá “quan phòng”. Ông
thánh Phêrô lo việc chữa ốm đau, dịch
hạch; Ông thánh Antôn lo việc cứu giúp
người nghèo; Ông thánh Máctin giúp việc
bắt trộm cướp, tìm ra của cải bị mất trộm.
Ốm đau, nghèo đói, trộm cướp là những tai
hoạ mà người dân - tín đồ ở các làng quê
thời phong kiến, thực dân luôn phải hứng
chịu. Khi nào xã hội không cứu giúp họ thì
họ phải tìm đến các vị Thánh.
Điểm nổi bật nhất là việc tôn sùng Đức
Maria. Đức Maria được tôn sùng theo tâm
thức thờ Mẫu, một loại hình tín ngưỡng dân
gian có từ lâu đời và là hình thức tín
ngưỡng dân gian sớm nhất, có sức sống
nhất và tồn tại lâu dài nhất trong tín ngưỡng
truyền thống của người Việt Nam.
Phật giáo buổi đầu truyền bá vào Việt
Nam đã sớm hội nhập với tín ngưỡng Mẫu
để rồi hình thành nên Phật Tứ Pháp: Vân,
Vũ, Lôi, Điện. Vì vậy, không có gì ngạc
nhiên khi Đức Maria được người dân, tín đồ
tôn sùng theo tâm thức thờ Mẫu. Giáo dân
gọi Đức Mẹ Maria là Mẫu, Thánh Mẫu.
Những lúc gặp khó khăn gian khổ, hoạn
nạn, các giáo sĩ cũng như tín đồ đến cầu xin
Đức Mẹ Maria che chở, cứu khổ. Trong
quan niệm của tín đồ Công giáo, Chúa
Giêsu là người có nhiều quyền năng hơn
nhưng lại không gần gũi như Đức Mẹ
Maria. Đức Mẹ Maria luôn quan tâm đến
cuộc sống hàng ngày của tín đồ. Tín đồ
Công giáo tìm đến Đức Mẹ Maria để xin
được ban ơn những thứ hết sức bình dị
trong cuộc sống hàng ngày như: sức khỏe,
no đủ, buôn bán đắt hàng, bình an, đi lại an
toàn... Đức Mẹ Maria còn được tín đồ Công
giáo tôn thờ là hiện thân của sự sinh sôi nảy
nở. “Những người muộn mằn về đường con
cái tìm đến Đức Mẹ Maria - Mẹ - cầu xin
cho được sinh đẻ con cái” [11, tr.314].
Như vậy, trong tâm thức của giáo dân
Việt Nam, Đức Maria và các Thánh đã
không còn giữ nguyên vai trò theo như
quan niệm tín lý của Giáo hội Công giáo
(Đức Maria và các Thánh chỉ được tôn
kính, không được ban ơn cho tín đồ, chỉ
đóng vai trò trung gian “cầu bầu mà xin ơn
Đức Chúa Trời” cho tín hữu).
Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ngay từ
buổi đầu du nhập, Công giáo đã vấp phải sự
phản kháng của văn hóa, tín ngưỡng bản
địa. Một thời gian dài trước Công đồng
Vatican II, nghi lễ Công giáo xung đột với
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Trước sự “phản ứng” đó, đến Công đồng
Vatican II (1962 - 1965), tục thờ cúng tổ
tiên của người Việt đã được Tòa Thánh
Rôma buộc phải công nhận. Theo tinh thần
của Công đồng thứ XXI, ngày 14 tháng 1
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
40
năm 1974, các Giám mục Việt Nam ra
thông báo, quy định cho người Công giáo
Việt Nam được tổ chức và tham dự các
nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên theo phong
tục Việt Nam. Bản thông báo gồm 5 điểm:
“Quy định cho giáo dân được đặt bàn thờ tổ
tiên nhưng phải thấp hơn bàn thờ Chúa
(điều 1); được đốt đèn, nhang, vái lạy trước
ban thờ tổ tiên (điều 2); được cúng giỗ
trong gia đình theo phong tục tổ tiên (điều
3); cô dâu, chú rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên
(điều 4); trong tang lễ được vái lạy trước thi
hài người quá cố, được làm một số nghi lễ
đối với người qua đời (điều 5)” [10, tr.58].
Người Công giáo khi qua đời vẫn được
tưởng niệm theo nghi thức truyền thống của
người Việt với tục cúng 3 ngày, 49 ngày,
100 ngày, giỗ đầu (tiểu tường), giỗ hết (đại
tường), mồ mả vẫn được chăm lo dù rằng
vẫn thấu hiểu chết là về với Chúa.
Các hình thức tưởng niệm trong các
ngày nói trên, đã có sự đan xen của nghi lễ
Công giáo. Ngược lại, khi đọc kinh và cầu
nguyện, nghi lễ Công giáo cũng chịu ảnh
hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đó
là việc dùng hương trong phụng vụ, Công
giáo cũng dành hẳn tháng 11 trong năm
phụng vụ để làm việc kính nhớ tổ tiên. Đây
được gọi là tháng các linh hồn. Người
Công giáo thực hành nghi lễ với tổ tiên
không chỉ là tôn kính mà đó còn là nghi lễ
của sự thờ cúng tổ tiên truyền thống của
người Việt Nam.
Một ảnh hưởng khác của văn hóa Công
giáo đến văn hóa truyền thống của người
Việt Nam phải kể đến, đó là lễ hội Công
giáo. Nó đã tạo nên sự phong phú trong kho
tàng văn hóa Việt Nam. Người Công giáo
không gọi những ngày lễ lớn diễn ra ở xứ
họ đạo là lễ hội, song trên thực tế, một số lễ
như lễ Thánh Quan thầy ở xứ, lễ Chầu lượt,
lễ San ti... là những lễ có quy mô như một
lễ hội. Ngoài phần lễ, còn có phần hội như
rước kiệu Công đồng, múa trống cà rồng,
múa hát dâng hoa và diễn kịch.
Lễ hội Công giáo cũng có tất cả các yếu
tố (lễ, hội, tín ngưỡng, phong tục, các thành
tố nghệ thuật, vật phẩm dâng cúng...) như
các lễ hội dân gian khác, nhưng cũng có
những nét riêng biệt. Lễ hội Công giáo lấy
lễ là cốt lõi, vì vậy thời gian diễn ra lễ hội
ngắn (cũng có kỳ tam nhật hay cửu nhật
nhưng ít xảy ra) và lễ hội lớn hay nhỏ tùy
thuộc vào quy mô tổ chức giáo phận, giáo
tỉnh hay quốc gia với số lượng giáo sĩ tham
gia nhiều hay ít. Lễ hội nào có nhiều Giám
mục, Hồng y dâng lễ thì giáo dân nô nức đi
dự. Ví dụ, lễ hội bế mạc năm Thánh La
Vang 15 tháng 8 năm 1999 được coi là một
trong những lễ hội Công giáo lớn nhất ở
Việt Nam vì được tổ chức trên bình diện
quốc gia, với sự tham gia của 16 Hồng y,
Tổng Giám mục, Giám mục; 260 Linh mục
và khoảng 15 vạn giáo dân.
Trong lễ hội còn có vãn, một hình thức
diễn xướng dân ca có từ lâu đời. Trong
Tháng Hoa - Tháng Năm - Tháng Đức Bà
những vãn hoa cổ được trình diễn bằng
những lời được đặt, ngợi ca tấm lòng của
Đức Maria. Cùng với các vãn hoa là các làn
điệu hát dân ca khác như trống quân, cò lả,
hát xoan, hò mái nhì mái đẩy, hát phường
vải, hát ví dặm được cải biên với những
ca từ mới; thậm chí, hát ca trù, hát nói cũng
được dùng để trình diễn. Cùng với hát là
múa với những vũ điệu dân gian, xếp hình,
kéo chữ, là hình thức diễn xướng của hội
làng truyền thống (xếp hình mỏ neo với ý
nghĩa Đức Mẹ là niềm trông đợi; hình ngôi
sao - Đức Mẹ là ngôi sao biển; kéo chữ A,
V, chữ đầu của Ave Maria - kính mừng
Đức Maria...).
Nhạc điệu cho những bài hát, giọng
ngâm, giọng đọc Mùa Vọng, Mùa Phục
sinh, Mùa Giáng sinh là bát âm (đàn, sáo,
nhị, trống...), cùng ngũ âm đượm hồn Việt.
Vũ Đức Chính
41
Đi theo kiệu Thánh Quan thầy, kiệu Đức Bà
(Maria), bên cạnh ban nhạc Tây là ban nhạc
Nam với phường bát âm truyền thống, múa
mõ, múa trắc, múa trống, múa sênh tiền âm
vang rộn rã; trống, kèn, hội bát âm, cờ ngũ
sắc; chú lùn đi kheo, múa trống... đi theo
đám rước; đàn ông mặc áo the, khăn xếp;
đàn bà mặc áo dài tứ thân, nón lá...
Người Công giáo được thắp hương, bày
hoa quả trước di ảnh người quá cố. Tại nhà
thờ, tín hữu còn viết lời khấn nguyện ra
giấy và đốt trước tượng ảnh. Do vậy, một
đám rước của người Công giáo không khác
nhiều so với đám rước hội làng.
Có thể thấy, sức mạnh của nền văn hóa
Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời,
nhiều nội dung nghi lễ Công giáo đã được
chuyển hóa cho phù hợp với nền văn hóa
Việt Nam, nhất là từ sau Công đồng
Vatican II. Nhà thờ Công giáo đã treo
chuông Nam, những ngày lễ lớn đã rước
kiệu bằng những cỗ kiệu của người Việt
Nam (kiệu vàng), những nghi thức tưởng
niệm lễ Phục sinh cũng được tổ chức theo
nghi thức Việt Nam; múa hát dâng hoa
trong tháng Năm, lời ca được cải tiến từ
điệu chèo, điệu dân ca người Việt Nam; các
vũ đạo được lấy từ vũ đạo dân gian... Công
giáo muốn “loại bỏ” thờ cúng tổ tiên nhưng
người Công giáo vẫn có những hình thức
thể hiện đạo Hiếu như xin lễ ở ban thờ, tổ
chức lễ cầu nguyện cho ông bà tổ tiên và
những người đã khuất... Đó chính là sự hội
tụ giữa hai dòng chảy văn hóa: văn hóa
Công giáo và văn hóa truyền thống người
Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã nói: “Tôn giáo của chúa
Giêsu có ưu điểm, là lòng bác ái cao cả”.
Chính lòng bác ái đó đã tạo một luân lý đạo
đức sống nhân bản.
Những người theo Công giáo có lệ sau
giao thừa, mọi người kéo nhau ra nhà thờ
“mừng tuổi Đức Mẹ”, tiếng chào, chúc
nhau năm mới xôn xao trong xóm ngõ. Sau
khi dự lễ đầu năm, mọi người đều dâng lên
lời cầu cho Tổ quốc Việt Nam được hòa
bình và thịnh vượng, vì ngày mồng một
Tết là ngày cầu nguyện cho đất nước. Sau
khi lễ xong, các giáo dân trong xứ vào
chúc tuổi Cha xứ. Cha xứ cũng vui vẻ chúc
lại giáo dân, mừng tuổi các em nhỏ. Sau
đó, tất cả cùng ra ủy ban xã dự lễ chào cờ,
thắp hương, viếng mộ liệt sĩ cùng nhân dân
địa phương.
Ngày mồng hai, giáo dân cầu nguyện
cho tổ tiên, làng xóm, xứ họ. Trong ngày
này nhân dịp đi chúc tết, các phụ lão hay
những người có uy tín trong xứ thường đến
các gia đình có chuyện bất hòa, lục đục để
dàn xếp. Không ít gia đình “cơm chẳng
lành, canh chẳng ngọt” đã lấy lại được hòa
khí yên vui giữa vợ chồng, cha mẹ và con
cái. Hạnh phúc của những gia đình này đã
được hàn gắn và hạnh phúc còn đến cả với
làng xóm của họ.
Ngày mồng ba, theo lịch Công giáo là
ngày Thánh hóa công việc làm ăn. Người
Công giáo biết rằng, lao động, làm ăn chân
chính là vất vả, nhưng họ hiểu, chính Chúa
Giêsu cũng phải lao động cực nhọc để kiếm
sống, nuôi cả cha và mẹ. Tấm gương của
Ngài đem lại nhận thức cho giáo dân mong
muốn có việc làm chân chính. Do vậy vào
ngày này các gia đình thường tụ tập cùng
nhau bên mâm cơm để rút kinh nghiệm làm
ăn trong năm qua và định hướng cho năm
mới; cùng nhau hát bài “cầu xin Chúa
Thánh Thần”, đọc kinh “xin chúa sáng soi”
để xin Chúa hướng dẫn cho công ăn việc
làm năm tới thuận lợi và tiến triển.
Những trình bày trên đây cho thấy, tinh
thần “đạo”, “đời”, truyền thống và hiện tại
đã có sự hòa nhập, gắn bó. Ba ngày Tết cổ
truyền là dịp để người Công giáo thực hiện
những việc làm đạo đức. Những đạo lý trên
của Công giáo phù hợp với đạo lý của
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
42
người Việt Nam thể hiện qua phong tục:
“Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng
ba tết thầy”.
Ngoài ra, trong ngày Tết, nhiều gia đình
Công giáo cũng dựng cây nêu (trên cây nêu
có hình Thánh giá) trước cửa nhà. Người
Công giáo không tin có ma tà nhưng họ tin
rằng, cùng với việc dựng Thánh giá và vẩy
nước phép vào đêm ba mươi, gia đình họ
được yên vui, tránh được sự cám dỗ của ma
quỷ. Trên bàn thờ các gia đình vào những
ngày tết còn thắp đèn, thắp hương, đồng
thời cũng vang lên tiếng kinh cầu đều đặn
cả sáng và tối...
Tùy thuộc ở mỗi miền, mỗi xứ đạo, mỗi
giáo phận, người Công giáo đều có những
sinh hoạt Tết cổ truyền khác nhau, nhưng
tất cả đều đóng góp vào nền văn hóa dân
tộc tạo ra một bản sắc Việt Nam nhân văn
và tinh tế.
Những tư tưởng về lòng trung hiếu, về
mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái của
người Công giáo cũng được chỉ rõ trong
“Thập giới”. Đó là, mọi tín đồ phải thảo
kính với cha mẹ; về phần cha mẹ phải có
nghĩa vụ giáo dục con cái “cho đến khi luật
Chúa được khắc ghi trong tâm hồn”. Cha
mẹ phải sống sao để trở thành tấm gương
tốt cho con cái noi theo. Đây cũng là nét
đẹp tương đồng với văn hóa tinh thần
truyền thống Việt Nam: “Công cha như núi
Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Về cư xử trong quan hệ vợ chồng, Kinh
Thánh cũng răn dạy: người chồng là chủ, mẫu
mực của yêu thương và trung thành, người vợ
phải có nghĩa vụ đáp lại tình cảm đó. Trong
“Thập giới” cũng có hai điều răn ngăn cấm
các hành vi tội lỗi trong quan hệ nam nữ để
bảo vệ hôn nhân: “không được gian dâm”
(điều răn 6); “không được ham muốn vợ
(chồng) của người khác” (điều răn 9)...
Những chuẩn mực trong đời sống hôn
nhân của Công giáo nói trên cho thấy phù
hợp với luật pháp của nhà nước ta. Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000 của Việt Nam
ghi rõ: “Vợ chồng chung thủy, thương yêu,
quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng
nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững” (Điều 18,
chương 3). “Vợ chồng bình đẳng với nhau,
có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình” (điều 19, chương 3).
Những quy định này góp phần trong việc
xây dựng tư tưởng mới về quan hệ hôn
nhân lành mạnh, hạn chế rạn nứt trong gia
đình tín đồ, góp phần ổn định đời sống xã
hội trong giáo dân.
Như vậy, trải qua thời gian, Công giáo ở
Việt Nam dần dần tạo ra được một hệ giá trị
xã hội, đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn
hóa tín ngưỡng của người Việt Nam ở đồng
bằng Bắc Bộ. Giá trị lớn nhất ảnh hưởng
đến văn hóa tín ngưỡng người Việt Nam là
tạo nên nếp sống đạo của người Công giáo
Việt Nam, thể hiện qua nếp sống cá nhân,
nếp sống gia đình, nếp sống cộng đồng xứ,
họ đạo. Nếp sống đạo của người Công giáo
được dựa trên nền tảng Phúc âm và sự giao
thoa của nếp sống truyền thống dân tộc.
Phương châm sống “kính Chúa, yêu
Người” chính là thể hiện của nếp sống này.
Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống
các giá trị tinh thần của xã hội, giá trị luân
lý đạo đức là những nguyên lý, đạo lý,
những nguyên tắc ứng xử của một cộng
đồng, được cộng đồng thừa nhận và đem
vận dụng trong đời sống nhằm điều chỉnh,
đánh giá hành vi cá nhân và của cả cộng
đồng. Nếu xét trên bình diện như vậy thì
đây chính là những luân lý đạo đức mà
Công giáo đã ảnh hưởng đến cộng đồng
người Việt, góp phần quảng bá tiếng nói
đạo đức theo nhận thức và biện pháp tiến
hành riêng của mình.
Vũ Đức Chính
43
Văn hóa Công giáo nói chung, văn hóa
đạo đức Công giáo nói riêng xét có mặt hạn
chế trong một chừng mực nhất định nào đó,
nhưng khi nghiên cứu về ảnh hưởng của văn
hóa Công giáo đến tín ngưỡng truyền thống
và đạo đức người Việt Nam, chúng ta không
chỉ cảm nhận được những vẻ đẹp bên ngoài
của văn hóa phương Tây hiện diện trong
lòng văn hóa phương Đông mà còn được
“đắm mình” trong văn hóa phương Tây khi
nó thẩm thấu vào hồn dân tộc, một đặc tính
của văn hóa mới mang sắc thái văn hóa riêng
- văn hóa Công giáo Việt Nam.
4. Kết luận
Văn hóa tôn giáo nói chung, văn hóa
Phật giáo và văn hóa Công giáo nói riêng,
có tác động hết sức to lớn đến đời sống tinh
thần của con người Việt Nam. Tư tưởng
khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa
ác... của Phật giáo cùng tư tưởng bác ái của
Công giáo đã có tác dụng thức tỉnh lương
tri con người, điều chỉnh hành vi của các cá
nhân và cộng đồng để xây dựng một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Trên cơ sở đó, con người
sẽ được sống trong môi trường hòa bình,
nhân ái, không có chiến tranh hủy diệt,
khủng bố quốc tế và xung đột tôn giáo.
Từ những nghiên cứu trên, cũng có thể
khẳng định rằng, ảnh hưởng đối với đời
sống văn hóa tinh thần, không có ảnh
hưởng nào mạnh hơn tôn giáo và cũng
không có sự “quyến rũ” nào mạnh bằng sự
“quyến rũ” của tôn giáo khi tôn giáo đã đi
vào lòng người. Tôn giáo tuy có một số mặt
hạn chế nhất định, nhưng xét về mặt bản
chất, tôn giáo chính là văn hóa, là một trong
những nguồn gốc của văn hóa. Và như vậy,
sự du nhập của Phật giáo hay Công giáo
vào Việt Nam chính là sự du nhập văn hóa
từ bên ngoài vào, hòa quyện với văn hóa
truyền thống để tạo ra một luồng văn hóa
mới tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc
Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
[1] Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hoá sử
cương, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
[2] Toan Ánh (1996), Phong tục thờ cúng tổ
tiên trong gia đình Việt Nam, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
[3] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
(2002), Vấn đề về tôn giáo và chính sách
tôn giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Bộ Chính trị Nghị quyết 24-NQ/TW ngày
16 tháng 10 năm 1990 về Tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới.
[5] Leopold Cadière (1997), Về văn hoá và tín
ngưỡng truyền thống người Việt, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
[6] Giuse Maria Trịnh Văn Căn (1985), Kinh
Thánh Tân Ước, Toà Tổng Giám mục,
Hà Nội.
[7] Linh mục Thiện Cẩm (1987), Đức tin và
văn hoá, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt
Nam, Tp. Hồ Chí Minh.
[8] Nguyễn Huệ Chi (1998), “Về hiện tượng
dung hợp trong văn hoá Việt Nam”, Tạp
chí Xưa & Nay, số 57.
[9] Nguyễn Hồng Dương (1993), “Hội nhập
văn hóa truyền thống Việt Nam trong lịch
sử”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
1, tháng 10.
[10] Nguyễn Hồng Dương (1999), “Bước
đường hội nhập văn hóa dân tộc của Công
giáo Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 1 và 2.
[11] Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và
lối sống Công giáo trong văn hóa Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[12] Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1992), Kinh
Trung A Hàm, Viện Nghiên cứu Phật học
ấn hành, Hà Nội.
[13] Hội thánh tôn giáo Vatican II (1983) Bộ
Giáo luật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[14] Nguyễn Khắc Thuần (2006), Tiến trình
văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016
44
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24121_80672_1_pb_4873_2007354.pdf