Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Quốc phòng và an ninh cho sinh viên trường Đại học An Giang hiện nay - Trần Khánh Mai

3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP 3.1 Kết luận Từ kết quả điều tra, khảo sát đã làm rõ thực trạng chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường thời gian qua trên các mặt về tổ chức giáo dục; về thực trạng các thành tố cấu thành của quá trình giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. Sự tác động của GD trên tất cả các lĩnh vực trong hoạt động GDQP&AN đã nâng cao nhận thức toàn diện cho SV và các lực lượng có liên quan đặc biệt về vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng của công tác GDQP&AN. Đồng thời, CB, GV và SV hiểu biết hơn về âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá đối với cách mạng Việt Nam; về yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước tình hình mới và vai trò trách nhiệm to lớn của thế hệ trẻ SV đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Với những phân tích, đánh giá chung cả về mặt định lượng và định tính cho thấy, trong thời gian qua, chất lượng GDQP&AN là cơ bản thuận lợi, bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn tại một số mặt hạn chế bất cập nhất định cần được khắc phục. Đồng thời qua nghiên cứu thực trạng, tác giả rút ra một số nhận định để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG, cụ thể như sau: Một là, đã có sự quan tâm chú trọng đúng mức đối với việc không ngừng nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ CBQL, GV, công chức, viên chức và SV toàn Trường về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác GDQP&AN trước tình hình hiện nay. Hai là, thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động sáng tạo (lấy người học làm trung tâm) đã đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đổi mới giáo dục toàn diện. Ba là, coi trọng việc củng cố và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng (khoa, phòng, ban, trung tâm, BM), các lực lượng hỗ trợ khác trong công tác GDQP&AN. Bốn là, quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ đạo của cấp trên, vận dụng, tổ chức làm tốt công tác bảo đảm về mọi mặt (Mục tiêu, nội dung, chương trình GDQP&AN, tổ chức lực lượng GV, cơ sở vật chất, hậu cần kĩ thuật, thao trường bãi tập.) trong quá trình GDQP&AN cho SV. 3.2 Khuyến nghị một số giải pháp Để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV trong thời gian tới, cần quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là: Thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về GDQP&AN; Bám sát yêu cầu sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan điểm Đại hội XII/2016 của Đảng nhằm phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 116, 117); Quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ của cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân; Đảm bảo vững chắc kết quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực và yêu cầu bảo đảm quốc phòng và an ninh trên địa bàn. Trên cơ sở quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN như sau: 1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng sư phạm chuyên trách, đội ngũ CB, công chức, viên chức trong toàn Trường với công tác GDQP&AN cho SV. 2. Xây dựng củng cố chất lượng, số lượng đội ngũ GV GDQP&AN vừa hồng vừa chuyên và hợp lý về cơ cấu tổ chức bộ máy; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ GDQP&AN trước tình hình mới. 3. Thường xuyên nâng cao vai trò trách nhiệm cá nhân trong việc xây dựng chương trình chi tiết môn học, biên soạn giáo án, kế hoạch bài giảng đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với quá trình giáo dục; tích cực đổi mới phương pháp trong giảng dạy và sử dụng có hiệu quả các phương pháp phù hợp với nội dung lý luận và thực hành của môn học; nắm vững đặc điểm và chất lượng từng đối tượng người học, thông tin phản hồi từ SV để rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương pháp giáo dục đạt hiệu quả. 4. Tham mưu kịp thời, đề xuất cấp trên, cơ quan thẩm quyền về phương hướng đổi mới chương trình, nội dung và đa dạng hóa cácAn Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 108 hình thức, phương pháp giảng – dạy, quản lý chất lượng GDQP&AN. 5. Tiếp tục phát huy tính tích cực và hiệu quả thực chất của môn học GDQP&AN theo niên chế tín chỉ. Đồng thời triển khai vận dụng đảm bảo thực hiệt tốt quy định về chuẩn đầu ra, đề cương chi tiết môn học (theo CDIO/2016) đã được Hiệu trưởng phê duyệt. 6. Tích cực xây dựng, ứng dụng, khai thác khả năng của các phương tiện khoa học – công nghệ ứng dụng trong dạy học GDQP&AN. 7. Phát huy tốt sự giúp đỡ của các tổ chức, các lực lượng vũ trang nhân dân, chính quyền địa phương đối với công tác giáo dục. Qua tổng hợp kết quả nghiên cứu, đánh giá khảo sát, bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) CB, GV và SV đã chứng minh, việc áp dụng các giải pháp được đề xuất sẽ đáp ứng yêu cầu đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường hiện nay.

pdf15 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Quốc phòng và an ninh cho sinh viên trường Đại học An Giang hiện nay - Trần Khánh Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 95 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN NAY Trần Khánh Mai1 1Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 16/10/2017 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 27/11/2017 Ngày chấp nhận đăng: 12/2017 Title: The reality and solutions in enhancing the quality of National Defense and Security Education for students at An Giang university at present Keywords: Realities, solutions, the quality of National Defense and Security Education, students, An Giang university Từ khóa: Thực trạng, giải pháp, chất lượng Giáo dục quốc phòng và an ninh, sinh viên, Trường Đại học An Giang ABSTRACT National defense and security education is a regular strategic duty of the Communist Party, Vietnamese people, and the whole political system. Together with implementing the objectives, directions, responsibilities, requirements in renovating the education and training according to the Resolution of the Assembly 12 (2016), enhancing the teaching quality of National Defense and Security Education for students at An Giang university is currently essential. In order to evaluate of the reality of teaching and find out the solutions in education quality enhancement, the survey was conducted from staff and lecturers of National Defense and Security Education Department, and students at An Giang University. The finding show that there are still existing shortcomings in learning activities and the course assessment which are necessary to be adjusted, and then to find out suitable solutions to contribute to the quality in teaching and learning this course at the university. TÓM TẮT Giáo dục quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ có tính chiến lược, thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Đồng thời việc quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo theo tinh thần Nghị quyết tại Đại hội XII (2016) của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên tại Trường Đại học An Giang nói riêng hiện nay là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn. Để đánh giá đúng thực trạng dạy học, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, tác giả tổng hợp kết quả qua khảo sát bằng bảng hỏi của cán bộ quản lý, giảng viên bộ môn Giáo dục Quốc phòng, sinh viên ở nhà trường. Từ đó, tác giả nhận thấy rằng thực trạng còn biểu hiện một số mặt tồn tại, khiếm khuyết nhất định trong tổ chức hoạt động dạy học, đánh giá chất lượng môn học cần được tác động điều chỉnh kịp thời, đề xuất các giải pháp và kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh trong nhà trường hiện nay. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 96 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục Quốc phòng và An ninh (GDQP&AN) được Đảng và nhà nước ta xác định là một nội dung của nền giáo dục quốc gia, là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN). GDQP&AN góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Với nhà trường, trong giai đoạn cách mạng hiện nay nhiệm vụ GDQP&AN là làm sao cho thế hệ trẻ sinh viên (SV) nhận thức được giá trị nền độc lập, tự do, sự hy sinh lớn lao của các thế hệ ông cha để bảo vệ đất nước. Xuất phát từ quan điểm của Đảng, việc phổ cập và tăng cường GDQP&AN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục tập trung có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chế độ XHCN, lịch sử truyền thống của Đảng và dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010, tr. 14). Với ý nghĩa đó, GDQP&AN trong giai đoạn hiện nay không chỉ đơn thuần là môn học về kỹ thuật quân sự mà là một hệ thống kiến thức tổng hợp về quốc phòng, an ninh, trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và góp phần giáo dục về ý thức, trách nhiệm qua đó hình thành phẩm chất, đạo đức người lao động, người chiến sĩ trong tương lai của thế hệ trẻ đang học tập trong nhà trường. Trước tình hình thực tế hiện nay, ở cấp độ địa phương nói chung và trường ta nói riêng cũng chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực GDQP&AN. Vì vậy, với nhiệm vụ chính trị môn học GDQP&AN đặt ra trước mắt cũng như lâu dài, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy GDQP&AN cho SV Trường Đại học An Giang (ĐHAG) hiện nay, là vấn đề cần thiết có ý nghĩa thực tiễn. 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN NAY Trường Đại học An Giang đã thành lập Bộ môn Giáo dục Quốc phòng (BM GDQP) trực thuộc từ tháng 10/2000 có nhiệm vụ giảng dạy theo chương trình và quy định tổ chức giảng dạy và đánh giá kết quả học tập môn học GDQP&AN hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GDĐT). Trường ĐHAG được chính thức công nhận là Đơn vị chủ quản (Bộ GDĐT, 2011), tự tiến hành tổ chức giảng dạy, đánh giá kết quả môn học và cấp chứng chỉ GDQP&AN cho SV bắt đầu từ năm học 2011 trở đi. Do vậy, BM GDQP có nhiệm vụ giảng dạy theo chương trình được quy định tại Thông tư số 31/2012/TT- BGDĐT ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc ban hành Chương trình GDQP&AN trình độ đại học, cao đẳng và văn bản hướng dẫn số 6353/BGDĐT-GDQP ngày 26/9/2012; Thông tư số 40/2012/TT-BGDĐT ngày 19/11/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc ban hành Quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn học GDQP&AN (Bộ GDĐT, 2007; 2012). Để tìm hiểu thực trạng dạy học môn GDQP&AN tại Trường ĐHAG, tác giả đã tiến hành nghiên cứu 300 SV khóa đại học 14, 15 và cao đẳng 39 trong học kỳ 2 năm học 2015 - 2016 và 30 cán bộ (CB) quản lý và giảng viên (GV) thuộc khoa, phòng liên quan và BM GDQP. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát. Kết quả khảo sát được sử dụng An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 97 phương pháp thống kê toán học để xử lý đánh giá phân tích. 2.1 Về đội ngũ giảng viên và hoạt động tổ chức giáo dục quốc phòng và an ninh Từ khi thành lập BM GDQP trực thuộc Ban giám hiệu (BGH) từ ngày 12/10/2000. Với đội ngũ GV cơ hữu chỉ có 3 người và 2 GV kiêm nhiệm, đến nay về đội ngũ GV GDQP&AN đã có 14 người (và 1 GV kiêm nhiệm). Hiện nay, tất cả GV đều đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm giảng dạy đại học và giảng dạy GDQP&AN. Có 6 GV nguyên là sĩ quan chuyên nghiệp quân đội, công an; 8 sĩ quan Dự bị động viên (đều đã qua đào tạo ở trường quân đội, công an; 2 sĩ quan pháo binh, 1 sĩ quan lục quân và 1 Đại học An ninh Nhân dân), về học vị có 9 GV thạc sỹ, 6 cử nhân. Đảng viên 13/15 người (86,7%) (Bảng 1). Bảng 1. Số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh của Trường Đại học An Giang GV SL Thạc sĩ Cử nhân Sĩ quan Công an Quân đội Lý luận CT GV chính Chuyên viên chính Sĩ quan Chuyên nghiệp Sĩ quan Dự bị TC CC Cơ hữu 14 08 6 1 5 8 4 2 1 1 Thỉnh giảng 1 1 1 TC 15 9 6 2 5 8 4 2 1 1 Như vậy, so với đối tượng là GV khác, GV GDQP&AN của trường hầu hết đều là sĩ quan (chuyên nghiệp và dự bị) quân đội, công an, có trình độ chuyên môn khá (Thạc sỹ: 9/15 GV); thâm niên giảng dạy GDQP&AN ít nhất 1 năm đến 17 năm; về độ tuổi từ 20 đến < 50 có 10 GV và 5 GV có tuổi trên 50; về trình độ chính trị có 4 GV trình độ trung cấp, 2 GV cao cấp và số lượng đảng viên hiện nay có 13/15 GV và 2 GV được công nhận “GV dạy giỏi” môn học GDQP&AN cấp quốc gia nên có nhiều lợi thế hơn trong công tác giảng dạy môn học này. Thực tế qua kết quả điều tra khảo sát cho thấy, đa số các ý kiến (96,7% của CB, GV và 93,3% của SV) nhận xét ở mức độ 1, 2 (rất tốt và tốt); tuy nhiên cũng còn 3,3% ý kiến của CB, GV và 6,7 %, của SV nhận xét ở mức độ 3, 4 (trung bình, yếu) đối với đội ngũ GV trên các giá trị chung được đánh giá và cần có thời gian, biện pháp điều chỉnh phù hợp trong thời gian tới (Biểu đồ 1). Do đó, trong thời gian tới, nhà trường cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về xây dựng đội ngũ GV (như: nâng cao năng lực chuyên môn, phương pháp giảng dạy, phẩm chất đạo đức lối sống). Biểu đồ 1. Mức độ nhận xét chất lượng đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 98 (cụ thể trên cả 3 tiêu chí) Về ý kiến tổng hợp đánh giá của người học (từ Phòng Khảo thí và Kiểm định Chất lượng) đối với đội ngũ GV trong năm học 2015 - 2016 cho thấy, 100% GV đạt loại xuất sắc (GV được đánh giá ở 12 tiêu chí); mức độ điểm trung bình của GV thấp nhất là 4,15 điểm; GV có điểm cao nhất là: 42,64 (xếp hạng cấp Khoa của GV có chỉ số thấp nhất là 26, cao nhất là 42). Đây cũng là cơ sở để xem xét mức độ tương tác chất lượng, phương pháp giảng dạy, kiến thức chuyên môn, đạo đức tác phong của người thầy với kết quả học tập, rèn luyện của SV trong môn học GDQP&AN ở Trường ĐHAG. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số đội ngũ CB, GV, SV đã nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác GDQP&AN trước tình hình hiện nay, qua đó nâng cao được ý thức, tinh thần thái độ và trách nhiệm trong tổ chức thực hiện giáo dục. Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) của CB GV và SV về sự cần thiết và mục tiêu của công tác GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG như sau (Biểu đồ 2). Biểu đồ 2. Kết quả khảo sát đánh giá sự cần thiết và mục tiêu đào tạo của công tác Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên Tuy vậy, trong điều kiện số lượng SV khá lớn, các yếu tố bảo đảm cho GDQP&AN của nhà trường cũng có hạn chế nhất định nên cũng gặp không ít khó khăn trong công tác tổ chức giáo dục. Nhìn chung lực lượng GV ở BM còn thiếu và chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chuẩn hóa của Bộ GDĐT. Cơ sở vật chất mặc dù được củng cố, bảo quản, sửa chữa nhưng vẫn còn thiếu (không được trang bị mới) so với quy định và chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu bảo đảm cho GDQP&AN, nhất là trong điều kiện số lượng SV đông, quản lý và học tập tập trung trong một thời gian ngắn (học hè) ở nội dung kĩ chiến thuật quân sự (HP-3). Mặt khác trong quá trình giảng – dạy, vai trò trách nhiệm của các GV đối với hoạt động giáo dục đôi lúc chưa được thể hiện và phát huy đầy đủ. Chưa thực hiện sâu sát, thường xuyên các nội dung quản lý, như quản lý, về chương trình, nội dung, phương pháp dạy học (PPDH); quản lý người dạy, người học, cơ sở vật chất, Mối quan hệ, sự hiểu biết giữa người dạy và người học trong quá trình giáo dục còn hạn chế. Các hoạt động kiểm tra, đánh giá nắm thông tin ngược để điều chỉnh quá trình giáo dục chưa được thực hiện thường xuyên. Việc gắn nội dung giáo dục với thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của SV chưa được chú trọng đúng mức. Dự báo trong thời gian tới, lượng SV sẽ có khả năng tăng hơn, yêu cầu chất lượng GDQP&AN cũng cao hơn; công tác GDQP&AN đòi hỏi phải chuẩn hóa để đáp ứng với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực tế đó đòi hỏi, nhà trường cần phải tiếp tục phát huy cao nhất mọi nguồn lực cho việc thực hiện tốt hoạt động GDQP&AN (Bảng 2). An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 99 Bảng 2. Dự báo lưu lượng tuyển sinh các hệ đào tạo đến năm 2020 (không kể trình độ trên đại học) TT Hệ đào tạo Năm học 2017 - 2018 2018 - 2019 2019 - 2020 1 Đại học chính quy 1.500 2.000 2.500 2 Đại học ngoài chính quy (LK) 400 700 900 3 Cao đẳng 600 + Tổng cộng 2.500 2.700 3.400 Mặt khác, từ thực trạng giảng dạy môn học GDQP&AN, trong thời gian tới số lượng SV có khả năng tiếp tục tăng lên (Bảng 2), việc giảng dạy vượt giờ (> 200 tiết/năm/GV) đều đặn như những năm qua của GV GDQP&AN, tất yếu sẽ còn phải tiếp tục, từ đó phần nào cũng làm ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giáo dục, trật tự nội vụ kỉ cương, nề nếp của SV cũng như sức khỏe của GV. Thời gian tới cần bổ sung lượng GV GDQP&AN ít nhất 4 người, đòi hỏi phải có biện pháp linh hoạt mới có thể đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GDQP&AN trong nhà trường cả về trước mắt và lâu dài. 2.2 Về giáo dục quốc phòng và an ninh - Về chương trình, nội dung giáo dục: nhà trường đang thực hiện giảng dạy theo chương trình được quy định tại Thông tư số 31/2012/TT-BGDĐT ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc ban hành Chương trình GDQP&AN trình độ đại học, cao đẳng và văn bản hướng dẫn số 6353/BGDĐT-GDQP ngày 26/9/2012; Thông tư số 40/2012/TT-BGDĐT ngày 19/11/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc ban hành Quy định tổ chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn học GDQP&AN, đồng thời đảm bảo yêu cầu đào tạo theo niên chế tín chỉ, chuẩn đầu ra, đề cương chi tiết môn học (theo CDIO/2016) đã được Hiệu trưởng Trường ĐHAG phê duyệt. Khảo sát ý kiến của CB, GV và SV về sự phù hợp kết cấu nội dung, thời lượng của chương trình GDQP&AN cho SV của Trường hiện nay, bên cạnh đa số ý kiến đánh giá (% bình quân/3 học phần) về tính phù hợp vẫn còn một số lượng nhất định (SV: 83; CB, GV: 01; chiếm tỉ lệ 10,33%) cho rằng, chưa hoặc ít phù hợp (lý do là cần tập trung thời gian cho một số bài quan trọng trong phần lý thuyết (HP:1,2) sao cho không bị trùng lặp với các môn học lịch sử, pháp luật. Riêng học phần quân sự (HP3) có một số ý kiến nêu ra là: cần giảm thời gian ở một số nội dung như: thuốc nổ; phòng chống vũ khí hủy diệt lớn; chiến thuật và nếu để kết cấu thời gian, nội dung ở các bài học như hiện tại thì sẽ phù hợp hơn trong đào tạo chuyên ngành GDQP&AN) (Bảng 3). Bảng 3. Về sự phù hợp của nội dung, chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên TT Mô tả học phần/Mức độ đánh giá Kết quả đánh giá về sự phù hợp của nội dung, chương trình SL CB, GV (%) SL SV (%) I Học phần I: Đường lối quân sự của Đảng 1 Rất phù hợp 3 10,00 130 43,33 2 Phù hợp 27 90,00 145 48,33 3 Ít phù hợp 0 // 21 7,00 4 Không phù hợp 0 // 4 1,33 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 100 TT Mô tả học phần/Mức độ đánh giá Kết quả đánh giá về sự phù hợp của nội dung, chương trình SL CB, GV (%) SL SV (%) II Học phần II: Công tác quốc phòng an ninh 1 Rất phù hợp 3 10,00 131 43,66 2 Phù hợp 27 90,00 137 45,66 3 Ít phù hợp 0 // 24 8,00 4 Không phù hợp 0 // 8 2,66 III Học phần III: Quân sự chung và kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK (CKC) 1 Rất phù hợp 3 10,00 124 41,33 2 Phù hợp 26 86,66 150 50,00 3 Ít phù hợp 1 3,33 20 6,66 4 Không phù hợp 0 // 6 2,00 Gắn liền với nội dung, chương trình, thì việc nghiên cứu giáo trình GDQP&AN và một số văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) liên quan trực tiếp đến quá trình tổ chức thực hiện giảng dạy môn học của CBQL, GV và SV có tầm quan trọng, không thể thiếu để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tổ chức xây dựng kế hoạch giảng dạy (năm học), kế hoạch bài giảng, nội dung quản lý, đánh giá chất lượng, kết quả học tập của SV. Nội dung này cũng được tiến hành khảo sát, kết quả cho thấy đội ngũ CBGV và SV có sự quan tâm nghiên cứu, vận dụng trong giảng – dạy, học tập ở mức độ khá, tốt (Bảng 4). Bảng 4. Mức độ nghiên cứu giáo trình, văn bản về giáo dục quốc phòng và an ninh TT CÁC VBQPPL VỀ GDQP&AN MỨC ĐỘ, KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA CB, GV/SV (%) Tốt Khá Trung bình Yếu CB, GV SV CB, GV SV CB, GV SV CB, GV SV 1 Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 về GDQP&AN 0 48,33 76,66 37,66 20 11, 66 3,33 2,33 2 Giáo trình GDQP&AN (tập 1, 2) 30 54,66 66,66 35 3,33 7,3 3 0 3 3 Luật GDQP&AN số 30/2013/QH13 ngày 19/6/2013 23,33 47,66 63,33 39,33 10 12, 33 3,33 0,66 4 Thông tư số 31, 40 và 18 về Chương trình GDQP&AN và quản lý chất lượng GDQP&AN 36,66 50 60 33,33 0 16 3,33 0,66 Tuy nhiên, việc nghiên cứu 4 loại VBQPPL quan trọng về GDQP&AN để vận dụng thực hiện trong quản lý, giảng dạy, học tập của SV và CB, GV được tổng hợp qua ý kiến của SV đánh giá (ở An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 101 mức độ 4) chiếm 6,7% và ý kiến CB, GV tỉ lệ 10,0% cho kết quả nghiên cứu còn ở mức độ yếu (nhất là nội dung Thông tư số 31, 40, 18; Luật GDQP&AN và Nghị định 116/CP). - Về phương pháp, hình thức GDQP&AN: về cơ bản các PPDH đang được GV và SV sử dụng phù hợp với mục tiêu và nội dung giáo dục. Trong đó, với các nội dung giảng dạy lý thuyết, chủ yếu GV đã sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại, gợi mở vấn đề. Các nội dung liên quan đến kỹ năng, kỹ xảo hành động như điều lệnh đội ngũ, sử dụng vũ khí trang bị GV đã sử dụng các phương pháp như giới thiệu hướng dẫn động tác, làm mẫu, làm theo, luyện tập, hội thao Các nội dung liên quan đến nghệ thuật quân sự như chiến thuật cá nhân, chiến thuật cấp phân đội nhỏ ngoài giới thiệu hướng dẫn, làm mẫu động tác, các GV còn sử dụng các phương pháp khuyến khích tính tích cực nhận thức của người học như PP tạo tình huống, phương pháp cùng tham gia, nêu vấn đề gợi mở tư duy của SV trong học tập (Bảng 5). Bảng 5. Thực trạng sử dụng phương pháp của giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh TT HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GDQP, AN MỨC ĐỘ PHÙ HỢP % Rất phù hợp (1) Phù hợp (2) Ít phù hợp (3) Không phù hợp (4) 1 Một số phương pháp giảng dạy lí thuyết 1.1 Phương pháp thuyết trình truyền thống 34,00 53,00 11,00 2,00 1.2 Phương pháp tái tạo, minh chứng lịch sử, thực tiễn 42,66 47,33 6,66 3,33 1.3 Phương pháp đặt vấn đề, giải quyết vấn đề 43,66 47,33 5,33 3,66 1.4 Phương pháp xử lí tình huống 48,66 44,00 4,66 2,66 2 Một số phương pháp giảng dạy thực hành 2.1 Phương pháp kết hợp lí thuyết với thực hành 59,00 35,33 3,66 2,00 2.2 Phương pháp GV thực hiện theo các bước quy định 47,66 44,33 6,33 1,66 2.3 Phương pháp SV thực hiện theo các bước quy định (tự nghiên cứu, tập chậm từng động tác, tập nhanh, tập tổng hợp và ghép các bước vào đội hình...) 49,33 45,00 3,00 2,66 3 Một số phương pháp tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV 3.1 Trắc nghiệm khách quan 50,00 39,66 7,00 3,33 3.2 Tự luận 34,00 54,33 7,33 4,33 3.3 Vấn đáp 39,33 47,66 8,66 4,33 3.4 Thực hành (SV báo cáo bài, bốc câu hỏi trả lời, tự nghiên cứu) 48,33 39,33 9,00 3,33 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 102 Đánh giá các mức độ chung của tất cả các tiêu chí (11) trong hệ thống các phương pháp (dạy lý thuyết, thực hành và kiểm tra đánh giá kết quả học tập) của GV được SV nhận xét khá cao ở mức độ 1 (rất phù hợp) là 45,13%; mức độ 2 (phù hợp): 45,24%. Tuy nhiên, mức độ 3 (ít phù hợp) và mức độ 4 (không phù hợp) SV đã có sự đánh giá nhận xét ở tỉ lệ là 6,60% và 3,03%. Tương ứng với phương pháp của người dạy, SV cũng sử dụng các phương pháp, cách thức học tập tương ứng như ghi chép lĩnh hội, tự học củng cố, mở rộng đào sâu kiến thức, tự luyện tập thuần thục động tác, tự kiểm tra đánh giá, tự điều khiển, điều chỉnh trong quá trình đảm bảo yêu cầu rèn luyện, học tập trên một số lĩnh vực cụ thể đối với môn học GDQP&AN (Bảng 6). Bảng 6. Thực trạng kết quả nhận thức chung về môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh TT CÁC NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHẬN XÉT % Rất tốt (1) Tốt (2) Khá (3) Trung bình (4) 1 Nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng 50,66 42,00 5,33 2,00 2 Nắm được lí luận cơ bản của môn học 45,00 48,00 5,00 2,00 3 Nắm được kĩ năng về quân sự (kĩ thuật, chiến thuật và khoa mục chung) 48,66 41,33 6,66 3,33 4 Nâng cao kỉ luật, trật tự nội vụ, tác phong 46,66 43,33 6,66 3,33 5 Tinh thần tham gia hoạt động thể thao, thể thao quốc phòng 45,00 44,00 8,00 3,00 6 Tinh thần tham gia các hoạt động tập thể khác 44,00 43,33 10,66 2,00 7 Nhìn chung có tiến bộ về nhận thức (kiến thức GDQP&AN) và tư thế tác phong người lính 43,00 45,66 8,00 3,33 8 Đảm bảo được số lượng SV (sĩ số) 35,66 53,33 9,66 1,33 Tuy vậy, chất lượng thực hiện phương pháp, hình thức dạy học trong GDQP&AN còn có mặt hạn chế. Việc hiểu biết và kỹ năng sử dụng phương pháp giảng dạy của một số GV có mặt chưa tốt; có phương pháp sử dụng chưa phù hợp với nội dung và đối tượng người học. Quan sát các buổi lên lớp chúng tôi thấy, trong giảng dạy lý thuyết, một số GV còn nói quá nhanh, hoặc quá chậm, nội dung thiếu lôgíc, mạch lạc, kết hợp sử dụng ngôn ngữ nói với điệu bộ động tác và các phương tiện giảng dạy chưa thuần thục. Trong các nội dung liên quan đến kỹ thuật động tác có GV thực hiện chưa chuẩn xác, thiếu thuần thục làm ảnh hưởng đến việc lĩnh hội kiến thức của người học Trong các hoạt động học tập, nhất là tự học, nhiều SV còn thụ động, chưa chú trọng nghiên cứu tài liệu giáo trình trước khi lên lớp, ít tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận học tập, chưa tích cực luyện tập, rèn luyện làm chủ vũ khí trang bị và thành thục các kỹ năng, kỹ xảo hành động quân sự. Ý kiến đánh giá mức độ sử dụng bình quân (Mức độ 1 – 4) đối với các phương pháp dạy học tích cực GDQP&AN ở Trường đang áp dụng hiện nay: Nhận xét của CB, GV có 14,5% trả lời “Rất thường xuyên”; 83,3% trả lời “Thường xuyên” và có 2,2% “Chưa thường xuyên” và “Không sử dụng”. Ý kiến của SV, có 44,4% trả lời “Rất thường xuyên”; 45,1% trả lời “Thường xuyên” ; có 8,0% “Chưa thường xuyên” và 2,5% “Không sử dụng” đồng thời cũng có thể nghiên cứu kết quả đánh giá (%) các mức độ sử dụng cụ thể trên từng phương pháp giảng dạy, học tập của GV và SV (Biểu đồ 3). An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 103 Biểu đồ 3. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh Quá trình vận dụng các PPDH học tích cực cho thấy đã có sự tác động tốt đến người học về kết quả học tập ở cả 3 học phần GDQP&AN và nhận thức chung của SV về tầm quan trọng của môn học. Môn học GDQP&AN trực tiếp tác động đến nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, nắm được lý luận cơ bản, kĩ năng quân sự cần thiết; ý thức trật tự nội vụ, tác phong, tinh thần đồng đội tập thể; hoạt động thể thao quốc phòng gắn liền với quá trình tự quản, tự rèn luyện trong học tập, sinh hoạt trên thao trường, phòng học, ký túc xá,... Tuy nhiên cũng có ý kiến của SV phản hồi một số quan niệm cho rằng, môn học GDQP&AN chưa phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay; SV không thích học môn học GDQP&AN; môn học GDQP&AN chưa tạo được hứng thú cho người học (mức độ 1 – hoàn toàn không đồng ý) là: 15,22%; (mức độ 2 – không đồng ý) là: 22,55%. Ý kiến đồng tình (mức độ 4 – đồng ý) là: 29,55%; (mức độ 5 – rất đồng ý) là: 16,77% và (mức độ 3 – trung lập) là: 15,88% (Biểu đồ 4). Biểu đồ 4. Ý kiến phản hổi về tính phù hợp môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh 2.3 Về kết quả giáo dục quốc phòng và an ninh Kết quả GDQP&AN cho SV trong nhà trường hiện nay đạt được tương đối tốt, tỉ lệ xuất sắc 4,3% và khá - giỏi 70,7%, kết quả này hoàn toàn phù hợp, sát với số liệu tổng kết các năm học gần đây của nhà trường. Trước đó vào năm 2009 và 2011, Hội đồng GDQP&AN Trung ương và Quân khu 9 (Bộ Quốc phòng) cũng đã tiến hành kiểm tra kết quả GDQP&AN và nhận thức kiến thức của SV Trường ĐHAG, nhà trường được đánh giá công nhận (cả 2 lần) đều An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 104 đạt loại KHÁ và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, UBND tỉnh An Giang khen tặng Bằng khen về công tác GDQP&AN (Bộ Tư lệnh Quân khu Quân khu 9, Bộ Quốc phòng, 2009). Đồng thời cũng từ kết quả điều tra tổng hợp chung (số liệu cả 3 học phần trong năm học 2015 - 2016) là cơ bản, tỉ lệ đạt loại khá, giỏi ở mức cao và có so sánh giữa SV đại học với SV cao đẳng cho thấy độ lệch nhau ở các tiêu chí đánh giá kết quả học tập không đáng kể, cụ thể dưới đây (Biểu đồ 5). Biểu đồ 5. Tỉ lệ đạt loại khá, giỏi so sánh giữa sinh viên đại học với sinh viên cao đẳng Ngoài kết quả chung về GDQP&AN, thì bên cạnh hoạt động giáo dục chính khóa, trong điều kiện của nhà trường quan tâm hỗ trợ và sự giúp đỡ của các đơn vị quân đội, trong nhiều năm qua nhà trường đã duy trì thường xuyên tổ chức hoạt động thể thao quốc phòng (thi đấu các môn ném lựu đạn, chạy vũ trang, bắn súng) đều đạt kết quả tốt, nhất là thực hành kiểm tra bắn đạn thật súng tiểu liên AK-47 cho SV các khóa học (sau khi kết thúc HP3) tại trường bắn quân sự (Trung đoàn 3, f330-QK9) với tỉ lệ SV tham gia 5% - 10%/SV toàn khóa. Kết quả bắn đạn thật 3 năm học gần đây (Trường ĐHAG, 2016) (Bảng 7). Bảng 7. Kết quả bắn đạn thật của sinh viên trong 3 năm học gần đây Kết quả bắn đạn thật Tổng số SV Giỏi Khá Đạt Không đạt 2014 188 33,0% 40,4% 26,6% 0% 2015 109 11,0% 40,4% 48,6% 0% 2016 203 52,7% 41,9% 5,4% 0% Đánh giá nhận thức hiểu biết chung về môn học GDQP&AN của SV, kết quả điều tra phản ảnh: đối với SV, có 43,3% tự đánh giá Môn học GDQP&AN có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay; 41,0% giúp cho SV nâng cao lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước; 50,7% SV được nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; 48,7% SV nắm được cơ bản kĩ năng về quân sự (kĩ thuật, chiến thuật); 43,0% SV đánh giá chung có tiến bộ về nhận thức (kiến thức GDQP&AN) và tư thế tác phong người lính... trong khi đó 16,7% SV cho rằng Môn học GDQP&AN chưa phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay; 10,0% SV có ý kiến không thích học môn học GDQP&AN và 4,4% kết quả học tập không đạt yêu cầu. Đối với CBQL và GV, có 83,3% ý kiến đánh giá về nhận thức tư tưởng, chính trị được nâng cao; 80,0% ý kiến ở mức độ nắm được lí luận cơ bản của môn học và kĩ năng về quân sự (kĩ thuật, chiến thuật) của SV hiện nay An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 105 khá tốt. Tuy nhiên còn có 5,0% ý kiến cho rằng kết quả nhận thức kiến thức GDQP&AN của SV còn hạn chế. Những hạn chế được GV nhận xét bởi một số nguyên nhân chủ yếu do: Mục tiêu, yêu cầu, nội dung của chương trình GDQP&AN đặt ra còn cao (13,3%); Thiếu cơ sở vật chất, thiết bị, phòng học chuyên dụng, trang phục kiểu dáng quân đội cho SV (50,0%); Phương pháp giảng dạy của một số GV chưa phù hợp (20,0%); Kiểm tra, đánh giá còn nhẹ nên không kích thích được học tập (50,0%) và chưa khơi dậy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập của SV (30,0%)... Bên cạnh chất lượng nhận thức cũng như kết quả phân tích số liệu cụ thể của GV, SV đối với môn học GDQP&AN là cơ bản, đạt được mục tiêu, yêu cầu chung của môn học. Tuy nhiên cũng còn tồn tại những hạn chế nhất định (như đã nêu ở trên). Để khắc phục vấn đề này, qua nghiên cứu ý kiến nhận xét, đề xuất của CB, GV cho đánh giá về tính cấp thiết, tính khả thi của mội số biện pháp có tính định hướng, định lượng để tăng cường hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy môn học GDQP&AN cho SV ở nhà trường (Bảng 8). Bảng 8. Ý kiến của cán bộ, giảng viên về một giải pháp quản lý, tồ chức nâng cao chất lượng Giáo dục Quốc phòng và An ninh TT Biện pháp\ Kết quả Tính cấp thiết % Tính khả thi % Rất cần thiết (1) Cần thiết (2) Ít cần thiết (3) Rất khả thi (1) Khả Thi (2) Ít khả thi (3) 1 Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác GDQP&AN đối với CB, đặc biệt là CBQL trong Trường ĐHAG. 66,7 33,3 20,0 76,7 3,3 2 Đổi mới công tác quản lí nội dung chương trình GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG. 20,0 80,0 13,3 83,4 3,3 3 Phát triển đội ngũ CBQL, GV GDQP&AN đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và hợp lý về cơ cấu tổ chức bộ máy. 23,3 76,7 13,3 83,4 3,3 4 Thường xuyên hoàn thiện phương pháp và hình thức tổ chức dạy học GDQP&AN, kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức cũng như hành động của SV đại học. 23,3 76,7 10,0 90,0 5 Tăng cường quản lí cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học GDQP&AN cho SV. 30,0 70,0 10,0 90,0 6 Hoàn thiện cơ chế quản lý GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG. 20,0 80,0 6,7 93,3 Như vậy, các ý kiến đánh giá nhận xét, đề xuất chung các giải pháp (6) của CB-GV đã chỉ ra tính cấp thiết, tính khả thi cao (Tính cấp thiết, mức độ 1: 30,6%; mức độ 2: 69,4% và Tính khả thi, mức độ 1: 12,2%; mức độ 2: 86,1% và mức độ 3: 1,7%), vừa có tính định hướng trong trước mắt cũng như lâu dài có thể thực hiện ngay trong điều kiện hiện nay. Nếu An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 106 nhà trường tổ chức thực hiện tốt các biện pháp trên sẽ tạo ra động lực mới tác động trực tiếp đến quá trình giáo dục cho SV và đảm bảo nâng cao chất lượng giảng – dạy, kết quả học tập môn học GDQP&AN trong nhà trường. 2.4 Về cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục quốc phòng và an ninh Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường, sự hỗ trợ Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh nên điều kiện cơ sở vật chất, vũ khí, thiết bị quân sự, phòng học, phương tiện phục vụ GDQP&AN được đầu tư, mua sắm trang bị, sửa chữa.kể cả việc đầu tư kinh phí hàng năm mua sắm các phương tiện, thiết bị, phần mềm về kỹ thuật quân sự để hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy và học. Về thao trường huấn luyện quân sự, nhà trường đã dành 1 phần diện tích đất khoảng 2.500 m2 xây dựng tường, hào, ụ súng, nhà tập, khá khang trang, phù hợp phục vụ huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật bộ binh, tập bắn súng, từng người trong tiến công, phòng ngự, 3 môn QS phối hợp và sân chạy vũ trang, huấn luyện thể thao quốc phòng... đảm bảo phục vụ cho lưu lượng từ 500 – 1.000 SV học tập tập trung (HP-3) theo mô hình huấn luyện quân sự... Tuy nhiên, so với yêu cầu cơ sở vật chất bảo đảm nâng cao chất lượng GDQP&AN được đồng bộ, hoàn thiện hơn, thì hiện nay còn nhiều bất cập, trong đó tài liệu bảo đảm cho SV tự học, tự nghiên cứu chưa đáp ứng được 100% yêu cầu. Cơ sở vật chất chậm đổi mới và thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với vị trí vai trò của môn học đã xác định. Khu ký túc xá tập trung đảm bảo cho SV học tập, sinh hoạt theo nếp sống quân sự trong suốt thời kỳ học môn GDQP&AN (nhất là trong học kì hè) chưa có, vũ khí, khí tài quân dụng chưa được bảo đảm (không được trang bị mới); những loại học cụ, chương trình phần mềm mới có ứng dụng công nghệ thông tin còn thiếu, phòng học chuyên dùng cho GDQP&AN chưa được xây dựng, đặc biệt là công tác đảm bảo trang phục kiểu dáng quân đội cho SV học GDQP&AN nhiều năm qua chưa được cấp phát theo quy định mới (Bảng 9). Bảng 9. Đánh giá của cán bộ, giảng viên và sinh viên về thực trạng đảm bảo tài liệu, cơ sở vật chất, trang phục quân sự. Mức độ bảo đảm Đánh giá của CB, GV % Đánh giá của SV % Tốt 14,2% 35,6% Khá 75.8% 46,0% Trung bình 10,0% 14,0% Yếu 0,00% 4,4% Như vậy, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo cho GDQP&AN là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục và tự nó đã làm giảm vị thế của môn học trong hệ thống các môn học khác trong nhà trường, có 18,4% ý kiến của SV và 10,0% CB, GV đánh giá (% bình quân trên các tiêu chí) về đảm bảo cơ sở vật chất đạt được ở mức độ trung bình và yếu). Vấn đề này cần được khắc phục, điều chỉnh nhằm đảm bảo tối thiểu nhu cầu về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy GDQP&AN trong thời gian tới. 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP 3.1 Kết luận Từ kết quả điều tra, khảo sát đã làm rõ thực trạng chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường thời gian qua trên các mặt về tổ chức giáo dục; về thực trạng các thành tố cấu thành của quá trình giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. Sự tác động của GD trên tất cả các lĩnh vực trong hoạt động GDQP&AN đã nâng cao nhận thức An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 107 toàn diện cho SV và các lực lượng có liên quan đặc biệt về vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng của công tác GDQP&AN. Đồng thời, CB, GV và SV hiểu biết hơn về âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá đối với cách mạng Việt Nam; về yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước tình hình mới và vai trò trách nhiệm to lớn của thế hệ trẻ SV đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Với những phân tích, đánh giá chung cả về mặt định lượng và định tính cho thấy, trong thời gian qua, chất lượng GDQP&AN là cơ bản thuận lợi, bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn tại một số mặt hạn chế bất cập nhất định cần được khắc phục. Đồng thời qua nghiên cứu thực trạng, tác giả rút ra một số nhận định để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG, cụ thể như sau: Một là, đã có sự quan tâm chú trọng đúng mức đối với việc không ngừng nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ CBQL, GV, công chức, viên chức và SV toàn Trường về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác GDQP&AN trước tình hình hiện nay. Hai là, thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động sáng tạo (lấy người học làm trung tâm) đã đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đổi mới giáo dục toàn diện. Ba là, coi trọng việc củng cố và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng (khoa, phòng, ban, trung tâm, BM), các lực lượng hỗ trợ khác trong công tác GDQP&AN. Bốn là, quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ đạo của cấp trên, vận dụng, tổ chức làm tốt công tác bảo đảm về mọi mặt (Mục tiêu, nội dung, chương trình GDQP&AN, tổ chức lực lượng GV, cơ sở vật chất, hậu cần kĩ thuật, thao trường bãi tập...) trong quá trình GDQP&AN cho SV. 3.2 Khuyến nghị một số giải pháp Để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV trong thời gian tới, cần quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là: Thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về GDQP&AN; Bám sát yêu cầu sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan điểm Đại hội XII/2016 của Đảng nhằm phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 116, 117); Quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ của cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân; Đảm bảo vững chắc kết quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực và yêu cầu bảo đảm quốc phòng và an ninh trên địa bàn. Trên cơ sở quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN như sau: 1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng sư phạm chuyên trách, đội ngũ CB, công chức, viên chức trong toàn Trường với công tác GDQP&AN cho SV. 2. Xây dựng củng cố chất lượng, số lượng đội ngũ GV GDQP&AN vừa hồng vừa chuyên và hợp lý về cơ cấu tổ chức bộ máy; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ GDQP&AN trước tình hình mới. 3. Thường xuyên nâng cao vai trò trách nhiệm cá nhân trong việc xây dựng chương trình chi tiết môn học, biên soạn giáo án, kế hoạch bài giảng đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với quá trình giáo dục; tích cực đổi mới phương pháp trong giảng dạy và sử dụng có hiệu quả các phương pháp phù hợp với nội dung lý luận và thực hành của môn học; nắm vững đặc điểm và chất lượng từng đối tượng người học, thông tin phản hồi từ SV để rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương pháp giáo dục đạt hiệu quả. 4. Tham mưu kịp thời, đề xuất cấp trên, cơ quan thẩm quyền về phương hướng đổi mới chương trình, nội dung và đa dạng hóa các An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 108 hình thức, phương pháp giảng – dạy, quản lý chất lượng GDQP&AN. 5. Tiếp tục phát huy tính tích cực và hiệu quả thực chất của môn học GDQP&AN theo niên chế tín chỉ. Đồng thời triển khai vận dụng đảm bảo thực hiệt tốt quy định về chuẩn đầu ra, đề cương chi tiết môn học (theo CDIO/2016) đã được Hiệu trưởng phê duyệt. 6. Tích cực xây dựng, ứng dụng, khai thác khả năng của các phương tiện khoa học – công nghệ ứng dụng trong dạy học GDQP&AN. 7. Phát huy tốt sự giúp đỡ của các tổ chức, các lực lượng vũ trang nhân dân, chính quyền địa phương đối với công tác giáo dục. Qua tổng hợp kết quả nghiên cứu, đánh giá khảo sát, bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) CB, GV và SV đã chứng minh, việc áp dụng các giải pháp được đề xuất sẽ đáp ứng yêu cầu đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2007). Giáo trình Giáo dục Quốc phòng - An ninh (dùng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng - tập1&2). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Bộ giáo dục và Đào tạo. (2010). Chỉ thị số: 12- CT/TƯ, ngày 03/5/2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Các văn bản hiện hành về Giáo dục Quốc phòng - An ninh. Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2012). Thông tư số: 31/2012/TT-BGDĐT, ngày 12/9/2012 về Chương trình Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Bộ GDĐT, Hà Nội. Truy cập từ: ban/vanban/Pages/default.aspx?Page=10 Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2012). Thông tư số: 40/2012/TT-BGDĐT, ngày 19/11/2012 về Quản lý chất lượng Giáo dục Quốc phòng - An ninh, Bộ GDĐT, Hà Nội. Truy cập từ: ban/vanban/Pages/default.aspx?Page=10 Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2011). Trường Đại học An Giang là đơn vị chủ quản tồ chức giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh. Văn bản số 7567/BGDĐT-GDQP của Bộ GDĐT, Hà Nội. Bộ tư lệnh Quân khu IX-BQP. (2009). Báo cáo nhận xét kết quả thanh tra thực hiện Nghị định của Chính phủ, Số 119/2007/ NĐ – CP ngày 11/5/2004 về công tác quốc phòng của Trường Đại học An Giang. Đoàn Thanh tra – Bộ tư lệnh QK9. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. (2013). Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh số: 30/2013/QH13, Hà Nội. Truy cập từ: =28731 Trường Đại học An Giang. (2016). Báo cáo tổng kết năm học 2015-2016”. Bộ môn GDQP - Trường ĐHAG. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109 109 PHỤ LỤC Giảng viên hướng dẫn học chiến thuật quân sự cho sinh viên - ĐH15 (Thao trường quân sự - Trường Đại học An Giang – 6/2016) Sinh viên ĐH15 thực hành bắn đạn thật, súng AK47 (Trường bắn Trung đoàn 3-QK9 – 6/2016)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf11_tran_khanh_mai_6047_2034793.pdf
Tài liệu liên quan