Những vấn đề cơ bản về phầm đạo đức trong giai đoạn hiện nay

- Người lái xe khách, xe buýt phải luôn có ý thức về tính tổ chức, kỷ luật, thực hiện nghiêm biểu đồ xe chạy được phân công. - Thực hiện đúng hành trình, lịch trình, đón trả khách đúng nơi quy định, vận hành phương tiện theo đúng quy trình kỹ thuật đảm bảo an toàn cho người và phương tiện với tinh thần trách nhiệm cao. - Giúp đỡ hành khách khi đi xe, đặc biệt là những người khuyết tật, người già, trẻ em và phụ nữ có thai, có con nhỏ; tôn trọng và có trách nhiệm cao với hành khách. - Người lái xe vận tải hàng hoá cần thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung hợp đồng giữa chủ phương tiện với chủ hàng trong việc vận chuyển và bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển; không chở hàng cấm,không xếp hàng hoá quá trọng tải xe, quá trọng tải cho phép của cầu, đường. - Khi vận chuyển hàng quá khổ, quá tải, hàng nguy hiểm,hàng siêu trường, siêu trọng, phải có giấy phép, phải tôn trọng và thực hiện nghiêm ngặt những quy định về vận chuyển hàng hoá quá khổ, quá tải, hàng siêu trường, siêu trọng, hàng nguy hiểm. - Người lái xe kinh doanh vận tải cần phải yêu quý xe, quản lý và sử dụng xe tốt; bảo dưỡng xe đúng định kỳ; thực hành tiết kiệm vật tư, nhiên liệu; luôn tu dưỡng bản thân, có lối sống lành mạnh, tác phong làm việc công nghiệp. - Nắm vững các quy định của pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, lái xe an toàn; coi hành khách như người thân, coi khách hàng là đối tác tin cậy; có ý thức tổ chức kỷ luật, và xây dựng doanh nghiệp vững mạnh; có tinh thần hợp tác, tương trợ giúp đỡ đồng nghiệp. - Đối với người thi hành công vụ phải nghiêm túc, hợp tác, chấp hành và có ý thức tham gia giao thông, bảo vệ môi trường.

pdf20 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề cơ bản về phầm đạo đức trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình cảm tốt đẹp, thôi thúc con người vươn lên những giá trị đạo đức đẹp đẽ, cao thượng, phải luôn luôn phấn đầu giữ lương tâm trong sạch. đ) Nhân phẩm và danh dự : Nhân phẩm là giá trị đạo đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên rèn luyện. Nhân phẩm (còn gọi là phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt được, là giá trị làm người của mỗi con người. Người có nhân phẩm phải là người có những hiểu biết tốt đẹp sau : - Có lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp đạo đức, có nhu cầu và tinh thần và xã hội phát triển cao, lành mạnh. - Thực hiện tốt các nghĩa vụ đạo đức đối với xã hội, với người khác. - Thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Xã hội đánh giá cao người có nhân phẩm, được kính trọng và có vinh dự lớn. Người không có nhân phẩm sẽ bị xã hội coi thường, thậm chí khinh rẻ Danh dự là nhân phẩm của con người đã được xã hội cũng như chính bản thân người đó đánh giá, công nhận. Mỗi người có quyền đánh giá công nhận nhân phẩm của mình, nhưng sự đánh giá và công nhận của xã hội thường vẫn có ý nghĩa quyết định. Danh dự có ý nghĩa rất lớn đối với con người. Trừ một số kẻ đạo đức xấu. Người ta ai cũng có danh dự mà chính mỗi người phải giữ gìn và mọi người trong xã hội phải tôn 3 trọng, không được xúc phạm. Giữ gìn danh dự là sức mạnh tinh thần thúc đẩy con người làm điều tốt và ngăn cản con người làm điều xấu. Con người cũng phải có lòng tự trọng, chăm lo giữ gìn nhân phẩm và danh dự của mình đồng thời luôn luôn tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, không được có hành vi thô bạo xúc phạm đến những giá trị đạo đức và nhân phẩm của người khác. Người có lòng tự trọng sẽ được xã hội quý trọng và sự quý trọng của xã hội càng củng cố lòng tự trọng của mỗi cá nhân. e) Hạnh phúc và tình yêu : Trong cuộc sống của cá nhân, những kích thích bên ngoài, những tác động của hiện thực khách quan đã ảnh hưởng tới con người và gây ra những cảm xúc rung cảm, làm cho con người vui sướng hoặc đau khổ ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ theo con người được thoả mãn hoặc không thoả mãn nhu cầu lợi ích, những mong ước chủ quan để đảm bảo sự sống và sự phát triển của mình. Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, bao gồm : nhu cầu vật chất (như ăn, mặc, ở, đi lại ...) nhu cầu tinh thần (như học tập, nghiên cứu sáng tạo, thưởng thức văn hoá nghệ thuật ...), nhu cầu giao tiếp và hoạt động xã hội. Con người luôn vươn tới sự thoả mãn nhu cầu vì khi đã thoả mãn được nhu cầu này thì con người lại nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phức tạp hơn đòi hỏi được thoả mãn tiếp. Khi con người được đáp ứng nhu cầu và lợi ích của mình thì con người có cảm xúc vui sướng, thích thú, khoan khoái ... và lúc đó con người cảm thấy hạnh phúc. Cảm xúc của con người luôn gắn với từng cá nhân cụ thể cho nên nói đến hạnh phúc trước tiên là nói đến hạnh phúc cá nhân. Tuy vậy con người sống trong xã hội phải có nghĩa vụ đối với mọi người đem lại lợi ích và hạnh phúc cho mọi người, phục vụ lợi ích và hạnh phúc của xã hội. Vì vậy con người phải chăm lo xây dựng hạnh phúc cho mình và cho mọi người. Lòng yêu nước, tình yêu đất nước là một tình cảm đã có từ lâu đời, nó được lớn dần lên cùng với sự mở rộng quan hệ của con người với đất nước. Qua nhiều thế hệ tình yêu đất nước được củng cố, được kế thừa những giá trị tinh hoa và được nâng lên mãi, có xu hướng mong muốn đem toàn bộ hoạt động của mình phục vụ lợi ích của Tổ Quốc. Tình yêu đất nước được bắt nguồn từ : - Tình yêu đối với những người thân thiết nhất, gần gũi nhất của mỗi người trong xã hội như : Tình yêu cha mẹ, vợ con, anh, chị em, họ hàng, tình yêu lứa đôi và những người xung quanh mình. - Tình yêu quê hương, lúc đầu là thôn xóm, làng xã nơi mình sinh ra, nơi gắn bó những kỷ niệm thời thơ ấu. Khi con người lớn lên, hoạt động xã hội mở rộng thì quê hương là Huyện, Tỉnh hoặc Thành phố của mình và lớn nhất là Đất nước. - Từ tình yêu người thân, yêu xung quanh và yêu quê hương, mỗi người tiến dần đến tình yêu đất nước, yêu nhân dân. 2-Khái niệm về đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa : Phẩm chất đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa cũng bao gồm đầy đủ các phạm trù đạo đức cơ bản như đã nêu ở Điểm 1.2.1. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo 4 toàn dân xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa còn bao gồm các phạm trù sau : a) Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế : Khi nói đến lòng yêu nước là nói đến tình cảm đạo đức. Nhưng khi nói đến chủ nghĩa yêu nước là nói đến một phạm vi rộng lớn, đến một nguyên tắc đạo đức và chính trị, là một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành đối với Tổ Quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa, ý trí bảo vệ những lợi ích của Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước chi phối mọi chuẩn mực hành vi đạo đức và hoạt động chính trị của mọi người dân trong đất nước và là một tình cảm, là một tư tưởng thiêng liêng cao quý nhất. Trong giai đoạn hiện nay chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện chủ yếu trên các mặt sau : - Xây dựng đất nước giàu mạnh. - Bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. - Phát huy truyền thống tốt đẹp và nâng cao lòng tự hào dân tộc, khắc phục khó khăn to lớn trước mắt, đưa đất nước tiến lên một giai đoạn phát triển mới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thế giới mà chúng ta đang sống gồm nhiều quốc gia và quan hệ quốc tế luôn tồn tại những mối quan hệ giữa các quốc gia và quan hệ quốc tế, chính là những mối quan hệ quốc tế và lòng nhân ái giữa người nước này với người nước khác là nền tảng của tinh thần Quốc tế và chủ nghĩa Quốc tế. Khi nói đến tinh thần Quốc tế, mới nói đến một tình cảm đẹp đẽ, nhưng khi nói đến chủ nghĩa Quốc tế là nói đến một nguyên tắc căn bản của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân các nước là đoàn kết, đấu tranh với chủ nghĩa Tư bản, giải phóng xã hội và giải phóng dân tộc. b) Quan điểm và thái độ đúng đắn đối với lao động : Lao động đối với từng người là nguồn gốc để có được các phương tiện sống, để nuôi sống bản thân và gia đình. Đối với xã hội là nguồn gốc của mọi tài sản xã hội, mọi tiến bộ vật chất, làm cho xã hội ngày càng văn minh hơn, hoàn thiện hơn. Trong lao động hiểu biết được nảy sinh và trí sáng tạo được phát triển. Lao động giúp cho người ta có thể làm đẹp thêm cuộc sống của mình và tạo thêm điều kiện cho con người nâng cao thêm nhận thức về cái đẹp để ngày càng sống đẹp hơn. Thái độ đối với lao động là một chuẩn mực quan trọng để đo phẩm giá con người, con người chỉ được tôn trọng khi có thái độ lao động đúng đắn, thể hiện trên những điểm chủ yếu sau : - Coi trọng cả lao động trí óc lẫn lao động chân tay. - Lao động cần cù và khoa học, lao động năng suất và chất lượng. - Chống lười biếng và dối trá, chống làm ăn cẩu thả, tuỳ tiện. - Chăm lo thực hành tiết kiệm, kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí. 5 c) Chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa : Mỗi cá nhân là một thành viên không thể tách rời của một giai cấp nhất định, một xã hội nhất định, một tập thể nhất định, cùng hoạt động và giúp đỡ lẫn nhau nhằm thực hiện những nhiệm vụ chung để đạt đến những mục đích chung. Chủ nghĩa tập thể là một quan niệm sống, một tình cảm đạo đức, đòi hỏi mỗi con người phải có hiểu biết và thói quen kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tập thể là một nguyên tắc đạo đức chi phối mọi quan hệ giữa người với người thuộc mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội, mọi chuẩn mực xã hội. Một số biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tập thể là : - Tôn trọng lợi ích và các quyết định tập thể. - Tôn trọng kỷ luật của tổ chức, pháp luật của nhà nước. - Tôn trọng sự bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau theo tinh thần đồng chí. - Tập thể quan tâm đến cá nhân, đến việc thoả mãn nhu cầu và phát triển năng lực của cá nhân. d) Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa : Người ta ai cũng có tình cảm nhân đạo hoặc lòng nhân ái. Không có lòng nhân ái con người dễ dàng trở thành kẻ ác, thành người vô lương tâm vì không có động lực nào đủ mạnh để ngăn cản họ làm việc tàn ác, hung bạo. Trên cơ sở tình cảm nhân đạo hình thành nên tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo là thể hiện sự yêu thương, tôn trọng con người, chăm lo đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện của con người, tạo ra các điều kiện vật chất, tinh thần cho cuộc sống của con người. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa được thể hiện chủ yếu như sau : - Được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa tập thể. - Yêu thương và tôn trọng con người nói chung nhưng rất chú ý đến người lao động, đến các giai cấp bị bóc lột, đối xử nhân đạo đối với kẻ xấu, kẻ ác, giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, người có ích cho xã hội. - Xác định tiền đề cần thiết cho tự do chân chính và sự phát triển toàn diện, hài hoà của mỗi con người là sự giải phóng người lao động khỏi áp bức, bóc lột. - Chăm lo nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của con người, tạo điều kiện để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần của con người. e) Tình bạn, tình đồng chí : Trong giao tiếp tình bạn được nảy sinh, là tình cảm giữa những con người trong tập thể, hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng, vô tư và cao thượng, vì bạn quên mình không cần một sự đền bù nào cả, muốn đem đến cho bạn những điều tốt lành, giúp bạn hiểu được và khắc phục được những sai lầm của bản thân. Cuộc đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp quyết liệt, đòi hỏi phải có các Đảng chính trị làm bộ tham mưu tổ chức lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể để tập hợp quần chúng vv... Trong cuộc đấu tranh đó tình cảm giữa những con người ở cùng các tổ chức chính trị xuất hiện, đó là tình đồng chí. 6 Nét tiêu biểu về tình đồng chí của những con người cộng sản là tính tập thể, mục đích và tính tổ chức. Hiện nay, nước ta đang trải qua giai đoạn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có tác động mạnh đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với sự phát triển của đạo đức, đã gây ra sự sói mòn, trượt dốc về luân lý, đạo đức xã hội, nảy nở những hiện tượng tiêu cực như sản xuất hàng giả, lừa đảo, mại dâm, tham nhũng, sống chết mặc bay Mỗi chúng ta cần kế thừa và rèn luyện cho mình tình đồng chí cao đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 3-MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC CỦA DÂN TỘC TA : -Quan niệm về truyền thống đạo đức của dân tộc : Đạo đức luôn mang tính lịch sử. Cùng một dân tộc, trên cùng một loại quan hệ, mỗi thời đại lại có những quan niệm, chuẩn mực khác nhau. Bên cạnh những chuẩn mực có tính lịch sử đó, dân tộc nào cũng có những chuẩn mực có tính bền vững, tồn tại lâu dài và trở thành truyền thống đạo đức của dân tộc, được xem xét trên cơ sở một số nhận thức, quan niệm thống nhất sau : a) Tính nhân loại phổ biến của đạo đức : Con người có những sự khác nhau về dân tộc, về giai cấp do đó cũng có những sự khác nhau nhất định trong quan niệm và trong sự quy định những chuẩn mực đạo đức. Tuy vậy loài người vẫn có những quan niệm và những chuẩn mực chung, quy định hành vi của con người trong các cách xử thế tương tự giống nhau như : yêu mến, kính trọng cha mẹ, ông bà. Chính tính nhân loại phổ biến này giúp con người ở khắp nơi trên thế giới có thể hiểu biết quý mến, tôn trọng nhau, hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau ngay cả khi ngôn ngữ bất đồng. b) Tính dân tộc của đạo đức : Tính dân tộc là nhân tố bổ sung cho tính nhân loại phổ biến, không phủ định tính nhân loại phổ biến. Mỗi dân tộc đều có những chuẩn mực cụ thể về loại hành vi này hay hành vi khác mà dân tộc khác không có như : Người Việt Nam thường thờ cúng tổ tiên để tỏ lòng nhớ ơn nhưng không phải dân tộc nào cũng làm thế. c) Tính giai cấp của đạo đức : Mỗi con người không chỉ thuộc một dân tộc cụ thể mà còn thuộc một giai cấp nhất định của dân tộc đó. Vì vậy trên một phạm vi nhất định các quan hệ đối xử gắn bó chặt chẽ với quyền lợi giai cấp và địa vị giai cấp của giai cấp mà người đó sinh ra. d) Tính lịch sử và truyền thống của đạo đức : Đạo đức luôn mang tính lịch sử như gặp nhau là chắp tay vái chào hoặc bắt tay nhau và ôm hôn nhau. Bên cạnh những chuẩn mực có tính lịch sử đó, dân tộc nào cũng có những chuẩn mực có tính bền vững tồn tại lâu dài và trở thành truyền thống đạo đức của dân tộc thể hiện trong các tục lệ cổ truyền lành mạnh hay còn gọi là thuần phong mỹ tục mà nhân dân còn thực hiện, chúng ta cần bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Nhưng đồng thời cũng có những phong tục không tốt thể hiện trong các hủ tục xa hoa, lãnh phí, tùy tiện, coi thường pháp luật cần được loại bỏ dần trong đời sống xã hội. 7 -Một số nét về truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam : Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta bao gồm nhiều nội dung thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống đạo đức. Nhưng những nội dung cơ bản được truyền từ đời này qua đời khác, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội cần được phát huy là : a) Trọng nhân nghĩa : Người Việt Nam rất coi trọng nhân nghĩa, ai làm điều nhân nghĩa được cả xã hội kính trọng, ai làm điều không nhân nghĩa sẽ bị mọi người kinh bỉ và lương tâm cắn rứt. Nói đến nhân là nói đến lòng yêu thương quý mến và tôn trọng mọi người. Nói đến nghĩa là nói đến nghĩa vụ đối với quốc gia, xã hội. Nền tảng của nhân nghĩa là quan niệm lấy dân làm gốc, là lòng nhân ái của nhân dân. b) Trọng lễ độ : Người Việt Nam rất coi trọng lễ độ, coi trọng hành vi nhã nhặn, lịch sự, khiêm tốn, thể hiện là con người có văn hoá, biết tôn trọng người trên, quý mến người dưới và người ngang hàng, tôn trọng chính mình, giữ gìn tư cách, phẩm hạnh để người khác tôn trọng và không khinh thường mình. c) Trọng chữ tín : Tín là giữ lòng tin của mọi người, làm cho mọi người tin tưởng ở đức độ, lời nói, việc làm của mình, lời nói và việc làm phải đồng nhất, nói đúng sự thật, không nói gian, làm dối. d) Cần kiệm : Người Việt Nam vốn có đức tính cần kiệm (cần cù lao động, tiết kiệm) từ lâu đời, có tình cảm, ý thức và thái độ lao động nghiêm túc, chuyên cần, làm tròn trách nhiệm và sự phân công lao động mà xã hội đã giao cho mình, thực hiện tiêu dùng hợp lý, đúng mức độ cần thiết cho mỗi công việc, phù hợp với khả năng tài chính và vật chất của mỗi người có được. e) Liêm chính : Nhân dân ta rất coi trọng liêm chính, luôn đề cao người có đạo đức cá nhân trong sạch, không tham của người khác, đề cao các quan thanh liêm; chê bai, ghét bỏ những kẻ trộm cắp, tham nhũng, đề cao những người ngay thẳng, trung thực đối với mình cũng như đối với người khác, luôn nói đúng sự thật, không xuyên tạc, gian dối. g) Chí công vô tư : Chí công vô tư là yêu cầu đối với các quan chức trước đây, các cán bộ ngày nay và mỗi người dân phải hết lòng vì việc công, vì sự công bằng mà không thiên vị riêng tư, không để lợi ích riêng tư làm lệch cán cân công lý. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những truyền thống về đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Nhưng đặc biệt, đòi hỏi cao hơn đối với cán bộ công chức trong các cơ quan Nhà nước và đoàn thể. 8 TÊN BÀI : ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÁI XE KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI LÁI XE Ô TÔ : Đạo đức người lái xe ô tô bao gồm đầy đủ các phẩm chất đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa như đã nêu ở Điểm 1.2.2 chương I. Tuy nhiên do đặc điểm lao động của nghề lái xe ô tô, người lái xe ô tô còn phải có các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp như : Tính tổ chức, kỷ luật, tuân theo pháp luật, có tác phong làm việc công nghiệp, giúp đỡ mọi người, độc lập công tác và có tinh thần khắc phục khó khăn. I-ĐẶC ĐIỂM NGHỀ NGHIỆP : Giao thông vận tải là một chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật mang tính xã hội cao, có vị trí tiên phong trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và giao lưu văn hoá giữa các vùng của đất nước. Vận tải ô tô còn có những ưu điểm hơn hẳn các loại hình vận tải khác là tính cơ động cao, có thể vận chuyển hàng và khách tới những nơi hẻo lánh, vùng sâu, vùng xa. Nghề lái xe ô tô là loại hình hoạt động lao động độc lập, có những đặc thù riêng. Năng lực vận động là phối hợp vận động của tay và mắt, của tay và chân. Ngoài ra còn có năng lực phối hợp của các cơ quan cảm giác như : mắt, mũi, tai và các yếu tố tâm lý xã hội khi xử lý tình huống. Công việc của người lái xe ô tô diễn ra chủ yếu trong lúc điều khiển xe trên đường, trong quá trình lao động còn bị ảnh hưởng của môi trường giao thông như : ánh sáng, màu sắc, tiếng ồn, nhiệt độ và độ rung với cường độ lớn hơn các nghề khác. Người lái xe ô tô còn giữ vai trò quyết định trong việc sử dụng trọng tải và hành trình xe chạy, giữ gìn ô tô ở tình trạng kỹ thuật luôn luôn tốt. 1-Lái xe ô tô là một nghề với nhiều khó khăn : Lái xe ô tô là một nghề lao động trực tiếp, không kể thời tiết (mưa, gió, sương mù, nắng ...) không kể ngày, đêm, cả trên tuyến vắng heo hút, cheo leo đến nơi mật độ giao thông đông đúc. Lái xe là nghề nặng nhọc, độc hại, căng thẳng, lưu động thuộc nhóm nghề có tính nguy hiểm cao. Quá trình điều khiển phương tiện thường xuyên phải quan sát, phán đoán và thực hiện thao tác chính xác, nếu không tập trung rất dễ xảy ra tai nạn nguy hiểm. Trong tình hình trật tự an toàn giao thông như hiện nay, người lái xe không những phải có trình độ thực hành lái xe giỏi mà còn phải có đầu óc luôn tỉnh táo, phán đoán sớm mọi tình huống và xử lý hợp lý, kịp thời. Nếu chỉ lơ là hoặc chậm xử lý một chút có thể xảy ra tai nạn khôn lường. Người lái xe ô tô phải có trình độ kiến thức hiểu biết về cấu tạo, bảo dưỡng, sửa chữa ô tô để trong điều kiện một mình một xe có thể phán đoán được nguyên nhân hư hỏng và tự sửa chữa được các hư hỏng thường gặp. Người lái xe ô tô phải có sức khoẻ tốt (mắt, tai, mũi, tay chân và độ phản xạ nhạy bén) để đảm bảo lái xe an toàn trong bất kỳ tình huống nào. 2-Lái xe ô tô là nghề có quan hệ xã hội rộng : Lái xe ô tô là một nghề phổ biến và mang tính xã hội cao. 9 Người lái xe ô tô có điều kiện đi tới mọi miền của đất nước, giao tiếp rộng rãi với khách đi xe, với các tầng lớp dân cư, tiếp xúc với nhiều cảnh quan và phong tục tập quán khác nhau, tiếp thu được nhiều thông tin mới. Người lái xe ô tô được giao quản lý phương tiện có giá trị lớn, trên xe lại vận chuyển hành khách hoặc hàng hoá, tài sản có giá trị, yêu cầu người lái xe ô tô phải có trách nhiệm cao. Với điều kiện công tác độc lập, trong nhiều trường hợp người lái xe ô tô giữ vai trò thay mặt doanh nghiệp làm việc với các cơ quan địa phương, hoặc chỉ đạo bốc xếp, giao nhận, hướng dẫn khách như một cán bộ quản lý. Vì đặc điểm nghề nghiệp như đã nêu, người lái xe ô tô dễ tự do buông lỏng lối sống, không tự đấu tranh để giữ mình nên dễ sa ngã vào những tệ nạn xã hội như : Nghiện hút ma tuý, cờ bạc, trai gái, mại dâm ... thậm chí bị kẻ xấu dụ dỗ, lôi kéo vào làm ăn bất chính như chở hàng cấm, trốn lậu thuế ... vi phạm luật pháp. II-TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI LÁI XE Ô TÔ TRONG CÁCH MẠNG : Các thế hệ lái xe ô tô trong cách mạng đã để lại cho chúng ta những tấm gương sáng về đạo đức người lái xe ô tô cách mạng, sẵn sàng quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, dũng cảm mưu trí hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, đưa hàng tới đích nhanh, nhiều và an toàn. Luôn trau dồi đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có ý thức tôn trọng, yêu quý, giữ gìn của cải của Nhà nước và nhân dân, thực hiện đầy đủ lời dạy của Hồ Chủ Tịch “Yêu xe như con, quý xăng như máu, vượt khó khăn hoàn thành nhiệm vụ”. -Trong kháng chiến chống Pháp : Sau chiến dịch biên giới cuối năm 1950, chiến khu Việt Bắc đã được liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng được nối liền với khu 3, khu 4 và vùng Tây Bắc. Nhu cầu giao lưu hàng hóa phục vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống nhân dân vùng giải phóng ngày càng nhiều và cấp bách. Người lái xe ô tô đã vượt qua sự đánh phá ác liệt của máy bay địch, không kể ngày đêm, mưa lũ, vượt qua sông suối, ăn uống thiếu thốn, ở nơi xa dân vẫn nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên cường hoàn thành nhiệm vụ. Nổi bật là thành tích bảo vệ 3 xe ô tô của các đồng chí Nguyễn Thái Cần, Nguyễn Hữu Ngư, Nguyễn Khắc Chỉnh, Cao Đăng Hùng. Khi bị giặc Pháp bao vây đã đưa xe vào rừng tháo rời từng bộ phận, từng cụm chi tiết để khiêng đi cất dấu, còn lại khung xe, buồng lái được chất đầy củi khô và xăng để nếu giặc đến không bảo vệ được thì sẽ đốt, thiêu hủy xe. Năm 1952 đồng chí Nguyễn Khắc Cần đã được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua số 1 của tỉnh Phú Thọ và được Bác Hồ tặng thưởng đồng hồ, chăn len, quần áo, sau đó được tặng thưởng huân chương chiến sỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi điều khiển xe ô tô chạy ban ngày trên cánh đồng Nà Sản, xe của lái xe Nguyễn Văn Tuân và phụ xe Bạch Văn Cơ bị máy bay địch bắn phá, phụ xe Bạch Văn cơ đã không ngại nguy hiểm ra ngoài xe làm hiệu cho lái xe Nguyễn Văn Tuân xử trí : Khi máy bay bắn phá thì ẩn tránh, khi máy bay lượn vòng thì cho xe chạy, di chuyển vị trí làm mất mục tiêu. Gương dũng cảm bảo vệ xe an toàn đó đã được toàn tuyến học tập và cả hai người đều được tặng thưởng huân chương chiến sỹ. Tại Đại hội thi đua toàn quốc năm 1953 lái xe ô tô Trương Sĩ và thợ điện ô tô Nguyễn Văn Tạo đã được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, sau đó ông còn được 10 bầu làm đại biểu quốc hội khóa II. Đoàn xe C6 phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ được tặng thưởng Huân Chương chiến sỹ hạng ba. -Trong kháng chiến chống Mỹ : Ngay trong những ngày đầu tháng 8/1964 Đế Quốc Mỹ đã dùng không quân đánh phá rất ác liệt vào các công trình giao thông vận tải quan trọng của ta mà chủ yếu là đánh phá mạng lưới giao thông vận tải. Chúng đã dùng hơn 40 loại máy bay tối tân, bằng đủ loại bom đạn, với nhiều thủ đoạn vô cùng tàn bạo, xảo quyệt hòng tàn phá, đẩy lùi Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Ban đầu địch có gây cho ta một số khó khăn, lúng túng, việc vận tải chi viện cho chiến trường và phục vụ đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn. Thi hành chỉ thị của Bộ chính trị và của Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Ngành Giao thông vận tải xác định nhiệm vụ sẵn sàng phục vụ đắc lực cho các lực lượng vũ trang đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, chi viện cho tiền tuyền lớn Miền Nam đồng thời phục vụ cho hoạt động của các ngành kinh tế, quốc phòng ở Miền Bắc. Chỉ một thời gian sau, Ngành Giao thông vận tải nói chung, trong đó có giao thông vận tải đường bộ đã từng bước giành chủ động, rồi tiến tới chủ động hoàn toàn, bảo đảm giao thông vận tải thông suốt, liên tục, đáp ứng được yêu cầu của thực tế chiến đấu và sản xuất. Trong thời kỳ này, đối với ngành Giao thông vận tải đường bộ là thời kỳ sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ rất quyết liệt, chịu đựng nhiều khó khăn, gian khổ và hy sinh xương máu, trong điều kiện kinh tế của đất nước còn khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Ngành Giao thông vận tải đường bộ đã huy động được nhiều sức lực, tài năng trí tuệ, hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm giao thông đường bộ an toàn, thông suốt góp phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước thắng lợi, đưa đất nước ta đến hòa bình thống nhất. Lực lượng lái xe ô tô trẻ, khỏe được bổ sung dồi dào từ các ngành, các địa phương, từ đào tạo nước ngoài (chủ yếu từ Trung Quốc) và đạo tạo cấp tốc ở trong nước. Trước đây muốn trở thành người lái xe ô tô phải đào tạo từ 18 tháng đến 2 năm, sau đã rút xuống 6 tháng, rồi rút xuống 3 tháng và sau cùng rút xuống còn 1 tháng, chỉ cần biết lái xe ô tô là được giao xe để đảm bảo đủ lái xe cung cấp yêu cầu cấp bách của thời chiến. Nhiều tập thể và cá nhân lái xe ô tô đã dũng cảm vượt mọi khó khăn, gian khổ, nguy hiểm, lập nên nhiều chiến công. Ngày 18/4/1968 Hồ Chủ Tịch đã tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng 3 về thành tích trên mặt trận giao thông vận tải cho toàn thể cán bộ công nhân viên ngành vận tải đường bộ. Đầu năm 1968, Đoàn xe 8 được Bộ Giao thông vận tải Vinh được giữ lá cờ “Tập thể dũng sỹ chống Mỹ” của Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam gửi tặng Ngành Giao thông vận tải Miền Bắc. Tháng 8/1968, Đoàn 6 nhận nhiệm vụ mới vào chiến trường, tất cả lái xe có mặt trong chuyến đi thuộc ba đại đội 602, 604 và 606 đều viết quyết tâm thư ký bằng máu của mình. Chuyến đi có nhiều gian khổ hy sinh nhưng đã hoàn thành thắng lợi. Bản quyết tâm thư ký bằng máu này của Chi đoàn 602 hiện nay còn lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam mang số đăng ký 3522/GY155. Xí nghiệp vận tải ô tô Vĩnh Linh, hoạt động trên mảnh đất nhỏ hẹp tiếp giáp với Miền Nam, nơi bị địch đánh phá ác liệt từ trên trời xuống, ngoài biển vào và từ trong Nam 11 pháo kích ra nhưng vẫn kiên cường bám trụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tôn vinh là “Xí nghiệp thép, con người thép của đất thép”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chiến công của Ngành Giao thông vận tải đường bộ đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đã có nhiều tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu anh hùng như : - Tập thể đội xe 202 và 806. - Lái xe ô tô Trần Văn Thi và Cao Bá Tuyết ở đội xe 806 Đoàn 8. - Liệt sĩ Nguyễn Minh Ro, lái xe ở Đoàn 4. - Lái xe ô tô Trần Chí Thành ở Xí nghiệp vận tải ô tô Vĩnh Linh. -Trong thời kỳ khôi phục đất nước và đổi mới : Thời kỳ này Ngành Giao thông vận tải đã sử dụng nhiều biện pháp, với khả năng và lực lượng của mình thực hiện mục tiêu “Bảo đảm vận tải phục vụ đầy đủ, kịp thời, rút hàng nhập khẩu, giải tỏa các khâu đầu mối, vận chuyển cho CHDCND Lào, cho các tỉnh miền núi, cho yêu cầu vận chuyển Bắc Nam, cho xây dựng cơ bản các công trình trọng điểm, cho lưu thông phân phối, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu đi lại của nhân dân, chủ yếu là miền núi và liên vận Bắc Nam”. Đã tổ chức thi lái xe giỏi toàn quốc, tuyển chọn lái xe giỏi cả nước để dự thi lái xe giỏi các nước xã hội chủ nghĩa và từ năm 1998, tổ chức Hội thi lái xe ô tô giỏi, an toàn toàn quốc, cứ ba năm một lần. Trong giai đoạn này đã có nhiều đơn vị vận tải ô tô và nhiều cá nhân được tặng cờ, bằng khen và Huân chương lao động của Chính phủ. Tại đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ 5 tháng 3 năm 1985, Lái xe Nguyễn Bá Học ở Công ty Vận tải ô tô số 3 Cục Vận tải ô tô đã được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động. III-RÈN LUYỆN PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC NGƯỜI LÁI XE Ô TÔ : 1-Phát huy truyền thống đạo đức người lái xe ô tô trong cách mạng : Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ khôi phục, đổi mới đất nước của dân tộc, giao thông vận tải đã được xác định là nhiệm vụ trung tâm đột xuất của toàn Đảng, toàn dân, trong đó ngành Vận tải ô tô có vị trí đặc biệt quan trọng. Trên các tuyến đường vận chuyển, hàng ngày, hàng giờ rất nhiều người lái xe ô tô đã nêu cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, lập thành tích vẻ vang, xứng đáng là những người con ưu tú của giai cấp công nhân, xứng đáng với truyền thống đạo đức của dân tộc, đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa. Thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước, đội ngũ người lái xe ô tô ngày càng đông đảo, giao thông vận tải đường bộ đang tạo lập diện mạo mới với đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại, ngang tầm khu vực và quốc tế. Để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển mới, mỗi người lái xe ô tô cần phải khẳng định vị trí, vai trò của mình trong công cuộc phát triển vận tải ô rô, luôn luôn trau dồi, rèn luyện, phát huy truyền thống đạo đức người lái xe ô tô cách mạng. 12 2-Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam : a) Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với đạo đức : Ngày nay cơ chế thị trường đang tác động mạnh đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với đạo đức là một hiện tượng rất phức tạp, vừa có tính tích cực vừa có tính tiêu cực bao gồm : -Xu hướng phủ nhận ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường đối với đạo đức (thuyết trượt dốc). Những người theo thuyết này cho rằng việc chuyển sang kinh tế thị trường đã gây ra sự trượt dốc về luân lý đạo đức xã hội, biểu hiện sự sinh sôi nảy nở những hiện tượng tiêu cực xã hội như : sản xuất tiêu thụ hàng giả, lừa đảo, mại dâm, tham nhũng, thiếu quan tâm đến người khác; chưa thấy được ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường đối với đạo đức. -Xu hướng nhấn mạnh ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường đối với đạo đức (thuyết leo dốc). Trên cơ sở chỉ nhìn nhận tính tích cực của cơ chế thị trường, xu hướng này chỉ khẳng định tác động tích cực của cơ chế thị trường đối với sự phát triển của đạo đức. Theo họ, cơ chế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, nâng cao lợi ích xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, nâng cao trình độ luân lý, đạo đức xã hội. Về nhân cách được độc lập, tự do, có quyền bình đẳng trong cạnh tranh, phải giữ chữ “tín” trong trao đổi và tăng cường quan tâm phát triển lợi ích chung của toàn xã hội. Còn những hiện tượng tiêu cực chỉ là những trạng thái đi kèm với sự vô trật tự trong buổi đầu của kinh tế thị trường, là hậu quả của một cơ chế đang hình thành còn nhiều khiếm khuyết về đạo đức sẽ được khắc phục hoàn toàn. Cả 2 xu hướng trên nhìn nhận sự tác động của kinh tế thị trường đối với sự phát triển của đạo đức mang tính phiến diện cực đoan, không đúng đắn. -Xu hướng kinh tế thị trường tác động đối với đạo đức có hai mặt, cả tích cực và tiêu cực. Bên cạnh sự giải phóng to lớn đối với lực lượng sản xuất và tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhân cách con người như : Sự chủ động sáng tạo, ý thức và phong cách lao động khoa học , cơ chế thị trường cũng gây ra hàng loạt hiện tượng tiêu cực đối với tiến bộ xã hội. Đó là sự phân cực giàu – nghèo một cách sâu sắc. Từ đó tạo ra và khoét sâu thêm những mâu thuẫn xã hội, những tệ nạn như tham nhũng, tội phạm, bạo lực, kích thích lòng tham lợi, dẫn đến sự khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động. Đó là sự kích thích chủ nghĩa vi kỷ, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo đồng tiền. Vì thế, việc lực chọn nội dung và hình thức thích hợp đặc trưng cho nhân tính, đạo đức trước tác động của kinh tế thị trường trở thành vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. b) Vai trò của đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế bao gồm các nội dung sau: -Đạo đức góp phần định hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa. 13 Mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của cách mạng nước ta đồng nhất với mục tiêu của chủ nghĩa nhân đạo là làm cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, xã hội công bằng, văn minh. -Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ trong bản chất đã chứa đựng “yếu tố” luân lý đạo đức. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xây dựng thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác trở thành kết cấu nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế; Đòi hỏi phải sử dụng hợp lý, hữu hiệu các nguồn lực (thiết bị, nguyên liệu, nhân lực ) để nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, sản xuất ra hàng hóa có giá trị cao, bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng; đó là biểu hiện các quan điểm giá trị đạo đức : cần, kiệm, lao động trung thực; đánh giá hoạt động sản xuất, kinh doanh không còn chỉ là hiệu quả kinh tế mà còn là tình cảm, trách nhiệm và danh dự xã hội. -Động lực của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài những nhân tố kinh tế còn có cả những nhân tố văn hóa, tinh thần và đạo đức. Đạo đức khác nhau, dẫn đến phương thức cạnh tranh khác nhau : có cạnh tranh dẫn đến hủy hoại con người, hủy hoại môi trường, tàn phá sản xuất (cạnh tranh theo luật rừng); có cạnh tranh làm sản xuất phát triển, tạo ra sản phẩm nhiều hơn và tốt hơn, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, tạo ra cơ hội làm ăn tốt hơn; thực chất của cạnh tranh này làm cho đạo đức xã hội phát triển lành mạnh. -Đạo đức góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đạo đức gắn liền, “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Các chuẩn mực đạo đức duy trì trật tự chung trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, điều hòa quan hệ lợi ích giữa con người với con người, gắn bó thành quả lao động chung với vinh dự xã hội và lợi ích vật chất của cá nhân. Như vậy, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố bên trong của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đạo đức nghề nghiệp trong kinh tế thị trường là bộ phận hợp thành quan trọng của đạo đức xã hội chủ nghĩa, là điểm kết hợp tốt nhất, là cơ sở để xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần. 3-Thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức của người lái xe ô tô : Để trở thành người lao động chân chính, người công dân tốt, người lái xe ô tô phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của mình thể hiện qua những yêu cầu chính sau : a) Trung thực, thẳng thắn, có tính tổ chức và kỷ luật cao, tôn trọng và tuân thủ quy định của pháp luật. b) Yêu nghề, thường xuyên trau dồi kỹ năng nghề nghiệp và trình độ hiểu biết pháp luật, nghiệp vụ vận tải. c) Rèn luyện đức tính cần cù, chịu khó, cẩn trọng, bình tĩnh, tiết kiệm, giữ gìn chu đáo phương tiện “Yêu xe như con”. 14 d) Rèn luyện cách xử lý hợp lý và an toàn khi tham gia giao thông như chọn vị trí chạy xe thích hợp, giữ khoảng cách an toàn hai bên thân xe, phía trước và sau xe, với các xe đang đỗ, với mô tô, xe đạp, với những người và các phương tiện tham gia giao thông khác. e) Tôn trọng mọi người, yêu thương đồng đội, có trách nhiệm cao với hành khách, kính già, yêu trẻ, sẵn sàng tương trợ giúp đỡ đồng nghiệp, thực hiện giao tiếp, ứng xử có nhân phẩm và danh dự, không nóng nảy. g) Rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp, khẩn trương, chính xác. h) Làm chủ bản thân, làm ăn lương thiện, tránh xa các tệ nạn xã hội : Say rượu, cờ bạc ... và tuyệt đối không tiếp tay cho kẻ xấu, vận chuyển hàng cấm, vi phạm pháp luật. i) Cứu giúp tận tình người bị nạn. -Rèn luyện phẩm chất đạo đức người lái xe ô tô là công việc thường xuyên và suốt đời, phải luôn rút kinh nghiệm bản thân, tự tu dưỡng phấn đấu. Đất nước ta có nền văn hiến hàng nghìn năm và đã kết tinh thành giá trị nhân văn dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và đội ngũ công nhân giao thông vận tải nói riêng đã có truyền thống anh hùng vẻ vang, thông minh sáng tạo. Biết phát huy truyền thống quý báu đó và luôn luôn ý thức giữ gìn phấn đấu tốt, nhất định sẽ trở thành những người lái xe vừa có đức vừa có tài. 15 TÊN BÀI : CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ CẠNH TRANH TRONG KINH DOANH VẬN TẢI I-ĐẶC ĐIỂM CỦA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: 1. Đặc điểm của cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt động) kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Ngược lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi. Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ không có sản xuất thừa, cũng sẽ không có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do không có tổn thất xã hội. Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đối xứng, không có các ảnh hưởng ngoại lai, v.v... Nếu không, cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế. Khi đó có thất bại thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ cung cầu. Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ huy hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ chịu', chấp nhận cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu không sẽ bị đào thải. 2. Đặc điểm của cơ chế thị trường XHCN: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990[1]. Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.[1] Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử[2] Thêm vào đó, 16 công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn[2] Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa có đầy đủ.[2] Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[1]. Và, mãi tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số 22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị quyết 21-NQ/TW. Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng sau[2]:  Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.  Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.  Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công.  Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển.  Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.  Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. II- MỤC TIÊU NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP TRÊN LĨNH VỰC GTVT TRONG THỜI GIAN TỚI: Giao thông vận tải đường bộ trong giai đoạn này có rất nhiều biến động và thay đổi. Vận tải bằng ô tô phải đảm nhận vai trò xung kích, cơ động xuyên suốt chiều dài đất nước để đáp ứng kịp thời các yêu cầu lưu thông, vận chuyển khẩn thiết phục vụ khôi phục phát triển kinh tế và đời sống nhân dân cả nước. Theo quy luật kinh tế thị trường nói chung, nhu cầu rất lớn về đi lại để làm việc, học tập, kinh doanh... của người dân giữa các khu vực trong đô thị cũng như giữa đô thị với các vùng miền lân cận đã tạo nên sự bùng nổ về các phương tiện hàng ngày tham gia giao thông trên đường phố. Những phương tiện giao thông cá nhân dày đặc không những gây khó khăn cho công tác duy tu, sửa chữa đường sá mà còn là nguyên nhân chính gây ra tai nạn và un tắc giao thông. Chính vì vậy, việc quy hoạch và phát triển các loại hình đường giao thông công cộng có một ý nghĩa rất quan trọng: đường sắt (trên cao, trên mặt đất, đi ngầm) đóng vai trò vận chuyển trên trục chính, các phương tiện giao thông khác đóng vai trò phân toả hành khách. Hệ thống giao thông đường sắt có đặc điểm l loại hình hiện đại, chở được 17 nhiều, không ảnh hưởng đến môi trường, không bị ách tắc vì tuyến đường riêng, khu vực nhà ga có đầy đủ các dịch vụ cần thiết, đảm bảo mỹ quan thành phố.. III- QUY LUẬT CẠNH TRANH VÀ SỰ CẠNH TRANH KINH DOANH VẬN TẢI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: 1. Quy luật cạnh tranh: Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẽ, người tiêu dùng, thương nhân) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh tranh phi giá cả (Khuyến mãi, quảng cáo) Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế. 2. Sự cạnh tranh trong kinh doanh vận tải: Hiện nay, nhu cầu đi lại của người dân đã khác xưa, không còn quan điểm “đi lại bằng taxi phải thuộc một đẳng cấp cao”, mà taxi đ trở thành một phương tiện đi lại thông thường. Bên cạnh đó l chính sách của Chính phủ về việc bắt buộc người dân phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy khiến cho nhu cầu đi taxi cũng tăng cao, vì khi đi dự đám cưới, đám giỗ thì việc đội mũ bảo hiểm đâm ra khá phiền phức Vì thế tơi cho rằng thị trường taxi trong cả nước cũng như ở khu vực TP.HCM sẽ tiếp tục phát triển”. Hiện nay nhu cầu vận chuyển hàng hóa đang tăng nhanh, nhất là việc vận chuyển bằng vận tải container. 18 TÊN BÀI : NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM, QUYỀN HẠN CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG, CỦA LÁI XE TRONG KINH DOANH VẬN TẢI I-QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ LAO ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN : 1-Khái niệm lao động : Lao động là hành động có mục đích của con người, dùng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu sống của mình và xã hội. Trong quá trình phát triển lịch sử, loài người đã dần dần hình thành hai loại lao động là lao động chân tay và lao động trí óc. Lao động chân tay là lao động chủ yếu dựa vào sức của cơ bắp, tiêu phí sức cơ bắp. Lao động trí óc là loại lao động chủ yếu dựa vào năng lực của bộ óc con người, tiêu phí sức lực, trí óc của con người. Lao động tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Đối với từng người nó là nguồn gốc để có được các phương tiện sống nhằm nuôi dưỡng bản thân và gia đình. Đối với xã hội nó là nguồn gốc của mọi tài sản xã hội, mọi tiến bộ vật chất, văn hóa, tinh thần làm cho xã hội ngày càng văn minh hơn, hoàn thiện hơn. Hiến pháp nước ta đã quy định : Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. 2-Việc làm, quyền và nghĩa vụ lao động : Việc làm là một hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm, có thể ở trong khu vực nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh và trong gia đình. Mỗi công dân có sức lao động đều là chủ sở hữu sức lao động của mình. Quyền lao động của công dân là quyền được tự do sử dụng sức lao động của mình trong việc tìm kiếm, lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp để có ích cho xã hội, có thu nhập cho bản thân và gia đình mình, thực hiện quyền lao động của mình một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Nghĩa vụ lao động của công dân là mỗi người phải lao động để tự nuôi sống mình, nuôi sống gia đình, đồng thời góp phần duy trì và phát triển xã hội. Không ai được vì đời sống của bản thân, của gia đình đã đầy đủ mà không lao động. 3-Quyền tạo ra việc làm và quyền sử dụng lao động : Pháp luật nước ta đã quy định : Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội. Công dân có quyền tạo ra việc làm cho chính mình và cho người khác với sự khuyến khích bảo hộ của Nhà nước. Pháp luật bảo đảm cho công dân quyền được tự do hành nghề, tự do kinh doanh, đồng thời được quyền sử dụng lao động không hạn chế về số lượng và theo đúng phát luật. 19 II-LUẬT LAO ĐỘNG : Luật lao động là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Luật lao động được áp dụng đối với mọi người lao động, mọi tổ chức, các nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động, thuộc các thành phần kinh tế, và cũng được áp dụng đối với người học nghề, người giúp việc gia đình là công dân Việt Nam và người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức và cho các cá nhân người Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. 1-Hợp đồng lao động : Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong quan hệ lao động. 2-Các bên giao kết hợp đồng lao động : a) Hai bên giao kết hợp đồng lao động là người lao động và người sử dụng lao động phải có năng lực thực tế và các điều kiện do Luật định. b) Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. c) Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động. d) Các loại hợp đồng lao động : Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây: - Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; - Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 năm đến 3 năm; - Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm. e) Nội dung của hợp đồng lao động : Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây : - Công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi. - Tiền lương. - Địa điểm làm việc. - Điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Các bên không được ký hợp đồng lao động có những nội dung quy định về quyền lợi của người lao động thấp hơn mức được quy định trong pháp luật lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đang áp dụng trong doanh nghiệp hoặc hạn chế các quyền của người lao động. 20 III-NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ LÁI XE TRONG KINH DOANH : - Người lái xe khách, xe buýt phải luôn có ý thức về tính tổ chức, kỷ luật, thực hiện nghiêm biểu đồ xe chạy được phân công. - Thực hiện đúng hành trình, lịch trình, đón trả khách đúng nơi quy định, vận hành phương tiện theo đúng quy trình kỹ thuật đảm bảo an toàn cho người và phương tiện với tinh thần trách nhiệm cao. - Giúp đỡ hành khách khi đi xe, đặc biệt là những người khuyết tật, người già, trẻ em và phụ nữ có thai, có con nhỏ; tôn trọng và có trách nhiệm cao với hành khách. - Người lái xe vận tải hàng hoá cần thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung hợp đồng giữa chủ phương tiện với chủ hàng trong việc vận chuyển và bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển; không chở hàng cấm,không xếp hàng hoá quá trọng tải xe, quá trọng tải cho phép của cầu, đường. - Khi vận chuyển hàng quá khổ, quá tải, hàng nguy hiểm,hàng siêu trường, siêu trọng, phải có giấy phép, phải tôn trọng và thực hiện nghiêm ngặt những quy định về vận chuyển hàng hoá quá khổ, quá tải, hàng siêu trường, siêu trọng, hàng nguy hiểm. - Người lái xe kinh doanh vận tải cần phải yêu quý xe, quản lý và sử dụng xe tốt; bảo dưỡng xe đúng định kỳ; thực hành tiết kiệm vật tư, nhiên liệu; luôn tu dưỡng bản thân, có lối sống lành mạnh, tác phong làm việc công nghiệp. - Nắm vững các quy định của pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, lái xe an toàn; coi hành khách như người thân, coi khách hàng là đối tác tin cậy; có ý thức tổ chức kỷ luật, và xây dựng doanh nghiệp vững mạnh; có tinh thần hợp tác, tương trợ giúp đỡ đồng nghiệp. - Đối với người thi hành công vụ phải nghiêm túc, hợp tác, chấp hành và có ý thức tham gia giao thông, bảo vệ môi trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfy_nhung_van_de_co_ban_ve_pham_dao_duc_trong_giai_6082_2001335.pdf
Tài liệu liên quan