Chương 4
Tín dụng
4.1. Khái niệm, đặc trưng của tín dụng
4.1.1. Khái niệm
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng vốn của một người (người cho vay) cho một người khác (người đi vay) được sử dụng trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả kèm theo lãi.
Khái niệm tín dụng bao hàm 2 nội dung:
Thứ nhất, tín dụng thể hiện sự tin tưởng người đi vay sẽ hoàn thành nghĩa vụ đã cam kết.
Thứ hai, tín dụng thể hiện một kết quả sẽ mang lại trong tương lai.
4.1.2. Đặc trưng cơ bản của tín dụng
- Trong quan hệ tín dụng có sự tín nhiệm, tin tưởng giữa hai bên, người cho vay phải tin tưởng vào người đi vay. Để có sự tin tưởng này, người đi vay phải điều tra, phân tích, đánh giá chính xác ý muốn và khả năng trả nợ của người đi vay. Trong một số trường hợp, sự tin tưởng này được thực hiện thông qua bảo đảm tín dụng.
- Tín dụng có tính thời hạn. Quan hệ tín dụng luôn quy định thời hạn tín dụng. Thời hạn tín dụng được xác định chủ yếu phụ thuộc vào thời gian cần sử dụng tín dụng của người đi vay cũng như mục đích vay. Bao gồm
+ Thời hạn cho vay: là khoảng thời gian kể từ khi người cho vay bắt đầu cho vay đến khi người đi vay trả hết nợ.
+ Thời hạn trả nợ: là khoảng thời gian kể từ khi người đi vay bắt đầu trả nợ cho đến khi trả hết nợ.
94 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu môn học về Tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.
5.1.2. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp
Là một khâu của hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp thể hiện những điểm khác biệt với các khâu tài chính khác, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, Là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, sự vận động của quỹ tiền tệ đặc biệt - vốn kinh doanh - luôn gắn liền với các yếu tố vật tư và lao động. Cùng với quỹ tiền tệ này, các quỹ tiền tệ khác có trong doanh nghiệp luôn được tạo lập, bổ sung do kết quả sản xuất kinh doanh mang lại và phục vụ cho chính quá trình sản xuất kinh doanh đó.
- Thứ hai, Mọi sự vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp đều nhằm đạt tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận thu được là yếu tố quan trọng nhất, quyết định phương hướng và cách thức đầu tư của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là thu lợi nhuận, vì thế ngoài khả năng phân phối, tài chính doanh nghiệp còn có khả năng giám sát, dự báo hiệu quả của quá trình phân phối.
5. 1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có các vai trò chủ yếu sau đây:
- Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vôn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có vốn kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện là xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cáu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm là hiện quả.
Việc tổ chức sử đụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu; lựa chọn và huy động nguồn vốn có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Tạo ra đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh. Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế. . .
- Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
5.2. Tổ chức tài chính doanh nghiệp
5.2.1.Khái niệm tổ chức TCDN
Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Việc tổ chức tài chính doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và các nguyên tắc cần quán triệt.
5.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN
- Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp
Theo hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện nay có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
Doanh nghiệp nhà nước.
Công ty cổ phần.
Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh (partnership)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những đặc điểm riêng về mặc hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các doanh nghiệp trên có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp như:
Tổ chức và huy động vốn.
Phân phối lợi nhuận.
- Trình độ quản lý sản xuất và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành nghề kinh doanh
Các doanh nghiệp khác nhau về trình độ quản lý và đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau sẽ khác nhau về:
Tổ chức vốn sản xuất kinh doanh: xác định qui mô, số lượng vốn, kết cấu bên trong từng loại vốn, tương quan giữa các loại vốn...
Kết cấu chi phí sản xuất.
Phương pháp phân phối kết quả sản xuất kinh doanh.
Các hình thức sử dụng kết quả đó.
Phương hướng tạo nguồn tài chính và đầu tư.
Thể thức thanh toán chi trả và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá...
- Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp như điều kiện về kinh tế, thị trường, lãi suất, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, chính sách kinh tế, tài chính của Nhà nước... Sự ổn định của nền kinh tế sẽ tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế biến động có thể gây nên những rủi ro cho kinh doanh, ảnh hưởng tới chi phí đầu lư, nhu cầu về vốn và thu nhập của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển cũng giúp cho việc tiết kiệm chi phí trong kinh doanh... Thị trường. giá cả, lãi suất đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể hình dung mộtcách khái quát sự ảnh hưởng này như sau:
- Thị trường tài chính, thị trường hàng hóa phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài cũng như mua vật tư, thiết bị bán hàng hóa của doanh nghiệp được dễ dàng.
- Giá cả, lãi suất đều ảnh hưởng tới sự tăng, giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau.
- Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn đầu tư lớn và chọn hướng đầu tư thích hợp...
- Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp (như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách tín dụng và lãi suất, chính sách ngoại hối, chế độ khấu hao...) phù hợp sẽ có tác dụng ổn đinh môi trường tài chính vĩ mô, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ vốn, sử đụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp
Tổ chức tài chính doanh nghiệp cần quán triệt các nguyên tắc sau đây:
- Thứ nhất- Nguyên tắc tôn trọng pháp luật.
Đây được xem như nguyên tắc hàng đầu của tổ chức tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nắm chắc và hiểu được luật, chính sách của nhà nước để thực hiện cũng như tận dụng triệt để những ưu đãi, khuyến khích của nhà nước cho phát triển kinh doanh và sản xuất.
- Thứ hai- Nguyên tắc hạch toán kinh doanh.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tổ chức tài chính doanh nghiệp. Yêu cầu của nguyên tắc này là: lấy thu bù chi có doanh lợi. Bởi vậy đây không những là mục tiêu mà là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không muốn phá sản.
- Thứ ba- Nguyên tắc giữ chữ tín.
Giữ chữ tín không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức trong cuộc sống đời thường mà còn là nguyên tắc nghiêm ngặt trong kinh doanh nói chung và trong tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Trong thực tế kinh doanh cho thấy, kẻ làm mất chữ tín, chỉ tham lợi trước mắt sẽ bị bạn hàng xa lánh. Đó là nguy cơ dẫn đến phá sản. Do đó, trong tổ chức tài chính doanh nghiệp để giữ được chữ tín cần tôn trọng nghiêm ngặt các kỷ luật thanh toán, chi trả các hợp đồng kinh tế, các cam kết về góp vốn đầu tư và phân chia lợi nhuận. Mặt khác, để giữ chữ tín doanh nghiệp cũng cần mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm để luôn giữ được giá trị của nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp.
- Thứ tư- Nguyên tắc an toàn phòng ngừa rủi ro.
Đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc cũng được coi là nguyên tắc quan trọng trong kinh doanh nói chung và tổ chức tài chính doanh nghiệp nói riêng. Đảm bảo an toàn là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Nguyên tắc an toàn cần được quán triệt trong mọi khâu của công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp: an toàn trong việc lựa chọn nguồn vốn, trong việc lựa chọn đối tác đầu tư liên doanh, trong việc sử dụng vốn
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt trong công tác tổ chức tài chính doanh nghiệp nhằm đảm bảo tài chính doanh nghiệp được sử dụng một cách hiệu quả nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
5.3. Nội dung chủ yếu của hoạt động tài chính doanh nghiệp
5.3.1. Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
5.3.1.1.Khái niệm vốn kinh doanh
Trong các doanh nghiệp SXKD nói chung, vốn sản xuất là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm, tạo ra doanh thu và thu nhập cho doanh nghiệp.Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư tài sản và hàng hóa của doanh nghiệp, tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể.
Như vậy, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
5.3.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh
- Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.
Cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Tiền được gọi là vốn kinh doanh phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định (tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực);
- Thứ hai, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh;
- Thứ ba, khi đã đủ về số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời.
Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
SLĐ
T - H...SX...H' – T’ Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất kinh doanh
Tư liệu SX
T- H – T’ Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại.
T-T’ Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay...
Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể sử dụng đồng thời cả ba phương thức đầu tư vốn theo các mô hình trên miễn sao đạt được mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ của pháp luật.
Qua các phương thức vận động của tiền tệ trên đây cho phép ta rút ra những nhận xét sau:
- Để tiến hành bất kỳ một quá trình kinh doanh nào cũng cần có mặt lượng tiền ứng trước (T). Các doanh nghiệp phải chủ động khai thác thu hút vốn bằng các hình thức khác nhau để đảm bảo vốn cho nhu cầu SXKD.
- Mục đích vận động của tiền vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị- là tiền. Đồng tiền phải quay trở về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn.
- Trên góc độ của kinh tế thị trường, giá trị thực của một doanh nghiệp không phải chỉ là phép cộng đơn giản của các loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp hiện có, mà còn là những giá trị của tài sản khác và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Những tài sản khác của doanh nghiệp có thể kể ra như: vị trí địa lý kinh doanh của doanh nghiệp, những bí quyết kinh doanh của doanh nghiệp; mức độ uy tín của nhãn hiệu trên thị trường; uy tín của người lãnh đạo doanh nghiệp; trình độ tay nghề của công nhân. . . .Những tài sản trên đây được gọi là tài sản cố định vô hình. Những tài sản này có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của một doanh nghiệp.
5.3.1.3. Phân loại VKD
* Theo góc độ pháp luật:
- Vốn pháp định: là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo năng lực kinh doanh đối với từng ngành nghề, từng loại hình doanh nghiệp do pháp luật qui định. Dưới mức vốn pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
- Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không được nhỏ hơn vốn pháp định.
* Theo góc độ hình thành vốn kinh doanh:
- Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng kí kinh doanh. Đó là vốn đóng góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty tư nhân hoặc vốn của nhà nước giao.
- Vốn bổ sung: là số vốn tăng thêm do trích từ lợi nhuận, do ngân sách nhà nước cấp, sự đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu bổ sung để tăng thêm vốn kinh doanh.
- Vốn liên doanh: là vốn do sự đóng góp của các bên khi tiến hành cam kết liên doanh, liên kết với nhau trong hoạt động thương mại, dịch vụ.
- Vốn đi vay: trong hoạt động kinh doanh, ngoài số vốn chủ sở hữu, vốn liên doanh để có đủ vốn kinh doanh doanh nghiệp phải đi vay của ngân hàng trong và ngoài nước.
* Theo góc độ chu chuyển vốn kinh doanh:
- Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định bao gồm: toàn bộ những tư liệu lao động có hình thái vật chất cụ thể có đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng qui định.
- Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Tài sản lưu động là những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng để xếp vào tài sản cố định. Bộ phận quan trọng của vốn lưu động là dự trữ hàng hoá, vốn bằng tiền như tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ các khoản phải thu ở khách hàng...
5.3.1.4. Sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh
Căn cứ vào công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp chia ra thành vốn cố định và vốn lưu động. Các loại vốn này có đặc điểm chu chuyển khác nhau. Chính sự khác nhau này chi phối sự khác nhau về phương thức quản lý, phương thức bù đắp và bảo toàn từng loại vốn.
5.3.1.4.1. Vốn cố định
Khái niệm vốn cố định
Vốn cô định (VCĐ) của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định (TSCĐ) của doanh nghiệp.
TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản thỏa mãn đồng thời 4 yêu cầu sau:
+ có giá trị lớn (>= 10 triệu VNĐ),
+ thời gian sử dụng dài (>1 năm).
+ nguyên giá TSCĐ được xác định một cách đáng tin cậy
+ Chắc chắn thu được lợi ích trong tưong lai từ việc sử dụng tài sản đó.
Phân loại VCĐ
VCĐ- TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại:
- Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải... trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả...
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không thay đổi hình thái hiện vật, nhưng năng lực sản xuất và kèm theo đó là giá trị của chúng bị giảm dần. Đó là do chúng bị hao mòn.
Đặc điểm luân chuyển VCĐ
Từ đặc điểm vận động của TSCĐ đã quyết định đến đặc điểm vận động của vốn cố định:
- Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm và chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định.
- Vốn cố định được thu hồi dần từng phần tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định, đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được thu hồi về đủ thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm này đã chi phối đến phương thức bù đắp và phương thức quản lý vốn cố định.
Hao mòn và khấu hao TSCĐ
Hao mòn TSCĐ
Trong quá trình tham gia vào sản xuất, do chịu tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nên TSCĐ bị hao mòn . Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự giảm dần về mặt giá trị sử dụng và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất, hoặc do sự tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra.
TSCĐ bị hao mòn hữu hình trước hết là do nó trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, trong trường hợp này, mức độ hao mòn của TSCĐ tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử đụng chúng.
Ngoài nguyên nhân chủ yếu nêu trên, trong khi sử dụng và cả khi không sử dụng, TSCĐ còn bị hao mòn hữu hình là do những tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết...
Trong ngành vận tải, TSCĐ phải hoạt động thường xuyên trong môi trường thiên nhiên, do đó mức độ hao mòn của chúng thường lớn hơn so với các ngành khác. Cũng cần lưu ý rằng, khi TSCĐ không được sử dụng, nhưng do các tác động của tự nhiên, chúng cũng bị hao mòn. Nắm được những đặc điểm trên đây sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các phương pháp khấu hao chính xác cũng như các biện pháp đê huy động tối đa năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng ngành.
- Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự sút giảm thuần túy về mặt giá trị của tài sản đó. Có những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn tức là có liên quan đến việc mất giá của TSCĐ. Trong nền KTTT, biểu hiện cua hao mòn vô hình là rất da dạng TSCĐ có thể bị mất giá do nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ không phải do chúng được sử dụng ít hay nhiều trong sản xuất, mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Những nguyên nhân cơ bản có thê được kể ra sau đây:
+ TSCĐ cũ có thê bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra với giá cả như cũ nhưng có năng lực sản xuất cao hơn.
+ TSCĐ có bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra có công suất bằng TSCĐ cũ nhưng giá lại rẻ hơn.
+ TSCĐ cũ bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn hợp thị hiếu người tiêu đùng. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, máy móc đã bị mất giá vì chu kỳ sống của máy móc đã không ăn khớp với chu kỳ sống của sản phẩm đó nó tạo ra. Cũng tương tự, TSCĐ có thê bị mất giá do nguyên liệu, vật liệu sản xuất bị thay đổi; năng lượng, nhiên liệu được thay thế bằng loại khác...
Theo phân tích trên đây hao mòn vô hình của TSCĐ sẽ không liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của chúng. Trên thực tế, có những máy móc thiết bị còn mới nguyên, chưa sử dung nhưng đã bị mất giá vì hao mòn vô hình: Cũng có những trường hợp các máy móc thiết bị, các quá trình công nghệ v.v.. còn mới chỉ nằm trên các dự án; các dự tháo phát. minh mà đã trở nên lạc hậu trong chính thời điểm đó. Điều này cho thấy hao mòn vô hình được diễn ra không chỉ đối với những TSCĐ có hình thái vật chất mà ngay cả đối với các TSCĐ không có hình thái vật chất.
Khấu hao TSCĐ
Như vậy, trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị bao mòn. Một bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn đó được chuyền dịch dần dần vào giá thành sản phẩm gọi là khâu hao TSCĐ.
Giá trị hao mòn của TSCĐ là một yếu tố của chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao TSCĐ
Như vậy, khấu hao tài sản cố định: Là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian sử dụng của tài sản cố định.
Mục đích của quỹ khấu hao:
Dùng để sửa chữa lớn, để tái sản xuất từng phần TSCĐ (nên người ta còn gọi là quỹ khấu hao cơ bản ).
Dùng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách: các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bô sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lời (trên nguyên tắc được hoàn quỹ); hoặc nhờ nguồn này đơn vị có thể đầu tư đổi mới TSCĐ ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang trị máy móc hiện đại hơn, trên ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng đế tái sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về cơ bản có 3 phương pháp tính khấu hao
+) Phương pháp khấu hao theo sản lượng
+) Phương pháp khấu hao tuyến tính cố định (Khấu hao đường thẳng)
+) Các phương pháp khấu hao nhanh
Bảo toàn và quản lý VCĐ
Quản lý vốn cố định bao hàm cả quản lý về mặt giá trị và quản lý mặt hiện vật của nó.
+ Quản lý mặt giá trị
Quản lý về mặt giá trị của vốn cố định là quản lý quỹ khấu hao. Để quản lý tốt quỹ khấu hao cần phải đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác, tạo cơ sở cho việc xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn. Mặt khác, cần phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để đảm bảo thu hồi vốn nhanh và bảo toàn được vốn.
Bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là phải duy trì được sức mua của vốn cố định ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, tiến bộ khoa học kỹ thuật
+ Quản lý mặt hiện vật
Quản lý mặt hiện vật của vốn cố định là quản lý TSCĐ. Để quản lý tốt tài sản cố định cần phải phân loại TSCĐ theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo hình thái biểu hiện, theo tình hình sử dụng (đang sử dụng, dự trữ, chờ thanh lý), theo công dụng kinh tế (dùng cho sx, cho quản lý) để từ đó xác định trọng tâm của công tác quản lý.
Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất mà duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều đó đòi hỏi trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, không làm mất tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ, không để TSCĐ hư hỏng trước thời hạn quy định.
5.3.1.4.2.Vốn lưu động
Khái niệm vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài vốn cố định các doanh nghiệp còn phải sử dụng vốn tiền tệ để mua sắm các đối tượng dùng vào sản xuất. Ngoài số vốn dùng trong phạm vi sản xuất doanh nghiệp còn cần một số vốn trong phạm vi lưu thông.Đó là vốn nằm ở khâu sản phẩm chưa tiêu thụ, tiền để chuẩn bị mua sắm thiết bị lao động mới và trả lương cho công nhân viên trong doanh nghiệp....
Vốn lưu động (VLĐ) là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản lưu động (TSLĐ) của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh.
Nội dung vốn lưu động
VLĐ- TSLĐ của doanh nghiệp gồm 2 thành phần:
Tài sản lưu động sản xuất
TSLĐ trong SX là đối tượng lao động bao gồm:
+ Dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, năng lượng..);
+ Vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm chế tạo, bán thành phẩm) và những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định.
- Tài sản lưu thông
Mặt khác, quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình lưu thông, còn phải tiến hành một số công việc chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán.... Do đó, trong khâu lưu thông hình thành một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh toán...gọi là tài sản lưu thông
Tài sản lưu thông nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Đặc điểm vốn lưu động
- Đặc điểm của tài sản lưu động là tham gia vào từng chu kỳ sản xuất, bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản phẩm và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Đặc điểm của tài sản lưu động đã chi phối đến đặc điểm của vốn lưu động. Vốn lưu động chuyển một lần toàn bộ vào giá thành sản phẩm mới được tạo ra, được thu hồi một lần toàn bộ sau khi bán hàng đi thu tiền về và lúc đó kết thúc vòng tuần hoàn của vốn.
- Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu tử hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hoá và cuối cùng lại trở về trạng thái ban đầu –tiền tệ. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trên tục không ngừng cho nên vốn lưu thông cũng tuần hoàn không ngửng, có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn. Do sự chu chuyển không ngửng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận tồn tại cùng một lúc dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực lưu thông là sản xuất .
- Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh, đánh giá quá trình vận động của vật tư, cũng tức là phản ánh, kiểm tra quá trình mua sắm, sản xuất., tiêu thụ của doanh nghiệt). Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là sự phản ánh sự vận động của vật tư. Nhìn chung vốn lưu động ít nhiều phản ánh số lượng vật tư dự trữ hàng hóa ở các khâu nhiều hay ít. Nhưng mặt khác, vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý hay không. Bởi vậy thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động có thể giá đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp.
Phân loại vốn lưu động
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động.
* Dựa theo vai trò trong quá trình tái sản xuất, vốn lưu động được chia thành 3 loại:
- Vôn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế.)
- Vốn lưu đông nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất (thành phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm)
- Vôn lưu đông nằm trong quá trình lưu thông (vốn thành phẩm, vốn tiền tệ, vốn thanh toán)
Theo cách phân loại này có thể thấy vốn nằm trong quá trình dự trữ vật tư và vốn nằm trong quá trình lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Vì vậy phải hết sức hạn chế khối lượng vật tư cũng như thành phẩm tồn kho.
* Dựa theo hình thái biểu hiện và chức năng của các thành phần, vốn lưu động có thể chia thành: vốn vật tư, vốn tiền tệ
- Vôn vật tư thuộc loại này bao -gồm: vốn nguyên vật liệu chính và phụ, vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn phí tổn chờ phân bổ, vốn thành phẩm.
- Vốn tiền tê bao gồm: vốn tiền tệ, vốn thanh toán.
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để tính toán và kiểm tra kết cấu tối ưu của vốn lưu động để dự thảo những quyết định tối ưu về mức tận đụng số vốn lưu động đã bỏ ra. Mặt khác, thông qua cách phân loại này có thể tìm biện pháp phát huy chức năng của các thành phần của vốn lưu động bằng cách xác định mức dự trữ hợp lý đề từ đó xác định nhu cầu vốn Iưu động.
* Dựa theo nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia ra các loại vốn sau:
- Nguồn vôn chủ sở hữu: là bộ phận vốn chủ sở hữu về vôn lưu động như: vốn ngân sách, vốn cổ phần, phần lợi nhuận bổ sung vốn lưu động, vốn liên doanh - liên kết...
- .Nơ phải trả: là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng đề đáp ủng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên cần thiết trong kinh doanh như: trái phiếu, vay ngân hàng...
Việc chia vốn lưu động của doanh nghiệp ra thành các loại vốn nói trên nhằm tạo khả năng đê doanh nghiệp xem xét và quyết định huy động tối ưu các nguồn vốn để đảm bảo cho nhu cầu vốn lưu động thường xuyên ổn định và cần thiết tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định. Các doanh nghiệp cần dự kiến nhu cầu đầu tư vốn lưu động trong kế hoạch dài hạn. Đồng thời cũng có thể chủ động xây dựng kế hoạch về huy động và sử đụng vốn lưu động hàng năm để có thể đạt hiệu quả cao.
Biện pháp bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ
Đối với doanh nghiệp, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần phải thực hiện các biện pháp sau đây:
Kế hoạch hóa vốn lưu động
Trong mọi lĩnh vực, để đạt được hiệu quả trong hoạt động một yêu cầu không thể thiếu đối với người thực hiện đó là làm việc có kế hoạch, khoa học. Cũng vậy, kế hoạch hoá vốn lưu động là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và rất cần thiết cho các doanh nghiệp. Nội dung của kế hoạch hoá vốn lưu động trong các doanh nghiệp thường bao gồm các bộ phận:
+ Kế hoạch nhu cầu vốn lưu động
Xác định nhu cầu vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh chính xác, hợp lý một mặt bảo đảm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, mặt khác sẽ tránh được tình trạng ứ đọng vật tư, sử dụng lãng phí vốn, không gây nên tình trạng căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Kế hoạch nguồn vốn lưu động
Sau khi xác định được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết để đảm bảo cho sản xuất được liên tục, đều đặn thì doanh nghiệp phải có kế hoạch đáp ứng nhu cầu vốn đó bằng các nguồn vốn ổn định, vững chắc.
Để đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất, doanh nghiệp phải có sự xem xét và lựa chọn kỹ các nguồn tài trợ sao cho phù hợp nhất trong từng hoàn cảnh cụ thể.
+ Kế hoạch sử dụng vốn lưu động theo thời gian
Thực hiện kế hoạch sử dụng vốn lưu động theo thời gian, doanh nghiệp cần xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động từng quý, tháng trên cơ sở cân đối với vốn lưu động hiện có và khả năng bổ sung trong quỹ, tháng từ đó có biện pháp xử lý hiệu quả, tạo sự liên tục, liền mạch trong sử dụng vốn lưu động cả năm. Bên cạnh việc thực hiện kế hoạch hoá vốn lưu động, doanh nghiệp cần phải biết chú trọng và kết hợp giữa kế hoạch hoá vốn lưu động với quản lý vốn lưu động.
Tổ chức quản lý vốn lưu động khoa học
Quản lý tốt vốn lưu động sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động, kịp thời đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề phát sinh đảm bảo việc thực hiện kế hoạch vốn lưu động, tránh thất thoát, lãng phí từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
Khi doanh nghiệp áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, năng suất cao, giá thành hạ. Điều này đồng nghĩa với việc thời gian của khâu sản xuất sẽ trực tiếp được rút ngắn. Mặt khác, với hiệu quả nâng cao trong sản xuất sẽ ảnh hưởng tích cực đến khâu dự trữ và lưu thông: chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ sẽ góp phần đảm bảo cho doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá nhanh hơn, giảm thời gian khâu lưu thông, từ đó doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong dự trữ, tạo sự luân chuyển vốn lưu động nhanh hơn.
Tổ chức tốt công tác quản lý tài chính trên cơ sở không ngừng nâng cao trình độ cán bộ quản lý
Nguồn nhân lực luôn được thừa nhận là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi doanh doanh nghiệp. Sử dụng vốn lưu động là một phần trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp, được thực hiện bởi các cán bộ tài chính do đó năng lực, trình độ của những cán bộ này có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý tài chính nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng.
5.3.2. Chi phí sản xuất kinh doanh
5.3.2.1. Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất ra các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và thu về lợi nhuận. Đó là quá trình mà mỗi doanh nghiệp bỏ ra những chi phí nhất định, là chi phí về lao động đời sống gồm: tiền lương, tiền công, trích BHXH; còn chi phí về lao động vật hóa gồm chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí NVL Mọi chi phí bỏ ra cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ.
Nói một cách tổng quát, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp bỏ ra đê
5.3.2.2.Nội dung chi phí sản xuất kinh doanh
Căn cứ vào các công đoạn của quá trình kinh doanh, có thể chia chi phí kinh của doanh nghiệp thành các nhóm chi phí sau:
* Chi phí sản xuất trực tiếp:
- Chi phí sản xuất trực tiếp là toàn bộ những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để trực tiếp tạo ra các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Xét về cơ cấu, chi phí sản xuất được cấu thành bởi các khoản mục chi phí:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Bao gồm toàn bộ giá trị của nguyên liệu, vật liệu chính và vật liệu phụ được sử dụng trực tiếp để sản xuất, chế tạo sản nhầm; thực hiện địch vụ trong kỳ sán xuất kinh doanh.
+ Chi phí nhân công trực tiếp : Là những khoản tiềnphải, phải thanh toán cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ như : tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, tiền bảo hiểm xã hội, ...
+ Chi phí sản xuất chung : Là những chi phí phục vụ trong quá trình chế tạo sản phẩm, thực hiện cung ứng dịch vụ như chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất, khấu hao TSCĐ .
Đặc điểm nổi bật của chi phí sân xuất là sự tăng giảm của chúng có liên quan tới sự tăng giảm của qui mô vả khối lượng kinh doanh. Vì vậy để tăng khối lượng sản phẩm, dịch vụ và hạ thấp chí phí, tăng lợi nhuận đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng năng cao công suất thiết bị, máy móc vả năng suất lao động thông qua việc áp đụng tiến bộ khoa học công nghệ, cải thiện các điều kiện lao động, đổi mới hình thức trả lương; tích cực tìm kiếm các loại vật liệu thay thế mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
* Chi phí bán hàng:
Chi phí bán hàng là những chi phí phát sinh trong công đoạn tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Chi phí bán hàng có thể chia ra làm hai loại :
+ Chi phí lưu thông: Là những chi phí liên quan trực tiếp tới việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ, bao gồm chi phí bảo quản, đóng gói, vận chuyển, hoa hồng bán hàng
+ Chi phí tiếp thị : Là những chi phí gắn liền với việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, như : chi phí quảng cám chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hóa, chi phí nghiên cứu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, chi phí tiếp thị có vai trò rất quan trọng. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp làm ra với chất lượng tốt, bằng hoạt động tiếp thị mà doanh nghiệp có thể thuyết phục và lôi cuốn nhiều khách hàng mua sản phẩm, qua đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng không ngừng được nâng cao.
* Chi phí quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh:
Bao gồm chi phí quản lý kinh doanh, chi phí quản lý hành chính tổ chức. Đây là những khoản chi phí gián tiếp.
Về cơ bản, chi phí gián tiếp không quan hệ trực tiếp tới việc sản xuất sản phẩm. Hay cách khác, sự tăng giảm của qui mô và khối lượng sản phẩm sản xuất không ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng giảm của chi phí gián tiếp. Thậm chí, nhiều khoản chi phí vẫn phát sinh ngay cả khi doanh nghiệp tạm dừng sản xuất. Do tính chất như vậy, nên trong giá trị sản phẩm dở dang, thành phẩm, lao vụ chưa tiêu thụ không chứa đựng chi phí gián tiếp.
Những chi phí nêu trên là những chi phí phục vụ cho hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp. Ngoài ra để thực hiện các mục tiêu của kinh doanh doanh nghiệp cần phải bỏ ra những chi phí liên quan đến hoạt động tài chính, như : chi phí liên doanh, chi phí đầu tư tài chính, chi phí cho vay vốn, chi phí liên quan mua bán ngoại tệ; hoặc những chi phí từ các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động kinh doanh cơ bản, hoạt động tài chính như: chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản, chì phí thuê tài sản, tài sản thiếu hụt. Về nguyên tắc những chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường được theo dõi riêng và không hạch toán vào giá thành sản phẩm kinh doanh.
5.3.3. Giá thành sản phẩm
Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp đê hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
So sánh chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Giống nhau: Bản chất đều là chi phí
Khác nhau: Chi phí là toàn bộ giá trị liên quan tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất định trong khi giá thành chỉ là phần chi phí liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định.
Vai trò của chỉ tiêu giá thành
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dự kiến giá thành, nói cách khác doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng kế hoạch giá thành. Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành giữ vai trò quan trọng và được thể hiện trên các mặt sau:
- Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức, kỹ thuật.
- Giá thành là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm.
5.3.4. Doanh thu
Khái niệm doanh thu
Kết thúc quá trình kinh doanh, doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và thực hiện dịch vu và thu tiền về, tạo nên doanh thu của doanh nghiệp.
“ Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm phát triển vốn chủ sở hữu ”.
Nội dung doanh thu
Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau:
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là toàn bộ số tiền thu được hoặc sẽ thu được từ các giao dịch như bán hàng hoábao gồm cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có).
Doanh thu nội bộ là số tiền thu được do bán hàng hoá, sản phẩm cung cấp dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty hay tổng công ty.
Doanh thu hoạt động tài chính là các khoản thu từ tiền lãi (lãi cho vay; lãi tiền gửi; lãi bán hàng trả chậm; trả góp; lãi đầu tư trái phiếu.), thu nhập từ cho thuê tài sản, thu nhập về hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán
Doanh thu từ các hoạt động bất thường là các khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường xuyên như: thu từ việc bán vật tư hàng hóa, tài sản dôi thừa, công cụ dụng cụ đã phân bố hếtcác khoản phải trả nhưng không cần trả, các khoản thu từ việc chuyển nhượng thanh lý tài sản, nợ khó đòi đã xoá nay thu hồi được, hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Ý nghĩa của doanh thu với hoạt động của doanh nghiệp
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Trước hết nó là nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo thực hiện quá trình tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với khách hàng, đối với các cổ đông tham gia các hoạt động liên doanh. . . Do đó tăng doanh thu luôn là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp.
5.3.5. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Khái niệm lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng từ hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Có thể khái quát là:
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra đê đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại.
Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động khác như hoạt động liên doanh, liên kết, các hoạt động thuộc các dịch vụ tài chính...
Vai trò của lợi nhuận
Lợi nhuận có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Đây chính là động lực thôi thúc doanh nghiệp năng động hơn nữa để khẳng định mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
* Đối với doanh nghiệp và người lao động
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường, điều đầu tiên mà họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và phát triển khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp sẽ bị đào thải, đi đến phá sản. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp:
Lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, là điều kiện quan trọng đảm bảo cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lợi nhuận cao thì khả năng thanh toán mạnh, doanh nghiệp có thể hoàn trả mọi khoản nợ đến hạn và ngược lại.
Lợi nhuận đảm bảo tái sản xuất mở rộng. Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi sẽ tạo cho doanh nghiệp một khoản lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, là cơ sở để bổ sung vào nguồn vốn tái đầu tư, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật thông qua việc đổi mới trang thiết bịmở rộng quy mô hoạt động là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại phát triển vững vàng trên thương trường, làm cơ sở để doanh nghiệp đi vay vốn từ bên ngoài được dễ dàng.
Chỉ tiêu lợi nhuận cũng là căn cứ để đánh giá năng lực, về nhân sự, năng lực về tài chính, năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp...
Lợi nhuận cao có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động, tạo hưng phấn kích thích trí sáng tạo, phát huy cao nhất khả năng của nhân viên trong doanh nghiệp, là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo.
* Đối với nhà nước
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Khi nền kinh tế của đất nước phát triển sẽ tạo ra môi trường lý tưởng cho doanh nghiệp có điều kiện phát triển hơn nữa.
Thông qua lợi nhuận của doanh nghiệp, Nhà nước tiến hành thu thuế thu nhập doanh nghiệp tăng tích luỹ cho xã hội, là công cụ điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô. Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần lợi nhuận mà doanh nghiệp thu trong kỳ, nên khi lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao thì số thuế mà Nhà nước nhận được càng nhiều. Đó chính là nguồn tài chính để Nhà nước tiến hành tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Chương 6
Tài chính quốc tế
6.1. Những vấn đề chung về tài chính quốc tế
6.1.1. Khái niệm
Tài chính quốc tế bao gồm những nội dung liên quan đến các hoạt động tài chính ở tầm quốc tế, có thể là hoạt động tài chính của cá nhân, của doanh nghiệp hay của chính phủ các nước
Tài chính quốc tế là một lĩnh vực rất phong phú, đa dạng, bao trùm một phạm vi rộng lớn, có thể tiếp cận tài chính quốc tế ở những khía cạnh khác nhau nhưng đều có những nét chung là:
- Là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế
- Các quan hệ đó vượt qua biên giới của quốc gia, thể hiện quan hệ giữa các chủ thể của quốc gia này với các chủ thể của quốc gia khác hoặc các tổ chức quốc tế
- Sự hiện diện của các quan hệ đó luôn gắn liền với quá trình vận động của những dòng vốn trong phát triển kinh tế quốc tế và tuân thủ những nguyên tắc nhất định.
Khái niệm tài chính quốc tế là hệ thống những quan hệ tài chính nảy sinh giữa các chủ thể của một nước với các chủ thể của nước khác và với các tổ chức quốc tế, gắn liền với các dòng lưu chuyển hàng hoá và vốn trên thế giới theo những nguyên tắc nhất định.
6.1.2. Cơ sở của các quan hệ tài chính quốc tế
Sự phát sinh, phát triển của các quan hệ tài chính quốc tế bắt nguồn từ các quan hệ kinh tế, các quan hệ chính trị giữa các nước trong cộng đồng quốc tế.
- Quan hệ kinh tế
Các quan hệ kinh tế hay sự hợp tác quốc tế về kinh tế giữa các quốc gia làm nảy sinh và phát triển các quan hệ tài chính quốc tế. Trong đó các quan hệ thanh toán quốc tế, tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế quốc tế.
Hợp tác quốc tế thực hiện trên cơ sở phân công lao động quốc tế. Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những ưu thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác thông qua sự trao đổi quốc tế.
Mức độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia quyết định mức độ tham gia vào hợp tác kinh tế quốc tế, vào thị trường thế giới và quyết định mức độ phát triển của các quan hệ tài chính đối ngoại
- Quan hệ chính trị
Các quan hệ tài chính đối ngoại còn chịu ảnh hưởng quan trọng vào những yếu tố chính trị. Tác động của yếu tố chính trị vào hoạt động kinh tế đối ngoại tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm của hoạt động đó. Những hoạt động phụ thuộc nhiều vào yếu tố chính trị như viện trợ quốc tế, thuế quan ưu đàiNhững hoạt động ít gắn bó với chính trị như ngoại thương, đầu tư trực tiếp mà chủ thể chủ yếu là tư nhân, các nhà kinh doanh.
6.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế quốc tế và tài chính quốc tế
Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế vừa phải tuân thủ các nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời phải tuân thủ những nguyên tắc nhằm đảm bảo ngày càng củng cố chế độ chính trị và những giá trị truyền thống của mỗi quốc gia.
- Tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau: Nguyên tắc này đòi hỏi tôn trọng tính độc lập của mỗi quốc gia, không dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào nội bộ của quốc gia có quan hệ.
- Bình đẳng: Nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập, đều được bình đẩng như nhau trong quan hệ.
- Cùng có lợi: Đây là nguyên tắc cơ sở để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
6.2. Các hình thức chủ yếu của tài chính quốc tế
Đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI)
Đầu tư quốc tế trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
FDI mang lại nhiều lợi ích cho cả chủ đầu tư và nước nhận đầu tư.
- Đối với chủ đầu tư
FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước sở tại.
FDI giúp các công ty giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cao do lợi dụng được những lợi thế của nước sở tại.
FDI giúp chủ đầu tư tìm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định.
- Đối với nước nhận đầu tư
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các quốc gia, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.
FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp.
Chính sách thu hút vốn FDI theo các ngành nghề định hướng hợp lý sẽ góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đát nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
FDI tác động quan trọng đến xuất nhập khẩu, bổ sung nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh các lợi ích đó, các nước nhận đầu tư có thể phải gánh chịu những mặt tiêu cực của FDI như tiếp nhận công nghệ và kỹ thuật lạc hậu, gây tổn hại về môi trường, tạo sự bất lợi cho sản xuất trong nước
Tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn vốn và kiếm lợi thông qua lãi suất tiền vay. Đây là hình thức đầu tư gián tiếp.
Tín dụng quốc tế là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể của một nước với các chủ thể của nước khác và với các tổ chức quốc tế khi cho vay và trả nợ tiền vay theo những nguyên tắc của tín dụng. Các quan hệ này bắt nguồn trước hết từ đòi hỏi khách quan của chính sử phát triển kinh tế xã hội của các nước, sự phát triển của các doanh nghiệp, đồng thời với việc mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế.
Tín dụng quốc tế có những ưu điểm sau:
- Vốn vay chủ yếu dưới dạng tiền tệ, dễ chuyển thành các phương tiện đầu tư khác.
- Nước nhận đầu tư chủ động sử dụng vốn đầu tư cho các mục đích riêng.
- Chủ đầu tư có thu nhập ổn định, không phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc vào nước nhận đầu tư, do đó thường thấp hơn so với đầu tư trực tiếp; đồng thời, chủ đầu tư thông qua hình thức tín dụng này có thể trói buộc nước nhận đầu tư vào vòng ảnh hưởng của mình.
Các hình thức tín dụng quốc tế:
Vay thương mại: Là hình thức vay nợ quốc tế dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường, lãi suất do thị trường quyết định. Hình thức này có một số đặc điểm như sau:
Ngân hàng là người cung cấp vốn, không tham gia vào hoạt động của người vay nhưng trước khi cho vay phải nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh, thế chấp để giảm rủi ro.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng, độc lập với kết quả sử dụng vốn vay. Tuy nhiên độ rủi ro thường rất lớn trong các trường hợp doanh nghiệp vay vốn làm ăn thua lỗ, phá sản.
Đối tượng vay vốn là các doanh nghiệp (nếu là đầu tư tư nhân), là chính phủ các nước (nếu là tín dụng thương mại trong chương trình ODA).
Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Là khoản viện trợ cho vay ưu đãi của các chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân các nước đang phát triển. ODA có các đặc điểm chủ yếu sau:
Là nguồn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu, hỗ trợ chuyên gia. Danh mục dư án ODA thường phái có sự thoả thuận với các nhà tài trợ.
Nguồn ODA gồm các khoản vay ưu đãi trong đó có một tỷ lệ nhất định là viện trợ không hoàn lại. Nếu quản lý sử dụng vốn ODA kém hiệu quả vẫn có nguy cơ để lại nợ nần trong tương lai.
Các nước nhận vốn ODA phải hội tụ một số điều kiện nhất định mới được nhận tài trợ, tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ.
Viện trợ quốc tế không hoàn lại
Viện trợ quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia. Các nước tài trợ vì nhiều lý do như động cơ nhân đạo, nhân tố kinh tế chính trị trong đó, nhân tố chính trị và chiến lược phát triển lại tác động đến việc xác định cụ thể giá trị viện trợ. Các nước đồng ý nhận viện trợ vì họ đang phải đương đầu với những vấn đề cấp bách, cần có sự trợ giúp.
Các hình thức viện trợ bao gồm:
- Viện trợ của các chính phủ là viện trợ song phương được thực hiện thông qua một tổ chức chính phủ - cơ quan quản lý hoạt động viện trợ, hợp tác phát triển kinh tế với nước ngoài.
- Viện trợ của các tổ chức quốc tế là loại hình viện trợ đa phương giữa các quốc gia thông qua tổ chức nào đó. Hình thức viện trợ này ưu việt hơn các hình thức khác do tránh được những vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ song phương.
- Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ là loại viện trợ do các tổ chức phi chính phủ thực hiện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tctt_0552.doc