Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học hay nâng cao chất lượng dạy học là một
yêu cầu cấp bách đối với mỗi cán bộ giảng dạy trong các nhà trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên,
thực tế triển khai nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học lại gặp phải không ít vấn đề khó khăn.
Qua phân tích thực trạng đổi mới phương pháp dạy học từ góc nhìn của môn khoa học Tư tưởng
Hồ Chí Minh ở trường Đại học CNTT&TT – ĐH Thái Nguyên, bài báo đã chỉ ra những mặt hạn
chế trong việc duy trì phương pháp dạy học truyền thống và những thách thức khi ứng dụng các
phương pháp dạy học hiện đại, từ đó bài báo đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề bằng việc kết
hợp hài hòa giữa hai phương pháp này trong một sự tương thích nhất định và một số kết quả thực
tế áp dụng.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự kết hợp giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
107
SỰ KẾT HỢP GIỮA PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỐNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
HIỆN ĐẠI TRONG DẠY HỌC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
Lê Quang Đăng*
Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học hay nâng cao chất lượng dạy học là một
yêu cầu cấp bách đối với mỗi cán bộ giảng dạy trong các nhà trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên,
thực tế triển khai nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học lại gặp phải không ít vấn đề khó khăn.
Qua phân tích thực trạng đổi mới phương pháp dạy học từ góc nhìn của môn khoa học Tư tưởng
Hồ Chí Minh ở trường Đại học CNTT&TT – ĐH Thái Nguyên, bài báo đã chỉ ra những mặt hạn
chế trong việc duy trì phương pháp dạy học truyền thống và những thách thức khi ứng dụng các
phương pháp dạy học hiện đại, từ đó bài báo đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề bằng việc kết
hợp hài hòa giữa hai phương pháp này trong một sự tương thích nhất định và một số kết quả thực
tế áp dụng.
Từ khóa: Phương pháp dạy học, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại học CNTT&TT.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH*
Albert Einstein từng nói: “Hãy dạy làm sao
để học sinh cảm thấy những điều được học
như một phần thưởng quý giá chứ không như
một nhiệm vụ ngán ngẩn”. Nếu coi tri thức
nhân loại như một “kho tàng quý giá” thì việc
đưa kho tàng ấy đến với sinh viên (SV) như
thế nào để họ có cảm giác tiếp nhận nó như
tiếp nhận một “phần thưởng” là một công
việc không hề đơn giản đối với những người
làm công tác giáo dục. Đổi mới phương pháp
dạy học (ĐM PPDH) hay nâng cao chất lượng
dạy học (NC CLDH) hiện nay không chỉ là
phong trào mà còn là yêu cầu tất yếu của mỗi
cán bộ giảng viên (GV). Một vấn đề tưởng đã
quá quen thuộc nhưng khi bắt tay vào thực
hiện thì còn có quá nhiều khó khăn. Đặc biệt,
nước ta hiện đang trong giai đoạn hội nhập
toàn diện, khi hình thức học chế Tín chỉ dần
được đưa vào các trường Đại học, Cao đẳng
để thay cho hình thức học Niên chế - một
hình thức vốn đã ngự trị rất lâu ở Việt Nam,
thì vấn về ĐM PPDH lại càng trở thành yêu
cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Phải đổi mới
như thế nào khi một bên là những PPDH
truyền thống đã bám rễ sâu vào phong cách
*
Tel: 0987 860183, Email: lqdang@ictu.edu.vn
của người thầy giáo và một bên là những
PPDH tích cực đầy mới mẻ nhưng lại quá
nhiều thách thức để đưa vào sử dụng.
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa
vào giảng dạy chính thức trong các trường đại
học, cao đẳng từ năm 2003-2004. Cho đến
nay, môn học này mới trải qua gần 10 năm
hình thành và phát triển. Vì thế, có thể coi
môn học tư Tưởng Hồ Chí Minh là một “môn
học mới” trong hệ thống các môn khoa học
trong chương trình đào tạo đại học ở Việt
Nam. Cái mới thì khó có thể đạt tới một sự
hoàn thiện ngay. Đây chính là lý do cần phải
tích cực đẩy mạnh việc ĐM PPDH môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường, để
cho việc học tập, giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí
Minh phát triển mạnh, đi sâu được vào cuộc
sống. Việc ĐM PPDH Tưởng Hồ Chí Minh
giúp cho sinh viên có thể nắm bắt được những
nội dung trong hệ thống tư tưởng của Người
một cách dễ dàng, dễ hiểu, nhớ sâu, nhớ lâu
và có thể đem ra vận dụng ngay vào thực tế,
như lời Người từng dạy: “Các thày giáo cô
giáo phải tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế
nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ
nhanh. Dạy và học cần phải theo nhu cầu của
dân tộc, của Nhà nước” [1]. Trong giai đoạn
hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang phát
động phong trào thi đua “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Vì thế,
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
108
việc ĐM PPDH Tư tưởng Hồ Chí Minh càng
trở thành một nhiệm vụ quan trọng để đưa
phong trào đó trở thành hoạt động tích cực ở
mỗi nhà trường và ở từng SV.
KHÓ KHĂN TRONG VIỆC DUY TRÌ
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỀN
THỐNG
Nói đến PPDH truyền thống là người ta
thường nói đến hình ảnh người thầy giáo là
nhân vật trung tâm trong lớp học. Từ thời xa
xưa, khi các thầy đồ dạy chữ Nho - Hán ở
nhà, ở đình làng, đến thời phong kiến và thời
kỳ đầu khi xã hội xuất hiện mô hình dạy học
theo trường lớp thì vai trò của người thầy là
vô cùng quan trọng. Ở đó, người thầy quyết
định tất cả, từ kiến thức đến phương pháp
(dạy cái gì, dạy như thế nào) còn học trò có
nhiệm vụ lắng nghe, ghi chép, hỏi và thụ
động tiếp thu kiến thức.
Hình 1: Lớp học truyền thống (ảnh minh họa).
Nói đến phương pháp dạy học truyền thống,
người ta hay nhấn mạnh đến phương pháp
thuyết giảng (thuyết trình). Trong lớp học,
người thầy giống như một “ca sĩ” độc diễn bài
của mình và SV là những “khán giả” ngoan
ngoãn chú ý lắng nghe. Để nhấn mạnh kiến
thức và với những nội dung quan trọng, người
thầy có thể bắt học sinh phải ghi chép bài đầy
đủ những gì mà thầy đọc. Paulo Freire - nhà
xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người
Brazil đã gọi phương pháp dạy học này là
"Hệ thống ban phát kiến thức", là quá trình
truyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò.
Thực hiện lối dạy này, GV là chủ thể, là tâm
điểm còn học sinh là khách thể, là quỹ đạo.
Khi áp dụng PPDH truyền thống cho môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể mang lại một
số mặt ưu điểm như: GV có thể truyền đạt
một khối lượng kiến thức lớn trong một
khoảng thời gian ngắn; SV tiếp thu được
nhiều kiến thức; Thích hợp cho việc trình bày
những vấn đề lý luận mới mẻ, phức tạp; tiết
kiệm về mặt kinh tế, một GV có thể dạy nhiều
SV và một giáo án có thể sử dụng nhiều lần
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này
trong giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng gặp phải không ít những trở ngại,
không ít những khó khăn như:
+ Không phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của SV. Trong lớp học truyền
thống, SV hoàn toàn lệ thuộc vào bài giảng
thuyết trình của GV, ít có điều kiện để giao
lưu trao đổi kiến thức, tranh luận, thảo luận
những vấn đề của bài học.
+ Khối lượng kiến thức được truyền thụ quá
nhiều trong 1 đơn vị thời gian ngắn, SV khó
có thể nhớ hết toàn bộ những gì người GV
truyền đạt và vận dụng chúng vào thực tế.
+ Dễ gây tâm lý căng thẳng, mệt mỏi, nhàm
chán, buồn ngủ vì SV phải ngồi nghe GV
thuyết trình trong cả buổi học, không khí lớp
học trầm, ít có sự giao lưu giữa SV với SV và
giữa SV với GV.
+ Người GV có thể giảng giải lại nhiều vấn
đề mà SV đã biết, đã hiểu nên dễ gây tâm lý
“biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
+ Khó có thể cá biệt hóa việc giảng dạy: số
lượng SV trong 1 lớp thường đông, trình độ
mỗi SV có sự chênh lệch, những kiến thức mà
GV thuyết giảng lại trải đều một lượt, dẫn đến
kết quả tiếp thu kiến thức là không đồng đều.
Theo số liệu thống kê của nhóm GV tư tưởng
Hồ Chí Minh điều tra về quan điểm dạy và
học môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại trường
Đại học CNTT&TT – ĐH Thái Nguyên cho
thấy, có đến hơn 3/4 SV được chọn khảo sát
không thích học theo phương pháp thuyết
trình (Hình 2); hầu hết SV không thích học
theo phương pháp đọc – chép; tâm lý của SV
diễn biến phức tạp (căng thẳng, mệt mỏi,
nhàm chán, buồn ngủ) trước những hạn chế
do phương pháp thuyết trình gây ra (Hình 3).
Mức độ hiệu quả tiếp thu bài của SV khi học
theo phương pháp này chỉ dừng ở 50% - 60%.
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
109
Việc khảo sát được tiến hành trên 5 lớp học tư
tưởng Hồ Chí Minh, hệ đại học chính quy, tại
trường Đại học CNTT&TT – ĐH Thái
Nguyên, năm học 2011 – 2012. Mẫu điều tra
được chọn ngẫu nhiên gồm 330 SV, cụ thể
(Bảng 1)
Bảng 1: Tỷ lệ % mẫu đối tượng được chọn
khảo sát ngẫu nhiên.
TT Mẫu đối tượng
điều tra
Tỷ lệ (%)
1 SV năm thứ nhất: 183 55,4 SV năm thứ 2: 147 44,6
2 SV là người Kinh: 278 84,2 SV là người dân tộc: 52 15,8
3 SV Nam: 189 57,2 SV Nữ: 141 42,8
Hình 2: Biểu đồ mô tả quan điểm của SV lựa
chọn học theo PP thuyết trình.
Hình 3: Biểu đồ diễn tả những hạn chế của PP
thuyết trình.
Việc duy trì PPDH truyền thống không chỉ
gặp khó khăn đối với SV mà còn khó khăn
đối với GV. Nhiều GV dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các trường đại học thuộc ĐH Thái
Nguyên khi được hỏi về vấn đề này đều đồng
nhất đưa ra các quan điểm như:
+ GV không hiểu hết được tâm lý, nguyện
vọng và nhu cầu của SV khi học môn học này
nên khó khăn trong việc chuẩn bị giáo án và
những nội dung thuyết giảng trên lớp.
+ Cần nhiều thời gian và tâm huyết để xây
dựng những bài thuyết giảng phong phú, sâu
sắc và cần nhiều thời gian trải nghiệm để có
thể trở thành người thuyết giảng giỏi.
+ Tâm lý mệt mỏi không chỉ xuất hiện ở SV
mà còn xuất hiện ở cả người GV nếu phải
thuyết giảng trong một khoảng thời gian dài.
SỰ PHỨC TẠP TRONG ỨNG DỤNG
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
HIỆN ĐẠI
PPDH hiện đại, PPDH mới, PPDH tích cực
là những cách nói khác nhau cho cùng một
nội dung là xây dựng PPDH hướng vào đối
tượng học, lấy người học làm trung tâm, phát
huy tính tự học, tính chủ động, sáng tạo, làm
chủ tri thức của SV. Định hướng ĐM PPDH
đã được xác định trong nhiều văn kiện của
Đảng và Nhà nước. Luật giáo dục 2005 có nêu:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học; bồi dưỡng cho người học năng
lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên” [2].
“Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình
độ đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý
thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kỹ năng thực hành” [3].
Có thể khái quát một số phương pháp tiêu
biểu trong hệ thống các PPDH hiện đại như:
Phương pháp nêu vấn đề, thảo luận nhóm,
PPDH theo dự án, PPDH theo hợp đồng,
phương pháp tình huống, phương pháp đóng
vai, phương pháp bể cá vàng
Hình 4: Lớp học theo PP hiện đại (ảnh minh họa)
22%
4%
64%
10%
Lượng kiến thức quá nhiều, không
thể nhớ hết
Đôi khi GV giảng lại những vấn đề
mà SV đã biết
22%
78%
Thích học
theo PP
thuyết trình
Không thích
học theo PP
thuyết trình
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
110
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện
những PPDH này vào môn học Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã gặp phải một số vấn đề khó khăn
nhất định.
+ Đối với GV: Hầu hết GV môn học Tư
tưởng Hồ Chí Minh tuy có trình độ và hiểu
biết sâu về lĩnh vực của mình những lại thiếu
và yếu về mặt kỹ thuật, công nghệ. Quá trình
thực hiện các PPDH hiện đại đòi hỏi phải sử
dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại hỗ trợ
như máy tính sách tay, máy chiếu, kỹ năng sử
dụng các phần mềm công nghệ thông tin để
sử dụng tốt những thiết bị và kỹ năng này
không phải GV nào cũng có thể đáp ứng
được. Không chỉ thế, việc thiết kế, chỉ đạo,
hướng dẫn sinh viên và tổ chức lớp học theo
các PPDH hiện đại đòi hỏi người GV phải có
kinh nghiệm, khả năng quản lý lớp học,
nhanh nhạy trong giải quyết vấn đề, khéo léo
trong phân xử tranh luận của SV để có thể
điều khiển lớp học đi đúng hướng, phát huy
được hết khả năng sáng tạo, khám phá tri thức
và tìm ra chân lý khoa học của SV. Mặt khác,
khi sử dụng các PPDH hiện đại vào môn học
tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải tính toán kỹ
lưỡng để sử dụng đúng phương pháp cho từng
nội dung của bài học, chương học và phải có
sự kết hợp linh hoạt giữa các PPDH với nhau
thì mới mang lại hiệu quả cao. Điều này đòi
hỏi mỗi GV vừa giống như nhà biên tập, biên
đạo chương trình lại vừa giống như nhà thiết
kế, đạo diễn lớp học.
Hình 5: Biểu đồ thể hiện quan điểm của SV
khi học theo PP tích cực.
+ Đối với SV: Theo số liệu điều tra của nhóm
GV Tư tưởng Hồ Chí Minh trường ĐH
CNTT&TT Thái Nguyên cho thấy, mặc dù có
đến 92% ý kiến thể hiện quan điểm “rất
thích” và ủng hộ việc đưa PPDH hiện đại vào
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng việc
ứng dụng những phương pháp này lại gặp
phải một số khó khăn như: Đa số SV chỉ thích
được nghe người khác tranh luận và thích
được quan sát tình huống; Nhiều SV thờ ơ,
thích “ngậm hột thị”; Số lượng SV mong
muốn được tranh luận để thể hiện quan điểm,
chính kiến riêng của mình là rất ít (Hình 5).
Khi được hỏi về những khó khăn để học theo
PPDH hiện đại thì có 72,6% SV cho rằng
không đủ nguồn tài liệu và vốn kiến thức nhất
định để tìm hiểu vấn đề ngay trên lớp học
Mặt khác, ở bảng 1 cho ta thấy trong mỗi lớp
học đều có một số lượng nhất định SV là con
em các dân tộc (15,8%). ĐH Thái Nguyên là
trường đại học vùng, vì vậy, trình độ đầu vào
của SV thường không cao như các trường ĐH
lớn ở Hà Nội. Đây là một bất lợi để có thể
triển khai các PPDH hiện đại vì tính năng động,
sắc sảo, nhanh nhạy của SV là không cao.
Những con số này cho thấy, mặc dù phần lớn
SV đều thích học tư tưởng Hồ Chí Minh theo
PHDH hiện đại nhưng lại chưa chuẩn bị tâm
lý, chưa thực sự sẵn sàng để tham gia.
Nguyên nhân một phần là do SV quá quen với
các PPDH truyền thống – những phương pháp
đã được định hình trong nếp nghĩ và thói quen
học từ lâu của SV; một phần do do tâm lý e
ngại, sợ sai, không tin tưởng vào khả năng
của bản thân; một phần là do trình độ chênh
lệc giữa các sinh viên trong lớp (do độ tuổi,
giới tính, dân tộc, kiến thức xã hội) và một
phần là do điều kiện trường lớp, phương tiện
kỹ thuật hỗ trợ, tài liệu hỗ trợ chưa thực sự
đầy đủ và thuận lợi.
SỰ TƯƠNG THÍCH TRONG KẾT HỢP
GIỮA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TRUYỀN THỐNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC HIỆN ĐẠI
Việc ứng dụng PPDH truyền thống và PPDH
hiện đại đều bộc lộ những ưu điểm và hạn chế
nhất định. Điều này gợi mở cho chúng ta một
hướng giải quyết vấn đề là kết hợp cả hai
phương pháp này với nhau nhằm phát huy
những mặt tích cực và triệt tiêu những hạn
17%
47%
36%
Thích tranh luận để bay tỏ quan điểm, ý
kiến riêng của mình
Thích được nghe tranh luận và quan sát
tinh huống
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
111
chế của nó, để giữa chúng có một sự tương
hỗ, bổ trợ hài hòa cho nhau. Theo kết quả
điều tra của nhóm GV Tư tưởng Hồ Chí
Minh, khi được hỏi về việc nên bỏ hay duy trì
phương pháp thuyết trình thì có tới 93,7% SV
lựa chọn phương án “Nên duy trì nhưng ở
mức độ vừa phải, tùy theo nội dung bài học
và có sự kết hợp với các PP khác”. Điều này
chứng tỏ, không phải hầu hết SV đều “nói
không” với phương pháp thuyết trình, chứng
tỏ các PPDH truyền thống vẫn có vai trò nhất
định đối với SV. Vấn đề là phải sử dụng PP
này như thế nào cho hợp lý và hiệu quả. Mặt
khác, việc tranh thủ ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh là cần thiết để phát huy tính hiệu quả
tích cực trong việc truyền thụ những kiến
thức của môn học cho SV, đặc biệt trong việc
cung cấp những hình ảnh tư liệu, phim tư liệu
và những câu chuyện kể về cuộc đời, sự
nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng
việc ứng dụng các PPDH hiện đại cũng cần
có sự kết hợp hài hòa cùng với phương pháp
thuyết giảng truyền thống thì mới đem lại
hiệu quả cao.
Số liệu ở bảng 2 cho thấy, nếu kết hợp cả hai
PPDH truyền thống và hiện đại trong các tiết
học Tư tưởng Hồ Chí Minh thì mức độ hiểu
bài của SV cao hơn rất nhiều so với việc chỉ
sử dụng đơn lẻ một phương pháp.
Bảng 2: Hiệu quả tiếp thu bài học của sinh viên.
PPDH Mức độ hiểu bài của SV
Truyền thống 50% - 60%
Hiện đại 60% - 70%
Kết hợp cả 2 PP > 80%
Tính hiệu quả của sự kết hợp giữa PPDH
truyền thống và PPDH hiện đại cho môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở
một số trường hợp áp dụng cụ thể sau:
- Sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình
với phương pháp đóng vai. Trong môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều phần học,
chương học có thể cho phép áp dụng PPDH
này. Ví dụ trong chương “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con
người mới”[4], ngoài những tiết giảng thuyết
trình của GV thì SV rất thích được học theo
phương pháp đóng vai. Có 78,6% SV thích
học theo phương pháp này. Khi được hỏi về
tính hiệu quả và khả năng tiếp thu bài học,
67% SV cho rằng qua những vở kịch, câu
chuyện kể về Bác, SV có thể hiểu sâu và nắm
rõ hơn quan điểm của Hồ Chí Minh về những
chuẩn mực đạo đức cách mạng và quan điểm
về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Từ thực tế quan sát các lớp học ứng dụng
phương pháp này cho thấy, SV rất hứng thú
tham gia “nhập vai”, họ sẵn sàng bỏ rất nhiều
thời gian và tâm huyết để soạn kịch bản cũng
như luyện tập kịch bản. Ở mỗi lớp học theo
mô hình này, cả nhóm “đóng vai” và người
“quan sát” đều rất hồ hởi, không khí lớp học
sôi động.
Hình 6: Sinh viên Đại học CNTT&TT hào hứng
học theo “phương pháp đóng vai”.
- Sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình
với bài giảng điện tử. Cùng là phương pháp
thuyết trình, nhưng thuyết trình kết hợp với
phấn bảng lại khác với thuyết trình kết hợp
với bài giảng điện tử. Có một điều đặc biệt
trong số liệu thống kê, khi được hỏi lựa chọn
1 trong 2 phương pháp trên thì 100% SV lựa
chọn phương pháp thuyết trình kết hợp bài
giảng điện tử. Theo đó, nội dung bài học vừa
được GV thuyết trình giảng giải lại vừa được
minh họa sinh động bằng những sơ đồ, hình
ảnh tư liệu, phim tư liệu “Trăm nghe không
bằng một thấy” – đây chính là triết lý hiệu
quả mà phương pháp này mang lại cho SV.
- Sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
tình huống. Theo số liệu thống kê, có đến
83% SV thích GV nêu vấn đề, ra các câu hỏi
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
112
liên quan đến nội dung bài học trong các tiết
học thuyết trình. Việc làm này sẽ tạo điều
kiện để SV có thể giao lưu với các bạn trong
lớp và với GV. Dù SV có trả lời được câu hỏi
hay không thì qua tổng kết, giảng giải lại của
GV sẽ làm cho SV nhớ sâu và nhớ lâu.
Hình 9: Một lớp học tư tưởng Hồ Chí Minh theo
PPDH hiện đại của sinh viên Đại học CNTT&TT
- Sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình
với các phương pháp thảo luận nhóm, PPDH
theo dự án, dạy học theo hợp đồng. Lợi thế
của nhóm phương pháp này là ngoài hướng
dẫn của GV, SV có thời gian chuẩn bị ở nhà,
tìm tài liệu từ nhiều nguồn, được làm việc độc
lập và làm việc theo nhóm. Hơn 70% SV
đồng ý rằng đây là nhóm phương pháp mà họ
có thể hiểu bài một cách sâu sắc. Qua đánh
giá của các bạn cùng lớp và sự tổng kết, giảng
giải của GV, SV có thể củng cố vững chắc hơn
những kiến thức mà nhóm mình đã chuẩn bị.
Từ những phân tích trên cho thấy, đối với
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, việc duy trì
ở mức độ hợp lý của PPDH truyền thống là
vô cùng cần thiết mà qua đó người GV có thể
truyền thụ những kiến thức lý luận mới và
khó. Ngoài ra, việc đưa PPDH hiện đại vào
môn học cũng là yếu tố không thể thiếu để
qua đó, SV có thể phát huy tối đa tính tích
cực, sáng tạo và khả năng làm chủ tri thức
khoa học của mình.
KẾT LUẬN
Qua những con số thống kê và phân tích trên
đây cho thấy:
+ SV không thích học theo phương pháp
thuyết trình liên miên ở các tiết học Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ SV muốn được học theo các PPDH hiện đại
nhưng lại chưa thực sự sẵn sàng để hòa nhập
vì chúng còn quá mới mẻ.
+ SV thích nhất được học theo phương pháp
thuyết trình kết hợp với các phương pháp: nêu
vấn đề, thảo luận nhóm, đóng vai, dạy học
theo hợp đồng, bài giảng điện tử
+ SV yếu nhất ở kỹ năng tranh luận do tâm lý
e ngại, sợ sai, thiếu tài liệu và vốn kiến thức
về lịch sử, chính trị, xã hội nhân văn.
Như vậy, để có thể phát huy tối đa tính hiệu
quả trong dạy và học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, để có thể áp dụng những PPDH trên
một cách rộng rãi trong nhà trường Đại học
CNTT&TT trong thời gian tới thì phải đảm
bảo được một số yêu cầu sau:
Một là: Đối với GV môn học phải không
ngừng nâng cao năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức, không ngừng rèn luyện,
học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp, đồng thời
phải nắm vững được tâm lý của SV từ đó sử
dụng các PPDH sao chò phù hợp với mong
muốn, nguyện vọng của SV, khai thác tối đa
những điểm mạnh và tìm cách tháo gỡ những
điểm yếu của SV.
Hai là: đối với SV phải không ngừng học tập,
tiếp thu những tri thức khoa học, không chỉ
đối với những môn chuyên ngành mà còn đối
với các môn khoa học cơ bản khác. SV phải
luôn ý thức được việc học của mình để sau
này trở thành những người chủ tương lai của
đất nước như lời Người từng dạy: “Học để
làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự Đoàn thể, Giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại”[5]. Ba là: Cần phải có sự
trang bị tốt những phòng học, giảng đường,
thư viện, với tài liệu và các thiết bị kỹ thuật
thuận lợi cho việc học của SV và việc triển
khai các PPDH hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2011), Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho sinh viên đại học,
cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[2]. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (1996), Hồ Chí
Minh Toàn tập, T8, tr 138.
Lê Quang Đăng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 107 - 113
113
[3]. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (1995), Hồ
Chí Minh Toàn tập, tập 5, tr 684.
[4]. Luật giáo dục 2005, Điều 5.2
[5]. Luật giáo dục 2005, Điều 40.2
SUMMARY
THE COMBINATION OF TRADITIONAL METHODS AND MODERN
METHODS IN TEACHING SUBJECT HO CHI MINH IDEOLOGY
IN COLLEGE OF INFORMATION AND COMMUNICATION TECHNOLOGY
Le Quang Dang*
College of Information Technology and Communication - TNU
In the current period, innovating teaching methods or improving the quality of teaching is an
inevitable demand of each teaching staff in the universities and colleges. However, the actual
implementation of innovative methods of teaching tasks faced many problems. Situation analysis
innovation of teaching methods from the perspective of a science of Ho Chi Minh Ideology at
University of Information and Communication Technology - TNU, This article presented the
limitations in the maintenance traditional teaching methods and the challenges in the application
modern teaching methods. Finally, article has given direction to solve the problem by the
harmonic combination both in the given compatibility and some results real application.
Key words: Methods of teaching, Ho Chi Minh Ideology, University of ICT.
Ngày nhận bài: 11/9/2012, ngày phản biện: 01/10/2012, ngày duyệt đăng: 12/11/2012
*
Tel: 0987 860183, Email: lqdang@ictu.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36370_39969_42201392036107_2983_2052208.pdf