Training and developing thinking for students is an important task in teaching. Mathematics is a
scientific subject which is so abstract and strict logic that students are required to have scientific
and innovative methods of thinking. Mathematics has a great potential and also the best
environment to train and develop the thinking of students. In the process of teaching mathematics,
the teacher not only teaches students how to find a solution, but also give exercises that help them
to solve the problem of thinking in many different ways to exploit the problem in many directions.
The activities will promote the training and development of students’ thinking.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển tư duy cho học sinh trung học cơ sở qua dạy học giải bài tập toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
43
PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
QUA DẠY HỌC GIẢI BÀI TẬP TOÁN
Hồ Thị Mai Phương
Trường Đại học Sư phạm- ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Rèn luyện và phát triển tư duy cho người học là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học. Toán học
là môn khoa học có tính trừu tượng cao và tính logic chặt chẽ. Vì vậy, người học phải có phương
pháp tư duy khoa học và mang tính sáng tạo. Môn toán có nhiều tiềm năng và cũng là môi trường
tốt nhất để rèn luyện và phát triển tư duy của người học. Trong quá trình dạy toán bên cạnh việc
dạy học sinh cách tìm lời giải bài tập nếu có phương pháp khai thác hệ thống bài tập, câu hỏi một
cách thích hợp dựa trên những nguyên tắc cơ bản sẽ giúp các em biết tìm lời giải bài toán bằng
nhiều cách khác nhau, khai thác bài toán theo nhiều hướng và góc độ khác nhau, những hoạt động
này sẽ góp phần rèn luyện và phát triển tư duy ở học sinh, nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng
yêu cầu dạy học phát triển hiện nay.
Từ khóa: Rèn luyện, phát triển, tư duy, người học, giáo viên
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Rèn luyện và phát triển tư duy (TD) cho
người học là một nhiệm vụ quan trọng trong
dạy học. Toán học là môn khoa học có tính
trừu tượng cao và tính lôgic chặt chẽ. Tri thức
trước là cơ sở cho tri thức sau và tri thức sau
dựa vào tri thức trước. Vì vậy đòi hỏi người
học phải có một phương pháp TD khoa học
và mang tính sáng tạo. Bên cạnh đó với
những đặc điểm ấy, môn toán có nhiều tiềm
năng và cũng là một môi trường tốt để rèn
luyện và phát triển TD của người học. Trong
dạy học giải bài tập toán, người học không
chỉ tiếp thu kiến thức, kĩ năng mà còn rèn
luyện cách nghĩ, cách tư duy, cách học. Do
vậy trong quá trình dạy học toán nói chung,
giải bài tập toán nói riêng người thầy không
chỉ dạy học sinh (HS) biết cách tìm tòi lời giải
bài tập mà còn giúp các em biết TD để giải bài
toán bằng các cách khác nhau, khai thác bài
toán theo nhiều hướng, nhìn bài toán dưới
nhiều góc độ. Chính những hoạt động này sẽ
thúc đẩy việc rèn luyện và phát triển TD ở HS.
TƯ DUY LÀ GÌ?
- Tư duy là quá trình nhận thức, phản ánh
những thuộc tính bản chất, những mối quan
hệ có tính qui luật của sự vật hiện tượng.
*
Tel: 0915590027; Email: hophuong1864@gmail.com
Theo từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998). Tư duy là
“Giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu
vào bản chất và phát hiện ra tính qui luật của
sự vật bằng những hình thức như biểu tượng,
phán đoán và suy lí”.
Tư duy mang tính khái quát, tính gián tiếp, tính
trừu tượng. Sản phẩm của TD là những khái
niệm, phán đoán, suy luận được biểu đạt bằng
những từ, ngữ, câu TD là một hoạt động trí
tuệ với quá trình bao gồm các bước sau:
* Xác định được vấn đề, biểu đạt nó thành
nhiệm vụ TD. Nói cách khác là tìm được câu
hỏi cần giải đáp.
* Huy động tri thức, vốn kinh nghiệm, liên
tưởng, hình thành giả thuyết và cách giải
quyết vấn đề, cách trả lời câu hỏi.
* Xác minh giả thuyết trong thực tiễn. Nếu
giả thuyết đúng thì qua bước sau, nếu sai thì
phủ định nó và hình thành giả thuyết mới.
* Quyết định, đánh giá kết quả và đưa ra
sử dụng.
Quá trình TD được diễn ra bằng cách chủ thể
tiến hành các thao tác trí tuệ.
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN
TƯ DUY
(1) Hiểu thấu và nắm vững kiến thức
Câu phương ngôn “ có bột mới gột nên hồ” là
kinh nghiệm được rút ra từ cuộc sống của
nhân dân ta qua hàng nghìn năm và được vận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
44
dụng vào mọi hoạt động của con người.
Trong hoạt động TD, phải có kiến thức mới
có cơ sở để dựa trên đó mà TD đúng đắn. Sự
hiểu biết càng sâu sắc thì TD càng chính xác.
Kiến thức càng vững vàng thì TD càng mạch
lạc. Hiểu thấu và nắm vững kiến thức là nền
tảng của TD trong học tập và giải toán, là cơ
sở của việc tiếp nhận tri thức mới và để phát
triển TD.
Các kiến thức của toán học được sắp xếp theo
một hệ thống chặt chẽ: tri thức sau dựa vào tri
thức trước, chính quá trình học tập liên tục
này là một khâu trong quá trình phát triển TD.
Vì lẽ đó trong dạy học người thầy phải
thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) để HS tiếp nhận kiến thức mới một
cách dễ dàng, nhanh chóng và khắc sâu được
kiến thức ấy.
(2) Phát triển tư duy dựa trên sự thực hành và
vận dụng kiến thức thường xuyên
Để thấu hiểu và nắm vững kiến thức thì cần
thực hành và vận dụng kiến thức thường
xuyên. Nếu HS làm nhiều bài tập, tìm nhiều
cách thức giải bài toán thì kiến thức thường
xuyên được huy động, được củng cố ngày
càng vững chắc; đồng thời luyện tập giải bài
tập là cơ hội để HS tập luyện TD, tạo dựng kĩ
năng TD và vì thế TD ngày càng được phát
triển. Để rèn luyện và phát triển TD cho
người học, GV phải dày công nghiên cứu,
chọn lọc được hệ thống bài tập đa dạng, đào
sâu được mọi khía cạnh của kiến thức để HS
thực hành, chính hệ thống những bài tập ấy
đòi hỏi HS phải tập luyện huy động kiến thức
đã học một cách triệt để. HS được rèn luyện
một phong cách suy nghĩ sâu sắc hơn và nhờ
đó dần hình thành được kĩ năng huy động
kiến thức góp phần phát triển TD
(3) Tích luỹ kinh nghiệm và kĩ năng để phát
triển tư duy
Mỗi thao tác của TD đều phải do rèn luyện,
củng cố thường xuyên, học tập mà có.
Thực tế chứng tỏ rằng quá trình TD không
phải lúc nào cũng được đi theo một con
đường thẳng tắp để tới đích mà nó thường
quanh co khúc khuỷu. Khi ta chọn được con
đường đi đến đích thẳng tắp, đấy là lúc quá
trình TD của ta sáng sủa, mạch lạc, mọi khâu
trong quá trình đó đã được sắp đặt một cách
tối ưu. Khi con đường đi tới đích quanh co
khúc khuỷu thì sau khi tới đích ta cần nhìn lại
để phân tích, phê phán những chỗ thiếu sót,
loại đi những khâu thừa hoặc sắp xếp lại các
khâu trong quá trình để TD được hợp lí hơn.
Giải lại một bài toán theo một cách khác, hay
khai thác bài toán theo những hướng khác
nhau chính là để rút ra những kinh nghiệm về
việc vận dụng các thao tác TD và cũng là để
hoàn thiện phương pháp TD.
Do vậy, việc tích luỹ kinh nghiệm rất cần
thiết cho sự phát triển TD. Trong khi xem xét
lại cách giải một bài toán ta đã phải tập luyện
TD sâu sắc hơn. Vì thế, việc đúc rút kinh
nghiệm không những tạo cho người học rèn
luyện TD mà còn giúp họ hoàn thiện các thao
tác TD của mình, làm cho TD có chất lượng
hơn và đẩy nhanh sự phát triển TD. Nhà toán
học nổi tiếng Pôlya đã nói: “Chúng ta học tập
xuất phát từ kinh nghiệm, hay nói đúng hơn,
chúng ta phải học tập từ kinh nghiệm. Sử
dụng kinh nghiệm một cách có hiệu quả nhất
là nhiệm vụ quan trọng của con người,”
(4) Biết cách huy động và vận dụng kiến thức
và kinh nghiệm vào việc phát triển TD
Thấu hiểu và nắm vững kiến thức và thường
xuyên thực hành vận dụng chúng, đó là những
cơ sở vật chất cho sự phát triển của TD, đó
chính là “bột” để gột nên “hồ”. Quá trình tích
luỹ kinh nghiệm là cơ hội để phát triển TD.
Nếu đã có một quá trình học tập với phong
cách thường xuyên rút kinh nghiệm thì quá
trình huy động kiến thức càng mau lẹ và
những kiến thức được huy động là những kiến
thức thực sự cần thiết.
Trong dạy học giải bài tập toán ở trường
THCS các nguyên tắc trên cần được quan tâm
một cách triệt để, như vậy sẽ góp phần tích
cực trong rèn luyện và phát triển TD.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT
TRIỂN TƯ DUY TOÁN HỌC CHO HỌC
SINH
Từ những nguyên tắc của TD để góp phần
phát triển TD cho người học cần thực hiện
trên cơ sở của một số biện pháp sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
45
* Giáo viên luôn tìm tòi những phương pháp
dạy học tốt và luôn đổi mới PP dạy – học
GV có phương pháp dạy học (PPDH) tốt và
luôn đổi mới PPDH sẽ giúp HS nắm vững và
hiểu thấu kiến thức. Cần lựa chọn một hệ
thống câu hỏi cho từng bài học, cho từng
khâu trong quá trình diễn ra của giờ học một
cách khéo léo, có tính kích thích TD, phát huy
sáng tạo và gây hứng thú học tập cho HS. Bên
cạnh việc trau dồi những tri thức toán học qui
định trong chương trình, cần quan tâm đến
việc trau dồi cho HS về phương pháp học tập,
phương pháp suy luận.
* Lựa chọn hệ thống bài tập tốt và thường
xuyên củng cố kiến thức cho HS
Một hệ thống bài tập được coi là tốt nếu nó
đảm bảo việc soi sáng, củng cố, đào sâu được
những kiến thức mà HS đã học, gây được
hứng thú học tập, làm cho HS ham mê học
tập, nâng dần trình độ hiểu biết, kĩ năng giải
toán, do đó phát triển được TD toán học cho
HS. Cần tranh thủ mọi cơ hội để củng cố mọi
kiến thức cho HS: củng cố khi dạy một kiến
thức mới có liên quan, củng cố khi giải một
bài tập cần vận dụng một kiến thức nào đó,
củng cố trước và sau khi thi hết học kì hoặc
hết năm học.
* Thường xuyên tập luyện cho học sinh suy
đoán và tưởng tượng, hướng dẫn HS biết phê
phán và tích luỹ kinh nghiệm.
Cần tạo nhiều cơ hội, nhiều tình huống buộc
HS phải suy đoán: Suy đoán về kết luận của
một định lý, về kết quả của một bài toán, về
khả năng giải bài toán Sau mỗi bài toán
khó hoặc một bài toán hay, HS biết dành thời
gian để nhìn lại cách giải, nhận biết cách giải
tốt, phê phán những chỗ rườm rà, tìm cách cải
tiến phương pháp giải, đề xuất những cách
giải hay, đồng thời phân tích, khai thác bài
toán tương tự, bài toán tổng quát ( nếu có).
Điều này giúp rèn luyện cho HS độc lập suy
nghĩ, tự đặt các câu hỏi và tự tìm cách giải
đáp chúng, đồng thời khuyến khích những
hoạt động trí óc như đặt câu hỏi hoài nghi
khoa học; tại sao? như thế nào?..
RÈN LUYỆN VÀ PHÁT TRIỂN TD QUA
DẠY HỌC GIẢI BÀI TẬP TOÁN
Bài tập toán học có vai trò quan trọng trong
môn Toán. Bài tập có vai trò là giá mang hoạt
động của học sinh. Bài tập toán được sử dụng
với nhiều dụng ý khác nhau, có nhiều ý nghĩa
- Hình thành, củng cố tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo trong những khâu khác nhau của quá
trình dạy học
- Phát triển năng lực trí tuệ; rèn luyện những
hoạt động tư duy, hình thành những phẩm
chất trí tuệ.
Với ý nghĩa đó bài tập toán là phương tiện
để đánh giá mức độ, kết quả dạy học, khả
năng làm việc độc lập và trình độ phát triển
TD của HS.
Tuy nhiên, không phải bài tập nào cũng khai
thác để thể hiện được đầy đủ chức năng có thể
có của nó, mà có thể nhằm vào một hay nhiều
dụng ý trên. Ở đây ta sẽ đi sâu vào việc dạy
học giải bài tập toán với dụng ý khai thác
nhằm rèn luyện và phát triển TD cho các em.
Ví dụ: Mô phỏng việc rèn luyện và phát triển
ở HS tư duy toán học thông qua việc khai
thác những hoạt động dựa trên các nguyên tắc
phát triển TD.
Bài toán 1. Tính tổng
1 1 1 1
...
1.2 2.3 3.4 1945.1946
S = + + + +
Nhận xét. Đây là bài toán về dãy số viết
theo qui luật, đòi hỏi HS phải có một thao
tác TD tinh tế; đó là phải suy nghĩ, phán
đoán, tìm tòi sáng tạo để tách được các số
hạng của một tổng thành những hiệu hoặc
tổng sao cho tổng đã cho có thể thu gọn
thành một tổng có ít số hạng và có thể tính
được. Những cách tách ấy sẽ rèn luyện cho
HS nhận xét, phán đoán, thử nghiệm.
*) Tìm cách giải bài toán bằng khai thác
chuỗi câu hỏi
(1) Tổng này có thể tính được bằng việc vận
dụng kiến thức về phép cộng phân số không?
(2) Hãy nhận xét mẫu số của các số hạng
trong tổng có đặc điểm gì chung?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
46
(3) Đã gặp những phép tính nào cho ta kết
quả như sau không?
1
2.3 ;
1
3.4 ; ,
1
( 1)n n +
,
hoặc
1 1
2 3
−
; ,
1 1
1n n
−
+
.
(4) Vậy để tính tổng trên hãy tìm liên hệ giữa
câu hỏi (2) và câu hỏi (3). Cho biết áp dụng
phép biến đổi nào sẽ có hiệu quả ?
Như vậy, bằng khai thác câu hỏi giúp HS hiểu
thấu, nắm vững kiến thức về phép cộng các
phân số, bằng kinh nghiệm, suy đoán và
tưởng tượng HS có được lời giải bài toán.
Nhận thấy
1 1 1 1
2 1.2 1 2
= = −
;
1
2.3
=
3 2 1 1
2.3 2 3
−
= − ;
1
3.4
=
1 1
3 4
− ;;
1 1 1
1945.1946 1945 1946
= −
Vậy,
1 1 1 1
...
1.2 2.3 3.4 1945.1946
S = + + + +
1 1 1 1 1 1 1 1
...
1 2 2 3 3 4 1945 1946
= − + − + − + + −
1 1 1945
1 1946 1946
= − =
(5) Từ lời giải bài toán trên có thể khai thác
được các bài toán tương tự không?
*) Khai thác lời giải bài toán theo hướng phân
tích tính chất đặc thù của mẫu số của các số
hạng trong tổng. Bằng phê phán, tích luỹ kinh
nghiệm, ghi nhớ, HS phân tích, khai thác bài
toán theo hướng sáng tạo bài toán mới.
Bài toán (BT) 1.1. Tính tổng
S = 1
1.2.3
+
1 1 1
...
2.3.4 3.4.5 48.49.50
+ + +
Hướng dẫn (HD): Bằng sự huy động kiến
thức và kinh nghiệm từ lời giải bài toán 1 HS
tiến hành qui lạ về quen bằng việc nhận thấy:
1 1 1 1
1.2.3 2 1.2 2.3
= −
Hoàn toàn bằng TD tương tự, HS tính được
tổng
1 1 1 611
2 2.3 49.50 7350
S = − =
BT1.2. Tính tổng
1 1 1 1
...
1.2.3.4 2.3.4.5 3.4.5.6 47.48.49.50
S = + + + +
HD. Từ kinh nghiệm TD qua việc tìm lời giải
hai bài toán trên HS dễ dàng nhận thấy
1 1 1 1
1.2.3.4 3 1.2.3 2.3.4
= −
Tìm được tổng
1 1 1 1 8.49.50 1
.
3 1.2.3 48.49.50 3 48.49.50
S − = − =
*) Đề xuất bài toán tương tự trong trường hợp
tổng quát hơn.
Phân tích đặc điểm của bài toán nếu tăng các
số hạng của tổng S lên ta có thể tính được
tổng S dựa vào cách khai thác các câu hỏi như
trên không? Ta có bài toán tương tự trong
trường hợp tổng quát, rộng hơn như sau:
BT 1.3. Tính
1 1 1 1 1
... ...
1.2 2.3 3.4 1945.1946 ( 1)S n n= + + + + + + +
BT 1.4. Tính
...( ) ( )( 2 ) [ ( 1) ][ ]
b b bP
a a b a b a b a n b a nb
= + + +
+ + + + − +
BT 1.5. Tính
1 1 1
...
1.2.3 2.3.4 3.4.5
S = + + + +
1 1
...
48.49.50 ( 1)( 2)n n n+ + + +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
47
BT 1.6. Tính
1 1 1 1
... ...
1.2.3.4 2.3.4.5 3.4.5.6 47.48.49.50
S = + + + + + +
1
( 1) ( 1)( 2)n n n n− + +
*) Đề xuất bài toán mới: Từ cách giải và kết
quả cuả bài toán, ta nhận thấy nếu tăng các số
hạng của tổng S lên thì cách giải bài toán vẫn
tương tự. Vấn đề mới đặt ra là khi tìm được
tính qui luật của mẫu số trong các số hạng của
tổng S thì ta tính được tổng S, từ đó đề xuất
bài toán mới nhằm tạo ra chùm bài tập vận
dụng, củng cố kiến thức về các phép toán trên
phân số về dãy các phân số viết theo qui luật.
Điều này không chỉ rèn luyện cho HS kĩ năng
tìm lời giải và tích luỹ kinh nghiệm trong giải
toán, kiến thức thường xuyên được củng cố
và luyện tập góp phần phát triển TD cho HS.
BT 1.7. Cho biểu thức
S = 1 111 1
3
+
+
+
1
1 11
3 6
+
+ +
+
1
1 1 11 ...
3 6 1993006
+ + + +
Mẫu số của các số hạng có dạng
1 2 3 1
1 1 1 1 1
...
k ku u u u u−
+ + + + +
Với 1k ku k u −= +
Chứng minh S > 1001.
HD. Với kinh nghiệm TD qua các bài toán
trên HS sẽ suy nghĩ để nhận biết bài toán qua
những câu hỏi dẫn dắt.
(1) Mẫu số của mỗi số hạng được viết theo
qui luật nào? Liệu có thể qui mẫu về trường
hợp bài toán 1 được không?
Ta thấy:
u1=1;
u2 = 2 + u1 = 2 + 1 = 3
u3 = 3 + u2 = 3 + 3 = 2.3
u4 = 4 + u3 = 4 + 2.3 = 2.5
u5 = 5 + u4 = 5 + 2.5 = 3.5
u6 = 6 + u5 = 6 + 3.5 = 3.7
(2) Hãy tìm các biến đổi thêm chút nữa để tìm
ra qui luật của các mẫu
Ta có
1
1 2
1.2u
= ,
2
1 2
2.3u
= ; , 1 2( 1)nu n n
=
+
(3) bằng kinh nghiệm trong lời giải các bài
toán trên hãy qui bài toán về bài toán quen
thuộc đã biết
1
1 1 2 1 12
1 1.2 1 2u
= = = −
,
2
1 1 2 1 12
3 2.3 2 3u
= = = −
, 3
1 1 12
3 4u
= −
,
,
1 2 2 1 12
1993006 3986012 1996.1997 1996 1997
= = = −
(4) Hãy tính tổng S và so sánh tổng S với
1001.
Có thể thấy dạy học giải bài tập toán theo
hướng như trên đó là quá trình để HS củng cố
kiến thức tạo ra khả năng suy đoán, tưởng
tượng, qui lạ về quen đúc rút tích luỹ kinh
nghiệm giải toán góp phần rèn luyện và phát
triển TD, HS sẽ hứng thú học hơn. Tư duy
của học sinh không ngừng được nâng cao nếu
trong quá trình dạy học, các nội dung được
xây dựng và việc giải bài tập giáo viên biết
khai thác câu hỏi bằng những tình huống gợi
vấn đề.
Việc rèn luyện và phát triển TD cho HS là
một khâu quan trọng trong xu thế dạy học
phát triển hiện nay. Giáo viên dạy toán nên
tìm tòi để đưa ra các tình huống gợi vấn đề,
gợi cho HS sự tò mò tìm hiểu, hứng thú học
tập, việc tạo tình huống gợi vấn đề trong dạy
học môn Toán nói chung giải bài tập toán nói
riêng đòi hỏi người giáo viên phải không
ngừng học hỏi nâng cao tay nghề, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ để tiết dạy có nhiều
tình huống gây được cảm xúc và ngạc nhiên
cho HS từ đó tạo cảm giác hưng phấn, hứng
thú học tập, làm cho tiết bài tập không còn
khô khan mà đầy lý thú, để HS xem việc giải
bài tập toán là chân trời để khám phá, là
phương tiện hiệu quả góp phần tích cực trong
rèn luyện và phát triển TD.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 43 - 48
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Bá Kim (2004), Phương pháp dạy
học môn toán - Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
[2]. Nguyễn Thái Hoè, (2001), Rèn luyện tư duy
qua việc giải bài tập toán, Nxb Giáo dục.
[3]. Lê Thống Nhất, (2001), Rèn luyện kĩ năng
giải toán THCS, Nxb Giáo dục.
[4]. Sách giáo khoa toán, sách bài tập, môn toán
THCS 2004, Nxb Giáo dục.
[5]. Sách toán nâng cao và các chuyên đề toán ở
trường THCS 2003, Nxb Giáo dục.
[6]. Nguyễn Duy Thuận (2007), Phát triển tư duy
toán học trong học sinh, Nxb Đại học Sư phạm
[7]. Trần Thúc Trình (2003), Tư duy và hoạt động
toán học, Hà Nội.
SUMMARY
DEVELOPMENT OF MIDDLE SCHOOL STUDENTS’ THINKING
THROUGH TEACHING MATH EXERCISES
Ho Thi Mai Phuong*
College of Education – TNU
Training and developing thinking for students is an important task in teaching. Mathematics is a
scientific subject which is so abstract and strict logic that students are required to have scientific
and innovative methods of thinking. Mathematics has a great potential and also the best
environment to train and develop the thinking of students. In the process of teaching mathematics,
the teacher not only teaches students how to find a solution, but also give exercises that help them
to solve the problem of thinking in many different ways to exploit the problem in many directions.
The activities will promote the training and development of students’ thinking.
Key words: Training, development, thinking, learners, the teacher.
Ngày nhận: 16/01/2012; Ngày phản biện:26/03/2012; Ngày duyệt đăng:12/06/2012
*
Tel: 0915590027; Email: hophuong1864@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33580_37387_1192012102832so9406_split_7_198_2048485.pdf