(2). Công nghệ sản xuất gạch nung ở Phổ Yên
chủ yếu là công nghệ là thủ công, gây ô nhiễm
môi trường. Hàng năm việc sản xuất gạch
nung thủ công đã làm 114.000 m3 đất nông
nghiệp bị đào bới và thải ra môi trường
11.250.000 tấn CO2/năm, ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp, sức khỏe của người
dân địa phương và nảy sinh nhiều bất cập
cần giải quyết.
(3). Phát triển nghề sản xuất gạch nung ở
Phổ Yên nên khảo nghiệm và áp dụng công
nghệ mới, công nghệ lò nung liên tục kiểu
đứng thân thiện hơn với môi trường. Để
chuyển đổi theo công nghệ này huyện cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp như quy
hoạch vùng nguyên liệu và vùng sản xuất;
thực hiện trình diễn công nghệ lò nung liên
tục; tạo các điều kiện thuận lợi cần thiết để
chuyển đổi công nghệ như hỗ trợ vốn; đào
tạo chuyển giao công nghệ .
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển nghề sản xuất gạch nung ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên theo hướng thân thiện môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
133
PHÁT TRIỂN NGHỀ SẢN XUẤT GẠCH NUNG Ở HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI
NGUYÊN THEO HƯỚNG THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG
Đỗ Xuân Luận1*, Dương Thanh Tình
1Trường Đại học Nông Lâm - ĐHTN, 2Trường Đại học KT&QTKD - ĐHTN
TÓM TẮT
Phổ Yên là huyện có tiềm năng về sản xuất gạch nung. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất gạch nung ở
Phổ Yên chủ yếu là công nghệ là thủ công, gây ô nhiễm môi trường. Hàng năm việc sản xuất gạch
nung thủ công đã làm 114.000 m3 đất nông nghiệp bị đào bới và thải ra môi trường 11.250.000 tấn
CO2/năm, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, sức khỏe của người dân địa phương và nảy sinh
nhiều bất cập cần giải quyết. Phát triển nghề sản xuất gạch nung ở Phổ Yên nên khảo nghiệm và
áp dụng công nghệ mới, công nghệ lò nung liên tục kiểu đứng thân thiện hơn với môi trường. Để
chuyển đổi theo công nghệ này huyện cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như quy hoạch vùng
nguyên liệu và vùng sản xuất; thực hiện trình diễn công nghệ lò nung liên tục; tạo các điều kiện
thuận lợi cần thiết để chuyển đổi công nghệ như hỗ trợ vốn; đào tạo chuyển giao công nghệ.
Từ khóa: ô nhiễm môi trường, sản xuất gạch nung, Phổ Yên, Thái Nguyên.
∗
ĐẶT VẤN ĐỀ
Huyện Phổ Yên có gần 300 cơ sở sản xuất
gạch đất nung trong đó có 3 cơ sở sản xuất
công nghiệp, còn lại đều là các cơ sở sản
xuất thủ công. Bên cạch những mặt tích cực
như tạo việc làm và tăng thu nhập cho người
dân địa phương, các lò gạch thủ công đang
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến sức khỏe cộng đồng và sản xuất
nông nghiệp. Với mong muốn tìm hiểu hiện
trạng sản xuất nghề sản xuất gạch nung thủ
công, những tác động của nó đến môi trường,
phân tích và đề xuất một hướng phát triển mới
thân thiện hơn với môi trường, người nghiên
cứu đã lựa chọn đề tài:“Phát triển nghề sản
xuất gạch nung ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên theo hướng thân thiện môi trường”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng phương
pháp thống kê so sánh; các công cụ thu thập
và phân tích thông tin như thu thập thông tin
thứ cấp, phỏng vấn bán cấu trúc, phỏng vấn
cấu trúc và phân tích SWOT.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hiện trạng sản xuất gạch đất nung thủ
công ở Phổ Yên
Huyện Phổ Yên có những lợi thế riêng biệt về
sản xuất gạch đất nung. Ngoài lợi thế về vị trí
∗
Tel: 0985 946507, Email: doxuanluan@gmail.com
địa lý thuận lợi và nguồn lao động dồi dào,
huyện còn có lợi thế đặc biệt về nguồn
nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ sản xuất
gạch đất nung. Huyện có khoảng 4 mỏ đất sét
với trữ lượng khoảng 19 triệu m3 (bao gồm
hai loại sét là phong hóa và trầm tích), chất
lượng sét tốt, đủ tiêu chuẩn để sản xuất gạch.
Với trữ lượng đã thăm dò, dự kiến đến năm
2020 huyện Phổ Yên mới chỉ sử dụng khoảng
7 triệu m3, chiếm 37% nguồn nguyên liệu
hiện có để sản xuất gạch nung. Phổ Yên ở gần
các mỏ than lớn như Núi Hồng và Khánh Hòa
với trữ lượng khoảng 63 triệu tấn nên việc
vận chuyển than từ các mỏ tới địa bàn các xã
là tương đối thuận tiện [3].
Sản xuất gạch nung thủ công là một nghề
truyền thống của địa phương, đã được phát
triển từ những năm 1960. Hiện tại nghề này
được phát triển ở hầu hết các xã trong huyện
(15/18 xã, thị trấn có cơ sở sản xuất gạch đất
nung), tập trung chủ yếu ở các xã Đắc Sơn,
Trung Thành, Vạn Phái, Tiên Phong, Đông
Cao, Thành Công, Nam Tiến [1].
Tính đến hết năm 2009, Phổ Yên có tổng số
290 cơ sở sản xuất gạch nung thủ công, 3 cơ
sở sản xuất gạch Tuynel. Sản lượng gạch
nung trên địa bàn huyện chủ yếu là gạch nung
thủ công. Hàng năm các lò gạch này cho ra lò
khoảng 75 triệu viên/năm, chiếm tới 75% sản
lượng gạch nung toàn huyện. Sản phẩm gạch
nung được tiêu thụ chủ yếu trong huyện (70%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
134
sản lượng) để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong
huyện do quá trình công nghiệp hóa và đô thị
hóa, còn lại là cung cấp cho các huyện lân cận
như Sóc Sơn, Hiệp Hòa, Đại Từ, Phú Bình [4].
Mỗi vỏ lò giải quyết công ăn việc làm cho 30-
40 lao động, thu nhập bình quân một lao động
khoảng 1000.000-1.200.000 đồng/tháng. Lao
động tham gia và nghề này chủ yếu là lao
động phổ thông, chưa qua đào tạo chiếm 85%
(kết quả điều tra của tác giả). Lao động trong
các lò gạch thủ công là lao động trong môi
trường không an toàn, có không ít tai nạn do
máy ép gạch, ép đất gây ra; người lao động
làm việc trong điều kiện nóng bức, khói bụi.
Công nghệ sản xuất thủ công nên các công
việc xếp gạch vào lò, nung, làm nguội được
tiến hành gián đoạn theo từng mẻ đốt. Theo
đó các giai đoạn sấy, gia nhiệt, nung và làm
nguội diễn ra một cách độc lập trong buồng
đốt nên quá trình nung kéo dài, khả năng tận
dụng nhiệt kém, hơn nữa nhiệt tích trữ trong
vỏ lò cũng bị mất mà không tận dụng được.
Bởi vậy nhiên liệu bị tiêu hao nhiều và gây ô
nhiễm môi trường. Chất lượng gạch không
đồng đều giữa các mẻ đốt và phụ thuộc nhiều
vào kinh nghiệm của người đốt lò. Đây là một
thách thức đối với sản phẩm gạch nung thủ
công bởi xu hướng chung hiện nay, nhiều
khách hàng lựa chọn sử dụng gạch của các
nhà máy sản xuất theo công nghệ tiên tiến với
những ưu thế về kích thước gạch đạt tiêu
chuẩn, chất lượng gạch lại được kiểm định,
không gây ô nhiễm môi trường.
Tác động của sản xuất gạch nung thủ công
đến môi trường, sản xuất nông nghiệp và
sức khỏe cộng đồng
Với 290 vỏ lò gạch thủ công, hoạt động trên
diện tích 709.000m2, mỗi năm những vỏ lò
này sẽ cho ra lò khoảng 75 triệu viên gạch,
tương đương khoảng 114.000 m3 đất nông
nghiệp bị đào bới. Công tác phục hồi môi
trường sinh thái ở những nơi khai thác không
tốt dẫn tới ảnh hưởng xấu tới môi trường và
cảnh quan thiên nhiên.
Sản xuất gạch nung thủ công thải ra môi
trường một lượng CO2 tương đối lớn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy cứ sản xuất ra một triệu
viên gạch nung, các lò gạch ở Phổ Yên sẽ thải
ra môi trường khoảng 150.000 tấn khí CO2.
Như vậy, nếu trung bình một năm các lò gạch
sản xuất được 75 triệu viên sẽ thải ra môi
trường 11.250.000 tấn CO2/năm.
Theo phản ánh của các chủ lò và người dân
địa phương, nếu khí thải CO2 từ lò gạch bị
gió lùa xuống vườn cây ăn trái và ruộng lúa,
thì lúa và vườn cây ăn trái đó sẽ bị lép hạt,
không cho trái hay cho năng suất thấp. Các
ruộng ngô, ruộng khoai thường bị cháy do
ảnh hưởng của khói lò. Tuy nhiên, việc này
tùy thuộc vào lượng khói và thời kỳ sinh
trưởng và phát triển của từng loại cây trồng.
Ngoài ra, khí thải còn làm cho người dân
trong vùng mắc các bệnh về đường hô hấp
như ho, viêm phổi,... con số này vẫn chưa
được thống kê.
Bảng 1. Phân tích SWOT cho nghề sản xuất gạch nung thủ công
Điểm mạnh
- Tính truyền thống;
- Nguyên liệu;
- Nhiên liệu;
- Lao động dồi dào.
Điểm yếu
- Công nghệ thủ công;
- Ô nhiễm môi trường;
- Phát triển tự phát, gần khu dân cư;
- Lao động phổ thông, chưa qua đào tạo.
Cơ hội
- Hỗ trợ chuyển đổi công nghệ thân thiện môi trường;
- Thu hút đầu tư để sản xuất theo công nghệ tiên tiến;
- Tiếp cận thị trường do nhu cầu thị trường về gạch
nung lớn.
Thách thức
- Quy định của nhà nước đến hết 2010 xóa bỏ
dần các lò gạch thủ công gây ô nhiễm môi
trường
- Nguồn lực để chuyển đổi công nghệ thân
thiện môi trường
- Nhu cầu tiêu thụ gạch chất lượng cao, cạnh tranh.
(Nguồn: Tổng hợp từ nghiên cứu hiện trạng sản xuất gạch nung thủ công)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
135
Sản xuất lò gạch thủ công đã làm phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp. Đã có nhiều vụ khiếu
kiện đông người xảy ra gây mất đoàn kết
trong nội bộ làng xóm. Hằng năm, các chủ lò
gạch đã phải bỏ ra hàng trăm triệu đồng đền
bù thiệt hại hoa mầu bị chết hoặc giảm năng
suất do khí thải CO2 từ lò gạch thủ công.
Những đánh giá chung về nghề sản xuất
gạch nung ở Phổ Yên
Qua quá trình thu thập thông tin thứ cấp,
phỏng vấn lãnh đạo địa phương, chủ lò gạch
nung, người dân địa phương kết hợp với kết
quả điều tra, người nghiên cứu đã tổng hợp
những nhận xét, đánh giá về nghề này qua
Bảng 1.
Như vậy, nghề sản xuất gạch nung ở Phổ Yên
có nhiều lợi thế và cơ hội phát triển nhưng
còn tồn tại rất nhiều bất cập và thách thức,
đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Do
vậy, để phát triển nghề này vấn đề đặt ra là
cần phải thay đổi công nghệ theo hướng tiên
tiến hơn, thân thiện hơn với môi trường và
phù hợp với điều kiện địa phương.
Công nghệ lò nung liên tục kiểu đứng
(VSBK), một hướng phát triển mới thân
thiện hơn với môi trường
Lò gạch thủ công ở Phổ Yên cùng với nhược
điểm vốn có của nó đã gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Trên địa bàn huyện hiện có 3 lò
nung Tuynel nhưng vẫn chưa phổ biến được
rộng rãi do chi phí đầu tư xây dựng quá tốn
kém, không phù hợp với các hộ sản xuất vừa
và nhỏ. Lò nung gạch liên tục kiểu đứng đã
cho thấy nhiêu ưu điểm và là một giải pháp có
tính khả thi cao trong giai đoạn hiện nay.
Công nghệ lò liên tục kiểu đứng phù hợp với
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được áp dụng
thành công ở rất nhiều tỉnh như Lai Châu,
Bắc Kạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà
Nam, Hưng Yên, Hòa Bình, Hà Tây, Hải
Dương, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Bình, Đắc Lắk, Bến Tre, Đồng Nai,
Phú Quốc..
Đối với huyện Phổ Yên, kết quả nghiên cứu
trên địa bàn huyện cho thấy lò liên tục kiểu
đứng có nhiều ưu điểm so với lò nung thủ công.
So sánh hai công nghệ lò liên tục và công
nghệ lò nung thủ công còn được thể hiện chi
tiết hơn ở các chỉ tiêu sau:
Công suất của lò VSBK: Công suất lò VSBK
được thiết kế theo mô đun, mỗi mô dun có
công suất khoảng 1,5 triệu viên gạch đặc có
kích thước 215x100x60mm hoặc khoảng 3
triệu viên gạch thông tâm 25% có kích thước
215x100x60mm trong một năm.
Vốn đầu tư : Vốn đầu tư phổ biến hiện nay
đối với các cơ sở sản xuất gạch thông tâm
25% công suất 1 triệu viên gạch thành phẩm
trong năm vào khoảng 350-400 triệu đồng.
Tiết kiệm năng lượng, Giảm ô nhiễm môi
trường (Bảng 3).
Bảng 2. So sánh hai công nghệ qua một số chỉ tiêu cơ bản
Tiêu chí so sánh Lò nung thủ công Lò nung liên tục kiểu đứng
Lượng khí thải Lượng khí thải nhiều hơn, nhiệt
độ khí thải cao.
Lưu lượng khí thải giảm 11,5 lần. Lượng SO2 và CO2
giảm 6 lần. Nhiệt độ khí thải thấp.
Nhiên liệu Tốn nhiên liệu hơn Tiết kiệm nhiên liệu 45% so với lò thủ công đốt than
và 35% so với lò thủ công đốt củi
Chất lượng gạch Bình quân đạt 85% gạch loại A, tỷ lệ hao vỡ khoảng 15%.
Đạt trên 95% gạch loại A, tỷ lệ hao vỡ dưới 5%.
Chủng loại sản phẩm Chủng loại chủ yếu là: Gạch không lỗ và hai lỗ.
Gạch hai lỗ, gạch bốn lỗ, gạch sáu lỗ, gạch đặc.
Bố trí lao động Lao động thời vụ Do sản xuất liên tục nên dễ bố trí việc làm, lao động.
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
136
Bảng 3. So sánh thông số đầu vào của lò gạch liên tục kiểu đứng với lò thủ công
tính cho 1000 viên gạch đặc (2kg/viên)
Thông số Đơn vị Lò liên tục Lò thủ công
Tiêu hao than cám 6 kg 100 220
Nhân công công 2,1 3,1
Tỷ lệ hưu hao % <5% 15%
Đất nguyên liệu m3 2,1 2,2
Chất lượng sản phẩm TCVN 6355-98 đạt kém đạt
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Bảng 4. Nồng độ một số khí thải trên mặt lò gạch VSBK
Thông số Đơn vị Giá trị đo Tiêu chuẩn
CO mg/m3 13,5 40* 40#
CO2 mg/m3 0,06 0,1 -
NO2 mg/m3 0,19 10 0,4
SO2 mg/m3 0,40 10 0,5
Bụi mg/m3 0,25 6 0,3
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Ghi chú: * - Tiêu chuẩn 373/2002/ QĐ/ BYT# - Tiêu chuẩn: TCVN 5937-1995.
Bảng 5. Kết quả thí nghiệm gạch đất sét nung, gạch 2 lỗ
Thông số Đơn vị Lò liên tục Tiêu chuẩn
Độ bền nén N/mm2 52,35
TCVN1450-1998
Độ bền uốn N/mm2 30,42
Độ hút nước % 12,18
Mức độ nung - Đạt
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu)
Qua những phân tích trên cho thấy, công nghệ
lò nung thủ công có nhiều ưu việt và đã được
thực tế áp dụng thành công ở nhiều địa
phương trên cả nước. Trên địa bàn huyện Phổ
Yên hiện nay phần lớn vẫn là lò nung thủ
công truyền thống, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Mô hình lò gạch liên tục kiểu
đứng phù hợp với điều kiện tài chính, cung
ứng nguyên liệu và kỹ thuật sản xuất của các
chủ lò gạch trên địa bàn huyện. Vậy nghề sản
xuất gạch nung thủ công ở Phổ Yên sẽ phát
triển theo định hướng nào?
Hướng phát triển nghề sản xuất gạch nung
ở huyện Phổ Yên
Kết quả phân tích trên đã hướng người nghiên
cứu đề xuất hướng phát triển nghề sản xuất
gạch nung Phổ Yên theo công nghệ mới, thân
thiện môi trường. Cụ thể:
(1). Huyện cần tiến hành quy hoạch chi tiết
các nguồn nguyên liệu và khu vực sản xuất
gạch nung, tránh tình trạng khai thác sản xuất
bừa bãi gây lãng phí tài nguyên đất và ô
nhiễm môi trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
137
(2). Huyện có kế hoạch cụ thể để xóa bỏ dần
các lò gạch thủ công, gây ô nhiễm môi trường
theo quy định của Nhà nước. Tuy nhiên, việc
triển khai công việc này cần có lộ trình cụ thể
vì nó ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập của
người dân địa phương. Trước mắt, địa
phương cần triển khai các biện pháp như: cấm
đốt gạch, khai thác đất ở những khu vực gần
dân cư, hành lang bảo vệ đê điều...; thành lập
quỹ bảo vệ môi trường để bồi thường thiệt hại
cho sản xuất nông nghiệp do khói lò gạch
hoặc phục hồi môi trường tại địa phương.
(3). Huyện nên tổ chức mô hình trình diễn
công nghệ lò nung liên tục kiểu đứng. Thông
qua xây dựng mô hình, tổ chức tập huấn, tuyên
truyền từng bước nâng cao nhận thức cho các
cấp chính quyền từ huyện đến các xã, phường,
thị trấn, cộng đồng dân cư ở các địa phương có
điều kiện sản xuất gạch nung về tiết kiệm năng
lượng, bảo vệ môi trường và góp phần phát
triển bền vững trên địa bàn tỉnh.
(4). Huyện cần có các biện pháp tạo điều kiện
cần thiết và thuận lợi để chuyển đổi công
nghệ; huyện cần có các chính sách, biện pháp
hỗ trợ, khuyến khích các cơ sở chuyển đổi
công nghệ sản xuất theo hướng thân thiện môi
trường, như mô hình lò liên tục kiểu đứng.
Hiện nay, vướng mắc chủ yếu để chuyển đổi
sang công nghệ này đó là vốn và công nghệ.
Hiện tại, vốn và trình độ công nghệ của các
cơ sở sản xuất gạch nung thủ công ở Phổ Yên
chưa đáp ứng được vốn chuyển đổi công nghệ
để phát triển theo hướng thân thiện môi
trường. Huyện cần có các biện pháp như
tuyên truyền; tạo điều kiện thuận về vay vốn
ưu đãi ngân hàng, khuyến khích các hộ góp
vốn liên kết, thu hút đầu tư từ các doanh
nghiệp ngoài địa bàn... Đồng thời, cần có biện
pháp chuyển giao công nghệ lò gạch liên tục
kiểu đứng cho các hộ sản xuất gạch nung,
thay thế lò thủ công truyền thống.
KẾT LUẬN
(1). Phổ Yên là huyện có tiềm năng về sản
xuất gạch nung.
(2). Công nghệ sản xuất gạch nung ở Phổ Yên
chủ yếu là công nghệ là thủ công, gây ô nhiễm
môi trường. Hàng năm việc sản xuất gạch
nung thủ công đã làm 114.000 m3 đất nông
nghiệp bị đào bới và thải ra môi trường
11.250.000 tấn CO2/năm, ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp, sức khỏe của người
dân địa phương và nảy sinh nhiều bất cập
cần giải quyết.
(3). Phát triển nghề sản xuất gạch nung ở
Phổ Yên nên khảo nghiệm và áp dụng công
nghệ mới, công nghệ lò nung liên tục kiểu
đứng thân thiện hơn với môi trường. Để
chuyển đổi theo công nghệ này huyện cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp như quy
hoạch vùng nguyên liệu và vùng sản xuất;
thực hiện trình diễn công nghệ lò nung liên
tục; tạo các điều kiện thuận lợi cần thiết để
chuyển đổi công nghệ như hỗ trợ vốn; đào
tạo chuyển giao công nghệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đức Quyền (2005), “Công nghệ lò
nung liên tục kiểu đứng”. Viện Khoa học & Công
nghệ Nhiệt – Lạnh, Hà Nội.
[2]. Sở Khoa học và Công nghệ Hải Dương
(2006), “Dự án xây dựng mô hình trình diễn lò
gạch liên tục kiểu đứng hiệu suất cao, giảm thiểu
ô nhiễm môi trường, góp phần phát triển bền vững
ở tỉnh Hải Dương, Hải Dương.
[3]. Uỷ ban nhân dân huyện Phổ Yên (2009),
“Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp năm 2008”, Phổ Yên.
[4]. Uỷ ban nhân dân huyện Phổ Yên (2008),
“Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp năm 2007”, Phổ Yên.
[5]. Ủy ban nhân dân huyện Phổ Yên (2006), “Đề
án phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề
huyện Phổ Yên giai đoạn 2006 – 2010”, Phổ Yên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Đỗ Xuân Luận và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 133 - 138
138
SUMMARY
ENVIRONMENTAL FRIENDLY DEVELOPMENT OF BRICK
MANUFACTURE IN PHO YEN DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE
Do Xuan Luan1∗, Duong Thanh Tinh
1College of Economics & Business Administration - TNU,
2College of Agriculture and Forestry - TNU
Manufacture of bricks is a potential in Pho Yen district, Thai Nguyen province. Besides its
contributions to the locality, such as creating jobs and increasing incomes for local people, the
development of this profession also revealed many shortcomings such as spontaneous
development, environmental pollution, waste of land resources; obsolete technology.
To develop this manufacture towards environmentally friendly directions, solutions proposed as
planning of raw materials and production areas; supports to change production technology.
Key words: environmental pollution, brick manufacture, Pho Yen, Thai Nguyen.
∗
Tel: 0985 946507, Email: doxuanluan@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_nghe_san_xuat_gach_nung_o_huyen_pho_yen_tinh_thai.pdf