Ngành nông nghiệp vẫn luôn giữ tỷ trọng lớn
trong GDP, năm 2009 chiếm 45,0% GDP,
ngành công nghiệp là cơ sở để tiến hành
CNH-HĐH lại chiếm tỷ lệ nhỏ, không phát
triển, chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí quan
trọng của mình trong quá trình CNH-HĐH.
Cơ cấu kinh tế còn nặng về nông, lâm nghiệp.
Do đó, cơ cấu kinh tế chưa tạo ra thế và lực
cho phát triển kinh tế. Vì thế, vấn đề đặt ra là
cần phải tiến hành chuyển dịch nhanh chóng
để tạo ra thế và lực cho phát triển lâu dài và
hội nhập có hiệu quả.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Bắc Kạn trong thời kỳ hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoàng Việt Anh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 153 - 157
153
PHÂN TÍCH SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP
TỈNH BẮC KẠN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Hoàng Việt Anh1, Phí Hùng Cường2*
1Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN, 2 Trường Đại học Khoa học - ĐHTN
TÓM TẮT
Ngành nông nghiệp luôn giữ tỷ trọng lớn trong GDP, năm 2009 chiếm 45,0% GDP. Hiện nay,
nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo của Bắc Kạn. Vì thế, vấn đề đặt ra là cần phải tiến hành
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng để tạo ra thế và lực
cho phát triển lâu dài và hội nhập có hiệu quả.
Qua phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của Bắc Kạn, có thể đánh giá hơn
10 năm kể từ sau khi tái lập tỉnh, cơ cấu ngành nông nghiệp Bắc Kạn đang từng bước có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực. Tuy nhiên Bắc Kạn đứng trước những khó khăn và thách thức. Diện
tích đất nông nghiệp quá ít, chỉ chiếm 7,8% diện tích đất tự nhiên gây khó khăn cho nền kinh tế
vốn dựa nhiều vào nông nghiệp. Diện tích đất trồng đồi trọc nhiều và nạn phá rừng còn xảy ra.
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, thiếu đồng bộ, trình độ lao động thấp, thị trường nhỏ bé, vốn đầu tư
ít so với cả nước. Bắc Kạn chưa thực sự tạo được môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài.
Từ khóa: Chuyển dịch, cơ cấu kinh tế, nguồn lực, nông nghiệp, phát triển.
∗
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng
Đông Bắc, nền kinh tế còn chậm phát triển,
cơ cấu kinh tế bất hợp lý. Diện tích đất tự
nhiên 486.841ha, trong đó chủ yếu là đất đồi
rừng có độ dốc cao, địa hình chia cắt phức
tạp, diện tích đất nông nghiệp chiếm 7,8%
diện tích đất tự nhiên, tỉ trọng nông nghiệp
chiếm 45,0% với trên 76,4% dân số sống
bằng nghề nông. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là một xu hướng tất yếu trong đó
việc chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông
nghiệp lại trở lên ngày càng cấp thiết.
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Vị trí địa lý
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, nằm sâu
trong nội địa vùng Đông Bắc Việt Nam, với
hệ toạ độ địa lý: từ 21048’22” đến 22044’17”
vĩ độ Bắc và từ 1050 25’08” đến 106014’47”
kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng,
phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Đông
giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây giáp tỉnh Tuyên
∗
Tel: 0915210558
Quang. Với vị trí địa lý như vậy, Bắc Kạn có
khả năng giao lưu với các tỉnh bạn, tạo điều
kiện hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển
kinh tế, trao đổi hàng hoá. Từ Trung Quốc
đến Bắc Kạn qua các cửa khẩu biên giới
thuộc hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, đây là
thị trường lớn gần Bắc Kạn. Như vậy, Bắc
Kạn có những điều kiện nhất định để phát
triển kinh tế mở với các vùng trong và ngoài
nước, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp
thành ngành sản xuất hàng hóa. Bắc Kạn còn
có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng,
đã là căn cứ địa cách mạng trong hai cuộc
kháng chiến của dân tộc.
Tài nguyên thiên nhiên
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi có địa hình cao
so với các tỉnh xung quanh. Với nguồn lực về
đất đai, sự phân hoá khí hậu theo đai cao, tạo
điều kiện cho tỉnh có nhiều sản phẩm nông -
lâm sản của một vùng có khí hậu mang tính
cận nhiệt đới và ôn đới. Các nguồn lực đó
cũng tạo điều kiện cho việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, sớm hình thành các vùng
nguyên liệu để chế biến thành những hàng
hoá đặc sản trên thị trường. Quỹ đất có thể
sử dụng vào mục đích nông - lâm nghiệp
còn tương đối nhiều. Đến năm 2009 vẫn còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Hoàng Việt Anh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 153 - 157
154
19,8% diện tích đất tự nhiên chưa sử dụng,
đất lâm nghiệp chiếm 68,4%. Đây là điều
kiện để Bắc Kạn mở rộng diện tích trồng cây
ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc,
xây dựng các khu công nghiệp, các nhà máy,
xí nghiệp góp phần chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nông
nghiệp nói riêng.
Bắc Kạn có nguồn tài nguyên rừng phong
phú, năm 2009 có 224.030 ha rừng tự nhiên
chiếm 83% diện tích đất lâm nghiệp, rừng
trồng là 44.135 ha, trong rừng có 826 loài
thực vật, 366 loài động vật. Tài nguyên sinh
vật đa dạng, phong phú có ý nghĩa to lớn về
kinh tế, du lịch và bảo tồn nguồn gen. Đây là
cơ sở để phát triển ngành công nghiệp chế
biến nông lâm sản. Nguồn tài nguyên du lịch
phong phú và đa dạng là cơ sở để hoà vào
mạng lưới du lịch vùng Bắc Bộ và Đông Bắc.
Nổi bật là hồ Ba Bể, ATK (an toàn khu) Chợ
Đồn, Phủ Thông, Đèo Giàng
Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân số năm 2009 là 295.296 người, số người
trong độ tuổi lao động chiếm 67,8%, nguồn
lao động trẻ, có sức khoẻ, cần cù và sáng tạo,
hiện nay đang được đào tạo để nâng cao tay
nghề và trình độ. Bên cạnh những lợi thế đó,
Bắc Kạn còn gặp nhiều khó khăn trong quá
trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Bắc Kạn là tỉnh có
dân số ít nhất cả nước, mật độ dân số thấp,
nhưng trên thực tế do địa hình chia cắt quá
lớn (>90% diện tích là đồi, núi, sông, suối),
nên bình quân diện tích đất canh tác và đất ở
rất cao, Bắc Kạn vẫn thiếu đất canh tác. Cơ sở
hạ tầng thấp kém, hội tụ các yếu tố không
thuận lợi cho phát triển kinh tế: không đường
biển, không đường thuỷ, không đường sắt,
không đường hàng không, không có cảng
biển, cách xa các trung tâm kinh tế. Hệ thống
đường bộ đang dần dần được nâng cấp.
Nguồn lực con người ở trình độ thấp. Để
thực hiện thành công mục tiêu CNH, HĐH
Bắc Kạn cần phải khắc phục được những
khó khăn đó.
Đến nay đã có 105/112 xã có đường ô tô đến
trung tâm xã. Hệ thống điện và mức độ điện
khí hoá tương đối phát triển, đủ khả năng
cung cấp điện cho sự phát triển kinh tế. Tuy
còn rất nhiều khó khăn nhưng sau hơn 10 năm
tách tỉnh đến nay Bắc Kạn đã đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, bình quân hàng năm đạt
9,8%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ,
giảm tỉ trọng nông nghiệp trong GDP, tạo đà
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế chung
Khi mới tái lập (1997), nền kinh tế Bắc Kạn ở
mức thấp và là một trong những tỉnh nghèo
nhất của cả nước. Vì vậy, việc nhanh chóng
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong từng
giai đoạn để đẩy tới một bước công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhằm làm giảm dần khoảng
cách chênh lệch với các vùng, nâng cao đời
sống của nhân dân, tạo sự công bằng trong xã
hội, giữ vững an ninh, quốc phòng và trật tự
an toàn xã hội được đặt ra như là một quan
điểm và mục tiêu phát triển của Bắc Kạn. Sau
12 năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, các cấp chính quyền của tỉnh; cùng
chung với xu thế phát triển của cả nước, Bắc
Kạn đang từng bước CDCCKT theo hướng
CNH, HĐH. GDP (tăng từ: 345,3 tỉ đồng năm
1997 lên 2.483 tỉ đồng năm 2009, tăng gấp
7,2 lần); Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng luôn
cao hơn cả nước (giai đoạn 1997 - 2000 đạt
7,84%, năm 2009: 14,45%, năm 2010:
13,04%); GDP/người (tăng từ 1,3 triệu
đồng/1 người năm 1997 lên 8,4 triệu
đồng/người năm 2009); Năng suất lao động
(tăng từ 2,7 triệu đồng/1 lao động lên 14,4
triệu đồng năm 2009); Cơ cấu lao động có
bước chuyển dịch theo hướng CNH (tỉ lệ lao
động nông nghiệp giảm từ 89,6% năm 1997
xuống 76,4% năm 2009, lao động công
nghiệp và dịch vụ có tăng lên); GTSX của các
ngành đều tăng lên (khu vực I: tăng gấp 5 lần,
khu vực II tăng gấp 20,8 lần); giá trị xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Hoàng Việt Anh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 153 - 157
155
nhập khẩu/GDP thấp; thu nhập bình quân đầu
người hộ gia đình thấp. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH nhưng
chậm, còn nặng về nông, lâm nghiệp. Năm
2009 cơ cấu kinh tế Bắc Kạn là Nông nghiệp
(45%) - Dịch vụ (35,4%) - Công nghiệp
(19,6%), tuy nhiên nội ngành đều có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, trong nông
nghiệp có sự chuyển dịch từ trồng trọt sang
chăn nuôi, trong công nghiệp công nghiệp chế
biến tăng lên cả về GTSX và tỉ lệ trong cơ cấu
ngành công nghiệp, trong ngành dịch vụ dù
không có sự tăng nhiều nhưng Bắc Kạn đã
xuất hiện các phân ngành dịch vụ của nền
kinh tế hiện đại.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
Tiềm năng phát triển nông, lâm, thuỷ sản của
tỉnh khá dồi dào. Diện tích đất rừng tự nhiên
chiếm 68,4% diện tích đất tự nhiên của tỉnh,
có thể khai thác nhiều sản phẩm từ rừng phục
vụ cho công nghiệp chế biến lâm sản. Diện
tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 7,8% diện tích
đất tự nhiên, nhưng chất lượng đất còn khá
tốt. Nhiều nơi tầng đất dày, đất đồi núi có
lượng mùn cao, đất bãi bồi thuận lợi cho
trồng cây lương thực, hoa màu. Bắc Kạn cũng
có tiềm năng phát triển một số loại cây công
nghiệp như chè tuyết, hồi, thông và một số
cây ăn quả nổi tiếng: lê, đào, hồng không hạt,
cam, quýt. Nông, lâm, thuỷ sản là ngành kinh
tế chính đóng góp 45,0% vào GDP năm 2009,
tập trung 76,4% lao động, đó thực sự là nền
tảng của công cuộc CNH-HĐH của tỉnh.
Trong xu thế chung của quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tỷ trọng của khu vực này trong
GDP cũng giảm xuống, từ 62,3% xuống còn
45,0% năm 2009 nhưng vẫn đạt tốc độ tăng
trưởng hàng năm trên 5%.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo nghĩa rộng là sự chuyển dịch cơ cấu của
cả 3 ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ
sản. Từ năm 1997 đến nay, nhìn chung cả 3
ngành đều có sự thay đổi về tỷ trọng giá trị
sản xuất nhưng không lớn, chậm và không ổn
định. Ngành nông nghiệp luôn có tỉ trọng lớn,
năm thấp nhất chiếm 78,3% (năm 2000) sau
đó lại tăng 84,8% (năm 2005) đến năm 2009
chiếm 86,2%. Tỷ trọng ngành lâm nghiệp có
xu hướng tăng, giảm không ổn định. Ngành
thuỷ sản chưa phát triển và tỉ trọng trong giá
trị sản xuất không đáng kể.
Trong giai đoạn 1997 - 2009, cơ cấu giá trị
sản xuất ngành trồng trọt không ổn định từ
64,8% năm 1997, tăng lên 69,2% năm 2000,
giảm còn 64% năm 2007, năm 2009 tăng lên
69,9%. Ngành chăn nuôi đã góp phần cho
nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực
(từ 30,4% năm 2000 lên 35,7% năm 2007).
Tuy nhiên đến năm 2009 lại giảm xuống chỉ
còn chiếm 29,6% trong cơ cấu ngành nông
nghiệp, Bắc Kạn đang từng bước phát triển
chăn nuôi cân đối dần với trồng trọt trong
khi vẫn phát triển nhanh ngành trồng trọt
theo hướng thâm canh, nhằm bảo đảm an
ninh lương thực, tạo khối lượng nguyên liệu,
hàng hoá phục vụ công nghiệp chế biến và
xuất khẩu.
Đánh giá về sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp Bắc Kạn giai đoạn 1997 - 2009
Qua phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 1997
- 2009, có thể đánh giá một cách khách quan
rằng: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp dù đang
chuyển dịch theo hướng tích cực, nhưng vẫn
lạc hậu, không hợp lý và ở trình độ thấp. Bên
cạnh những kết quả đạt được, còn có nhiều
hạn chế cần bàn bạc và giải quyết trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng CNH-HĐH.
Kể từ sau khi tái lập tỉnh, cơ cấu nền kinh tế
Bắc Kạn đang từng bước có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực. Trong cơ cấu ngành kinh
tế có sự tăng lên về giá trị sản xuất, tỷ trọng
của ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ
trọng của ngành nông, lâm nghiệp. Trong
ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: Các vùng
sản xuất hàng hoá tập trung đang được hình
thành, tích cực chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng trồng cây đặc sản,
cây công nghiệp có giá trị cao như: quýt,
hồng, chè Tuyết, Shan, cây nguyên liệu giấy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Hoàng Việt Anh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 153 - 157
156
hoa... trong chăn nuôi lai tạo các giống vật
nuôi có sản phẩm tốt.
Qua phân tích thực tế cho thấy thực trạng cơ
cấu kinh tế ở Bắc Kạn còn nhiều bất hợp lý,
quá trình chuyển dịch chậm chạp, ngành nông
nghiệp vẫn luôn luôn giữ tỷ trọng lớn trong
GDP. Năm 2009 chiếm 45,0% GDP, cơ cấu
kinh tế còn nặng về nông, lâm nghiệp. Do đó
cơ cấu kinh tế chưa tạo ra thế và lực cho phát
triển kinh tế. Qua phân tích cơ cấu kinh tế
Bắc Kạn dựa vào hệ thống các chỉ tiêu đánh
giá, cho thấy rằng tất cả các chỉ tiêu đều thấp
hơn so với mức chung của cả nước. Đây là
điều đáng lưu ý và phải tiến hành nghiên cứu
kỹ để có giải pháp khắc phục hữu hiệu. Đồng
thời, hệ thống các sản phẩm chủ lực chưa
hình thành rõ và chưa có sức mạnh. Lợi thế so
sánh của tỉnh chưa được phát huy tốt. Nhìn
chung, cơ cấu kinh tế còn quá lỗi thời, lạc
hậu, cần phải tiến hành chuyển dịch nhanh
chóng để tạo ra thế và lực cho phát triển lâu
dài và hội nhập có hiệu quả.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH NÔNG,
LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢN
* Mục tiêu: Tốc độ tăng trưởng ngành nông,
lâm, thuỷ sản giai đoạn 2011- 2015 đạt
8%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 đạt 7%/năm;
Tỉ trọng ngành nông, lâm, thuỷ sản trong cơ
cấu GDP năm 2015 chiếm 37%, năm 2020
đạt 29%; Tăng hệ số sử dụng đất trong năm,
nâng cao thu nhập trên 1 ha đất canh tác.
* Phương hướng thực hiện: Phát triển mạnh
kinh tế nông, lâm, thuỷ sản trên cơ sở xây
dựng vùng nguyên liệu chuyên canh và đổi
mới công nghệ chế biến sản xuất ra các mặt
hàng nông, lâm, thuỷ sản chủ lực có sức cạnh
tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu nội
bộ ngành nông, lâm, thuỷ sản; Chuyển đổi
thời vụ và cơ cấu cây trồng, vật nuôi; Chuyển
đổi cơ cấu sử dụng đất; Chuyển đổi tập quán
canh tác, mô hình sản xuất; Chuyển đổi thành
phần kinh tế; Chuyển đổi cơ cấu lao động.
a. Ngành nông nghiệp
Chuyển đổi mạnh cơ cấu giữa trồng trọt, chăn
nuôi và dịch vụ theo hướng nâng cao giá trị,
tích cực ứng dụng công nghệ thích hợp nhằm
tạo ra giá trị hàng hoá lớn trên một đơn vị
diện tích, nâng cao năng suất lao động và đảm
bảo phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Trong cơ cấu nội ngành nông nghiệp tăng
mạnh giá trị chăn nuôi lên 60%, giá trị trồng
trọt 39% và giá trị dịch vụ nông nghiệp 1%
vào năm 2020.
b. Ngành lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một trong những thế mạnh của
tỉnh Bắc Kạn, vì vậy định hướng ngành lâm
nghiệp phải trở thành ngành sản xuất hàng
hoá lớn, là ngành chủ lực tạo ra của cải vật
chất đóng góp đáng kể vào cơ cấu GDP của
tỉnh. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của
ngành lâm nghiệp trên 8%/năm, nâng độ che
phủ rừng lên 62% vào năm 2015 và 65% vào
năm 2020. Tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh
tế lâm nghiệp, chuyển dịch mạnh sang phát
triển rừng sản xuất để chế biến ra các sản
phẩm chủ lực như đồ gia dụng, ván nhân tạo,
giấy các loại, chiếu trúc và đặc sản rừng; đẩy
mạnh hơn nữa hoạt động dịch vụ lâm nghiệp.
Từ đó nâng cao giá trị đóng góp của ngành
lâm nghiệp lên trên 5% trong tổng GDP vào
năm 2020. Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp sẽ
có sự chuyển dịch theo hướng: xây dựng rừng
chiếm 20%; khai thác - chế biến lâm nghiệp
chiếm trên 70% và dịch vụ lâm nghiệp đạt
khoảng 10% vào năm 2020. Chuyển đổi cơ
cấu xây dựng lâm phận, bảo đảm cân đối giữa
diện tích, chất lượng của rừng kinh tế (trên
50%) và rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (gần
50%) với chất lượng tốt. Bảo đảm yêu cầu
phòng hộ, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học,
bảo đảm duy trì sự cân bằng ổn định về môi
trường đất, môi trường nước và khí hậu,
phòng, chống thiên tai... kết hợp với phát triển
lâm sản ngoài gỗ để có nguồn thu từ rừng,
đồng thời gắn với du lịch sinh thái và có thể
tạo nguồn thu phí từ dịch vụ về môi trường.
c. Ngành thuỷ sản
Là tỉnh miền núi nhưng có tiềm năng về thuỷ
sản vì có khoảng 2.205 ha diện tích mặt nước
có thể nuôi trồng thuỷ sản (trong đó ao là
1.200 ha, đầm hồ 205 ha, ruộng 800 ha), nên
Bắc Kạn phấn đấu sử dụng hết diện tích mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Hoàng Việt Anh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 153 - 157
157
nước trên để phát triển sản xuất trong thời
gian quy hoạch. Phát triển mô hình nuôi trồng
thuỷ sản công nghiệp ở các hồ như hồ thuỷ
lợi, và một số hồ khác... và đặc biệt phát triển
nuôi cá hồi ở những nơi có đầy đủ điều kiện
nhằm mang lại hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Qua phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp của tỉnh, có thể đánh giá qua hơn
10 năm kể từ sau khi tái lập tỉnh, cơ cấu nền
kinh tế Bắc Kạn đang từng bước có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực. Trong ngành nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản: Các vùng sản xuất hàng
hoá tập trung đang được hình thành, tích cực
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo
hướng trồng cây đặc sản, cây công nghiệp có
giá trị cao như: Quýt, hồng, chè Tuyết, Shan,
cây nguyên liệu giấy, hoa... trong chăn nuôi
lai tạo các giống vật nuôi có sản phẩm tốt.
Ngành công nghiệp chế biến nông - lâm sản
đang phát triển tạo ra nguồn sản phẩm phong
phú hơn, chất lượng tốt hơn, sản phẩm có
khả năng cạnh tranh và tìm được chỗ đứng
trên thị trường.
Tuy nhiên Bắc Kạn đứng trước những khó
khăn và thách thức. Đó là: Diện tích đất nông
nghiệp quá ít, chỉ chiếm 7% diện tích đất tự
nhiên gây khó khăn cho nền kinh tế vốn dựa
nhiều vào nông nghiệp. Diện tích đất trồng
đồi trọc còn nhiều và nạn phá rừng còn xảy
ra. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, thiếu đồng bộ,
trình độ lao động thấp, thị trường nhỏ bé, vốn
đầu tư ít so với cả nước. Bắc Kạn chưa thực
sự tạo được môi trường đầu tư thuận lợi để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ngành nông nghiệp vẫn luôn giữ tỷ trọng lớn
trong GDP, năm 2009 chiếm 45,0% GDP,
ngành công nghiệp là cơ sở để tiến hành
CNH-HĐH lại chiếm tỷ lệ nhỏ, không phát
triển, chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí quan
trọng của mình trong quá trình CNH-HĐH.
Cơ cấu kinh tế còn nặng về nông, lâm nghiệp.
Do đó, cơ cấu kinh tế chưa tạo ra thế và lực
cho phát triển kinh tế. Vì thế, vấn đề đặt ra là
cần phải tiến hành chuyển dịch nhanh chóng
để tạo ra thế và lực cho phát triển lâu dài và
hội nhập có hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn từ năm
1997 đến năm 2009, Nxb Thống kê. Hà Nội.
[2]. UBND thị xã Bắc Kạn, Báo cáo đánh giá kết
quả giữa kỳ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, kế hoạch 5 năm 2006-2010.
[3]. UBND tỉnh Bắc Kạn (8/1998), Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn
đến năm 2010.
[4]. UBND tỉnh Bắc Kạn (10/2010), Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn
đến năm 2020.
[5]. UBND tỉnh Bắc Kạn (2001), Chiến lược bảo
vệ môi trường tỉnh Bắc Kạn đến 2010, Đề tài khoa
học công nghệ cấp tỉnh, Bắc Kạn.
[6]. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ X,
(2010), Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn.
SUMMARY
AGRICULTURAL RESTRUCTURING ANALYSIS OF BACKAN PROVINCE
IN THE PERIOD OF ECONOMIC INTEGRATION
Hoang Viet Anh1, Phi Hung Cuong2∗
1 College of Education - TNU, 2 College of Sciences - TNU
According to the analysis results of reality of agricultural restructuring in BacKanprovince, after
about 10 years of re-establishment, the economic structure has positive orientation. However, there
are still some of the disadvantages which cause the difficulties for economic development and
attraction of foreign investmentsuch as the lack of agricultural land, there are a large area of vacant
land and barren hills, weak infrastructure, small market, low investment compare to the whole
nation. The agriculture always have great proportion in GDP, 45.0%, 2009 those suggested that
BacKan should rapidly restructuring in order to make the strength and capacity for long
development and effective integration.
Key words: restructure, economic structure, human resources, agriculture, development.
∗
Tel:0915210558
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_su_chuyen_dich_co_cau_nong_nghiep_tinh_bac_kan_tro.pdf