Ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn Trichogaster pectoralis Regan, 1910 ương trong bể từ cá bột lên cá hương tại Kiên Giang

1. Kết luận - Các yếu tố môi trường trong quá trình ương cá sặc rằn trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương (nhiệt độ: 24 - 300C, pH: 7,5 - 8, DO: 4mg/lít, NH 3: 0 - 0,5 mg/lít). - Mật độ ương cá sặc rằn trong bể composite (50 L chứa 40 L nước) từ giai đoạn cá bột lên cá hương thích hợp nhất là 500 con/40 lít. - Loại thức ăn để ương cá sặc rằn trong bể composite (50 L chứa 40 L nước) từ giai đoạn cá bột lên cá hương thích hợp nhất là lòng đỏ trứng gà và thức ăn công nghiệp NANOLIS (40% độ đạm). 2. Kiến nghị - Cần nghiên cứu sâu hơn về sự chuyển đổi tính ăn của cá sặc rằn ở các giai đoạn khác nhau. - Tiến hành thí nghiệm với nhiều loại thức ăn để có đánh giá chính xác về loại thức ăn tốt nhất cho cá trong giai đoạn ương từ cá bột lên cá hương.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn Trichogaster pectoralis Regan, 1910 ương trong bể từ cá bột lên cá hương tại Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ VÀ THỨC ĂN LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CÁ SẶC RẰN Trichogaster pectoralis Regan, 1910 ƯƠNG TRONG BỂ TỪ CÁ BỘT LÊN CÁ HƯƠNG TẠI KIÊN GIANG EFFECTS OF THE DIFFERENT STOCKING DENSITIES AND DIETS ON GROWTH AND SURVIVAL RATES OF SNAKESKIN GOURAMI Trichogaster pectoralis Regan, 1910 CULTURED IN THE TANK FROM SMALL YOUNG FISH FOR BREEDING TO EPERLAN STAGE IN KIEN GIANG PROVINCE Trần Văn Phước1, Trương Minh Chuẩn2, Nguyễn Thúy Hằng3 Ngày nhận bài: 23/01/2013; Ngày phản biện thông qua: 12/4/2013; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013 TÓM TẮT Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá sặc rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910) từ giai đoạn cá bột lên cá hương được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản - Phân hiệu Kiên Giang - Trường Đại học Nha Trang. Mục đích nghiên cứu là xác định mật độ và loại thức ăn thích hợp nhất cho ương cá sặc rằn từ giai đoạn cá bột lên cá hương. Hai thí nghiệm được tiến hành: (1) Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương và (2) Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương. Thí nghiệm 1 được bố trí trong bể gồm 3 nghiệm thức mật độ: 400 con/40lít, 500 con/40lít và 600 con/40lít với 3 lần lặp lại. Thí nghiệm 2 được bố trí trong bể gồm 3 nghiệm thức thức ăn: lòng đỏ trứng gà, thức ăn công nghiệp + cám gạo; lòng đỏ trứng gà + thức ăn công nghiệp; lòng đỏ trứng gà + cám gạo với 3 lần lặp lại. Kết quả thí nghiệm 1 (sau 45 ngày ương), cá ương có tốc độ tăng trưởng (0,73 ± 0,496 mm/ngày) và tỷ lệ sống (17,87 ± 6,03 %) cao nhất ở nghiệm thức 2 (mật độ 500 con/40lít). Đối với thí nghiệm 2 (sau 28 ngày ương), cá ương có tốc độ tăng trưởng (0,63 ± 0,146 mm/ngày) và tỷ lệ sống (17,13 ± 2,72 %) cao nhất ở nghiệm thức 2 (thức ăn: lòng đỏ trứng gà + công nghiệp NANOLIS). Từ khóa: Cá sặc rằn Trichogaster pectoralis, mật độ, thức ăn, sinh trưởng và tỷ lệ sống ABSTRACT This study were conducted at research centre for aquaculture practice of Kien Giang campus - Nha Trang University. This study aims were determine appropriate stocking densities and diets for the culture of snakeskin gourami from small young fi sh for breeding to eperlan stage. Two experiments were conducted, such as (1) effects of the different stocking densities on growth and survival rates of snakeskin gourami cultured in the tank and (2) effects of the different diets on growth and survival rates of snakeskin gourami cultured in the tank. In the experiment 1, 3 treatments with stocking density of 400, 500 and 600 individuals/40 litres was used 3 replications. In the experiment 2, 3 treatments with diets of yolk of chicken egg, industrial feed (NANOLIS – 40% crude protein content) and bran; yolk of chicken egg and industrial feed (NANOLIS – 40% crude protein content); and yolk of chicken egg and bran was used 3 replications. After 45 days of culture, the experiment 1 showed that stocking density of 500 individuals/40 litres gave the best results in growth (0,73 ± 0,496 mm/day, respectively) and survival rates (17,87 ± 6,03 %, respectively). After 28 days of culture, the experiment 2 showed that diet of yolk of chicken egg and industrial feed (NANOLIS – 40% crude protein content) gave the best results in growth (0,63 ± 0,146 mm/day, respectively) and survival rats (17,13 ± 2,72 %, respectively). Keywords: Snakeskin gourami, stocking densities, feed, growth and survival rates 1 ThS. Trần Văn Phước: Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 2 TS. Trương Minh Chuẩn: Trường Đại học Nha Trang - Phân hiệu Kiên Giang 3 KS. Nguyễn Thúy Hằng: Cựu Sinh viên K50, Trường Đại học Nha Trang - Phân hiệu Kiên Giang Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước nói chung và của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Trong đó cá Sặc rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910) là một trong những đối tượng cá nước ngọt có giá trị kinh tế và một trong những đối tượng nuôi truyền thống mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cá sặc rằn là loài cá có kích thước nhỏ (100 - 200g/con) nhưng khả năng khôi phục quần đàn nhanh, sức sinh sản lớn (100.000 - 230.000 trứng/kg cá cái). Cá sặc rằn dễ nuôi có khả năng chịu đựng tốt với điều kiện môi trường bất lợi như pH thấp, nhiệt độ cao, độ trong thấp, hàm lượng oxy hòa tan thấp. Cá sặc rằn sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau như sinh vật nổi, mùn bã hữu cơ. Chính nhờ những ưu điểm này mà cá sặc rằn đang là đối tượng được nhiều người dân rất quan tâm phát triển nghề nuôi hiện nay [1]. Tuy nhiên ở nước ta trong những năm gần đây sản lượng cá sặc rằn ngoài tự nhiên đã giảm sút nghiêm trọng và chất lượng cá khai thác thấp. Một số vùng đã không còn thấy sự xuất hiện của chúng. Sản xuất giống nhân tạo cá sặc rằn nhằm cung cấp giống cho người nuôi trong những năm gần đây hiệu quả thấp do tình trạng thiếu giống, chưa tìm được mật độ ương và thức ăn thích hợp trong ương giống cá sặc rằn theo từng địa phương khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ cá bột lên cá hương là vấn đề cấp thiết. Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần khắc phục những khó khăn và tồn tại trên, đồng thời hoàn thiện quy trình ương giống cá sặc rằn nói chung và xây dựng quy trình ương giống theo địa phương nói riêng. II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu 1.1. Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản - Phân hiệu Kiên Giang - Trường Đại học Nha Trang. TT. Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. 1.2. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 05/2012 đến tháng 07/2012. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Cá sặc rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910) ương từ giai đoạn cá bột lên cá hương. Cá sặc rằn bột được sinh sản nhân tạo tại Trung tâm. 2. Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương (2 - 3cm). 3. Vật liệu, thiết bị và dụng cụ nghiên cứu - Cá bột sau khi nở 3 - 4 ngày (dinh dưỡng hết noãn hoàng) được đưa vào bể tiếp tục ương lên cá hương (2 - 3cm). - Nguồn nước: nước giếng khoan, nước mưa và nguồn nước có sẵn trong ao. - Thức ăn: lòng đỏ trứng gà, thức ăn công nghiệp NANOLIS (40% độ đạm), bột cá và cám gạo. - Bể composite 50L (chứa 40L nước): 9 bể; xô, chậu; vợt, lưới. - Ống pipet, đĩa batri, cốc định lượng. - Cân đồng hồ (1g), giấy kẻ ô ly (mm), thước thẳng chia vạch (mm). - Bộ test nhanh DO, test NH3, test pH và nhiệt kế. 4. Bố trí thí nghiệm 4.1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương Cá sặc rằn bột được bố trí vào các bể composite đặt trong nhà. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 mật độ ương khác nhau tương ứng với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thời gian ương là 45 ngày. Các nghiệm thức gồm: nghiệm thức 1 (NT1) mật độ là 400 con/40 lít; nghiệm thức 2 (NT2) mật độ là 500 con/40 lít và nghiệm thức 3 (NT3) mật độ là 600 con/40 lít. Chăm sóc và quản lý: Cá được cho ăn tối đa theo nhu cầu (7 - 10% khối lượng thân). Cá được cho ăn mỗi ngày 2 lần (sáng và chiều). 7 ngày đầu sử dụng thức ăn là lòng đỏ trứng gà chà nhuyễn pha loãng với nước cho vào các bể cả 3 nghiệm thức. Từ ngày thứ 5 đến kết thúc thí nghiệm sử dụng thức ăn là cám gạo và bột cá với tỷ lệ phối trộn là 1: 1 pha loãng với nước cho vào các bể. Theo dõi các hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá, thức ăn thừa được siphon sau mỗi lần cho ăn và cấp thêm nước bằng lượng nước ban đầu. Định kỳ kiểm tra các yếu tố môi trường 1 lần/tuần và sinh trưởng của cá ương 1 lần/2 tuần (kiểm tra tối thiểu 30 cá thể/ nghiệm thức). Các dữ liệu cần thu như sinh trưởng, tỷ lệ sống (kết thúc thí nghiệm) và môi trường. 4.2 Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương Cá sặc rằn bột được bố trí vào các bể composite đặt trong nhà. Mật độ ương sử dụng kết quả nghiên cứu từ thí nghiệm 1. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 loại thức ăn khác Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG nhau tương ứng với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thời gian ương là 28 ngày. Các nghiệm thức gồm: nghiệm thức 1 (NT1): lòng đỏ trứng gà (cho cá ăn 7 ngày đầu), thức ăn công nghiệp NANOLIS (40% độ đạm) và cám gạo - tỷ lệ phối trộn là 1 : 1; nghiệm thức 2 (NT2): lòng đỏ trứng gà (cho cá ăn 7 ngày đầu) và thức ăn công nghiệp NANOLIS (40% độ đạm) và nghiệm thức 3 (NT3): lòng đỏ trứng gà (cho cá ăn 7 ngày đầu) và cám gạo. Chăm sóc và quản lý: Cá được cho ăn tối đa theo nhu cầu (7 - 10% khối lượng thân). Cá được cho ăn mỗi ngày 2 lần (sáng và chiều). 7 ngày đầu sử dụng thức ăn là lòng đỏ trứng gà chà nhuyễn pha loãng với nước cho vào các bể cả 3 nghiệm thức. Từ ngày thứ 5 đến kết thúc thí nghiệm sử dụng thức ăn còn lại của các nghiệm thức pha loãng với nước cho vào các bể. Theo dõi các hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá, thức ăn thừa được siphon sau mỗi lần cho ăn và cấp thêm nước bằng lượng nước ban đầu. Định kỳ kiểm tra các yếu tố môi trường 1 lần/tuần và sinh trưởng của cá ương 1 lần/tuần (kiểm tra tối thiểu 30 cá thể/nghiệm thức). Các dữ liệu cần thu như sinh trưởng, tỷ lệ sống (kết thúc thí nghiệm) và môi trường. 5. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học trên phần mềm Microsoft Offi ce Excel 2003 và SPSS, phân tích phương sai một yếu tố (One way- ANOVA) được dùng để kiểm tra ảnh hưởng của mật độ ương, loại thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá và các phép tính thông dụng khác. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Các yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường nước trong các bể thí nghiệm được theo dõi và trình bày ở bảng 1 và 2 Bảng 1. Các yếu tố môi trường nước trong các bể thí nghiệm 1 Nhiệt độ ( oC) DO (mg/lít) pH NH3 (mg/lít) Sáng (6h) Chiều (14h) 26 - 28 26,93 ± 0,65 27 - 30 29,02 ± 0,92 4,0 7,5 - 8,0 0 - 0,5 0,06 ± 0,17 Bảng 2. Các yếu tố môi trường nước trong các bể thí nghiệm 2 24 - 28 27,04 ± 0,96 25 - 30 29,00 ± 1,12 4,0 7,5 – 8,0 0 – 0,5 Nhiệt độ nước trung bình trong các bể thí nghiệm ở thí nghiệm 1, 2 vào buổi sáng và buổi chiều lần lượt là 26,93 ± 0,650C; 27,04 ± 0,960C và 29,02 ± 0,920C; 29,00 ± 1,120C. Qua các đợt kiểm tra nhiệt độ trong các bể thí nghiệm không có sự biến động lớn. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), nhiệt độ thích hợp cho cá sặc rằn phát triển và sinh trưởng là từ 24 - 300C nhưng cá có thể chịu đựng được khoảng nhiệt độ: 11 - 390C. Tương tự theo Nguyễn Mạnh Hà (2003) và Nguyễn Thị Hòa (2006), nhiệt độ thích hợp cho cá sặc rằn sinh trưởng là từ 25 - 300C. Như vậy, nhiệt độ dao động ở cả hai thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp để ương cá sặc rằn. pH không có sự biến động lớn giữa các nghiệm thức của hai thí nghiệm và dao động 7,5 - 8,0. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), cá sặc rằn cũng có khả năng chịu đựng điều kiện môi trường nước bẩn, hàm lượng chất hữu cơ cao cũng như pH thấp (4,0 - 4,5). pH thích hợp cho sự phát triển của cá từ 6,5 - 8,0. Tương tự theo Nguyễn Thị Hòa (2006), pH trong ao ương cá sặc rằn thích hợp là > 6,0. Điều này cho thấy môi trường ương trong hai thí nghiệm phù hợp cho sự phát triển của cá. Trong quá trình ương hàm lượng oxy hòa tan trong các bể thí nghiệm là 4,0 mg/lít. Theo Vũ Ngọc Út và Trương Quốc Phú (2006) cho rằng hàm lượng oxy hòa tan dao động trong khoảng từ 2 - 5 mg/lít là nằm trong giới hạn trung bình, hàm lượng oxy hòa tan lớn hơn là 5 mg/l tốt cho sự phát triển của cá, như vậy cho thấy DO trong các bể thí nghiệm thích hợp cho ương nuôi cá sặc rằn. Hàm lượng NH3 trong các bể ương biến động tương đối thấp. Qua các lần kiểm tra hàm lượng NH3 nằm trong khoảng thích hợp, dao động 0 - 0,5 mg/lít. Từ kết quả phân tích trên cho thấy, các yếu tố môi trường trong các bể ương cá sặc rằn từ giai đoạn cá bột lên cá hương đều nằm trong khoảng thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17 Ở ngày thứ 14 và ngày thứ 28, chiều dài trung bình của cá giữa các nghiệm thức có sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Đến ngày thứ 42, chiều dài trung bình của cá ở NT2 (17,95mm) và NT3 (15,90mm) có sự sai khác nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05), tuy nhiên so với NT1 (11,63mm) thì chiều dài trung bình của cá ở hai nghiệm thức này lớn hơn, sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05). Đến giai đoạn này, chúng ta thấy mật độ ương đã ảnh hưởng lên sự tăng trưởng về chiều dài của cá sặc rằn (bảng 3). Tương tự, đến ngày ương thứ 45, chiều dài trung bình của cá sặc rằn ở các nghiệm thức có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05): NT2 cao nhất (20,15mm) và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. 2.1.2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài cá sặc rằn 2. Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương (2 - 3cm) 2.1. Ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng cá sặc rằn 2.1.1. Tăng trưởng chiều dài của cá sặc rằn Bảng 3. Chiều dài trung bình (mm) của cá giữa các nghiệm thức Nghiệm thức Ngày đầu 14 ngày 28 ngày 42 ngày 45 ngày NT1 3,66 ± 0,05a 6,12 ± 0,08a 8,12 ± 0,30a 11,63 ± 1,59a 12,77 ± 1,65a NT2 3,66 ± 0,05a 6,37 ± 0,20a 8,44 ± 0,98a 17,95 ± 0,61b 20,15 ± 1,38c NT3 3,66 ± 0,05a 6,30 ± 0,23a 8,91 ± 0,92a 15,90 ± 1,00b 17,13 ± 1,00b Số liệu được trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng cột có chữ cái giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) Bảng 4. Tốc độ tăng trưởng chiều dài (mm/ngày) của cá giữa các nghiệm thức Nghiệm thức 14 ngày 28 ngày 42 ngày 45 ngày NT1 0,17 ± 0,006a 0,15 ± 0,025a 0,25 ± 0,095a 0,38 ± 0,017a NT2 0,20 ± 0,006a 0,19 ± 0,015a 0,61 ± 0,101b 0,73 ± 0,496b NT3 0,19 ± 0,020a 0,19 ± 0,080a 0,50 ± 0,040b 0,41 ± 0,106a Số liệu được trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng cột có chữ cái giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) Ở ngày thứ 14 và 28 có sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Đến ngày thứ 42, NT2 có tốc độ tăng trưởng cao nhất (0,61 mm/ngày) và khác biệt có ý nghĩa so với NT1 (p<0,05). Đến ngày thứ 45, NT2 có tốc độ tăng trưởng cao nhất (0,73 mm/ngày) và khác biệt có ý nghĩa so với 2 nghiệm thức NT1 (0,38 mm/ngày) và NT3 (0,41 mm/ngày) (p<0,05). 2.2. Ảnh hưởng của mật độ ương lên tỷ lệ sống cá sặc rằn Tỷ lệ sống của cá ương ở nghiệm thức NT2 (17,87 ± 6,03%) cao nhất và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với 2 nghiệm thức NT1 (6,33 ± 2,70 %) và NT3 (7,77 ± 0,84%) (p<0,05). Tỷ lệ sống ở 2 nghiệm thức NT3 và NT1 thấp hơn và sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Mật độ ương cá sặc rằn (400 con/40 lít, 500 con/40 lít và 600 con/40 lít) trong bể từ giai đoạn cá hương lên cá bột đã ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ương. Kết quả ương cho thấy, cá ương có tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức 2 (mật độ ương 500 con/40 lít). Theo Nguyễn Thị Hòa (2006), cá sặc rằn ương trong ao từ giai đoạn cá bột thì mật độ ương thích hợp là 400 - 500 con/m2. Tương tự theo Trung tâm Giống Nông Lâm Ngư nghiệp tỉnh Kiên Giang (2011), cá sặc rằn ương trong ao từ giai đoạn cá bột thì mật độ ương thích hợp là 400 - 600 con/m2. Như vậy có thể khẳng định: ương cá sặc rằn từ giai đoạn cá bột trong bể thì mật độ sẽ lớn hơn nhiều so với ương trong ao. Hình 1. Tỷ lệ sống của cá ương Kí hiệu chữ cái trên các cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Sau 14 ngày ương, chiều dài trung bình của cá ương ở nghiệm thức NT2 (6,30 ± 0,11 mm) lớn nhất và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với 2 nghiệm thức NT1 (6,11 ± 0,10 mm) và NT3 (5,99 ± 0,07 mm) (p<0,05). Sự khác biệt giữa NT1 và NT3 không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Đến ngày ương thứ 28, chiều dài trung bình của cá ương ở nghiệm thức NT2 (12,02 ± 1,08 mm) vẫn lớn nhất và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức NT3 (p<0,05) nhưng khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức NT1 (p>0,05). 3. Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá sặc rằn ương trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương 3.1. Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng cá sặc rằn 3.1.1. Tăng trưởng chiều dài cá sặc rằn Bảng 5. Chiều dài trung bình (mm) của cá giữa các nghiệm thức Nghiệm thức Bắt đầu 7 ngày 14 ngày 21 ngày 28 ngày NT1 3,77 ± 0,02a 4,93 ± 0,08b 6,11 ± 0,10a 7,37 ± 0,12a 11,02 ± 0,96ab NT2 3,77 ± 0,02a 4,98 ± 0,11b 6,30 ± 0,11b 7,60 ± 0,55a 12,02 ± 1,08b NT3 3,77 ± 0,02a 4,64 ± 0,03a 5,99 ± 0,07a 7,07 ± 0,18a 9,62 ± 0,48a Số liệu được trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng cột có chữ cái giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) 3.1.2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài cá sặc rằn Bảng 6. Tốc độ tăng trưởng chiều dài (mm/ngày) của cá giữa các nghiệm thức Nghiệm thức 7 ngày 14 ngày 21 ngày 28 ngày NT1 0,16 ± 0,015b 0,17 ± 0,015a 0,18 ± 0,000a 0,52 ± 0,123ab NT2 0,17 ± 0,015b 0,17 ± 0,035a 0,19 ± 0,080a 0,63 ± 0,146b NT3 0,12 ± 0,006a 0,17 ± 0,006a 0,18 ± 0,032a 0,36 ± 0,069a Số liệu được trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng cột có chữ cái giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) Sau 28 ngày ương, tốc độ tăng trưởng của cá ở nghiệm thức NT2 lớn nhất (0,63 mm/ngày) và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức NT3 (0,36 mm/ngày) (p<0,05) nhưng khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê so với nghiệm thức NT1 (0,52 mm/ngày) (p>0,05). 3.2. Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ sống cá sặc rằn (7,73 ± 4,32 %) và NT3 (6,67 ± 3,25 %) (p<0,05). Tỷ lệ sống của cá ương ở 2 nghiệm thức NT1 và NT3 sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Các loại thức ăn khác nhau (thức ăn công nghiệp + cám gạo; thức ăn công nghiệp NANOLIS - 40% độ đạm; thức ăn là cám gạo) để ương cá sặc rằn trong bể từ giai đoạn cá hương lên cá bột đã ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ương. Kết quả ương cho thấy, cá ương có tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức 2 (thức ăn công nghiệp NANOLIS - 40% độ đạm). Theo Nguyễn Thị Hòa (2006), thức ăn cho ương cá sặc rằn từ giai đoạn cá bột trong ao là lòng đỏ trứng gà luộc kết hợp bột đậu nành (tuần ương thứ nhất), cám mịn kết hợp bột cá (từ tuần ương thứ hai). Tương tự theo Trung tâm Giống Nông - Lâm - Ngư nghiệp tỉnh Kiên Giang (2011), thức ăn cho ương cá sặc rằn từ giai đoạn cá bột trong ao là lòng đỏ trứng kết hợp bột đậu nành (10 ngày ương đầu tiên), bột đậu nành + cám gạo + bột cá (từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20), cám gạo mịn kết hợp bột cá (từ ngày thứ 21 về sau). Hình 2. Tỷ lệ sống của cá ương Kí hiệu chữ cái trên các cột giống nhau thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05) Tỷ lệ sống của cá ương ở nghiệm thức NT2 (17,13 ± 2,72 %) cao nhất và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê so với 2 nghiệm thức NT1 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 19 IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận - Các yếu tố môi trường trong quá trình ương cá sặc rằn trong bể từ giai đoạn cá bột lên cá hương (nhiệt độ: 24 - 300C, pH: 7,5 - 8, DO: 4mg/lít, NH3: 0 - 0,5 mg/lít). - Mật độ ương cá sặc rằn trong bể composite (50 L chứa 40 L nước) từ giai đoạn cá bột lên cá hương thích hợp nhất là 500 con/40 lít. - Loại thức ăn để ương cá sặc rằn trong bể composite (50 L chứa 40 L nước) từ giai đoạn cá bột lên cá hương thích hợp nhất là lòng đỏ trứng gà và thức ăn công nghiệp NANOLIS (40% độ đạm). 2. Kiến nghị - Cần nghiên cứu sâu hơn về sự chuyển đổi tính ăn của cá sặc rằn ở các giai đoạn khác nhau. - Tiến hành thí nghiệm với nhiều loại thức ăn để có đánh giá chính xác về loại thức ăn tốt nhất cho cá trong giai đoạn ương từ cá bột lên cá hương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc gia), 2009. Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn Trichogaster pectoralis (Regan, 1910). NXB Nông nghiệp Hà Nội. 2. Nguyễn Mạnh Hà, 2003. Đặc điểm sinh thái sinh học cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis). Bản tin Nông nghiệp và Nông thôn Vĩnh Long, Số 25, tháng 10/2003. 3. Nguyễn Thị Hòa, 2006. Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Nông vận. Trung ương Hội Nông dân VN. 4. Nguyễn Văn Kiểm, 2005. Giáo trình kỹ thuật sản xuất cá giống. Trường Đại học Cần Thơ. 5. Trung tâm Giống Nông - Lâm - Ngư nghiệp tỉnh Kiên Giang, 2011. Quy trình kỹ thuật sản xuất giống cá sặc rằn. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang. 6. Vũ Ngọc Út và Trương Quốc Phú, 2006. Giáo trình quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_va_thuc_an_len_sinh_truong_va_ty_le_son.pdf
Tài liệu liên quan