Trong giới hạn của bài báo này, nghiên
cứu còn một số hạn chế cần tiếp tục được giải
quyết ở các nghiên cứu sau. Thứ nhất, nghiên
cứu sử dụng mô hình DEA nên kết quả ước
lượng chỉ số hiệu quả vẫn chưa tách được sai
số ngẫu nhiên. Các nghiên cứu kế tiếp có thể
áp dụng kỹ thuật bootstrap đã được phát triển
rất mạnh trong phần mềm R để giải quyết vấn
đề này. Thứ hai, nghiên cứu sử dụng thước
đo hiệu quả hướng tâm của Farrel (1957) nên
kết quả là các đầu vào có khả năng cắt giảm
(mà đầu ra không đổi) cùng một tỉ lệ. Để tránh
vấn đề “không dễ cắt giảm các đầu vào cố
định” nghiên cứu này đã quy đổi các đầu vào
biến đổi của sản xuất về cho 1 ha mặt nước
sử dụng trong mô hình phân tích. Các nghiên
cứu kế tiếp có thể sử dụng các thước đo và
mô hình ước lượng hiệu quả tốt hơn, ví dụ mô
hình hàm khảng cách [8]. Thứ ba, phát thải
ô nhiễm môi trường, còn được gọi là đầu ra
không mong muốn, đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của nghề nuôi tôm cần được
nội sinh hóa vào quá trình đánh giá hiệu quả
sản xuất.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh của tỉnh Ninh Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 37
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO CHO NGHỀ
NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG THÂM CANH CỦA TỈNH NINH THUẬN
EFFICIENCY ANALYSIS OF INPUT UTILIZATION FOR INTENSIVE WHITE-LEG
SHRIMP AQUACULTURE IN NINH THUAN PROVINCE
Lê Kim Long1, Lê Văn Tháp1
Ngày nhận bài: 08/4/2016; Ngày phản biện thông qua: 20/8/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017
TÓM TẲT
Nghiên cứu phân tích hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào (còn gọi là hiệu quả kỹ thuật theo định hướng
đầu vào) cho các nông hộ nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh tại tỉnh Ninh Thuận trong năm 2014 bằng phương
pháp DEA. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bình quân, các yếu tố đầu vào biến đổi của sản xuất có thể giảm
xuống 20,7% trong khi vẫn duy trì được đầu ra không đổi. Do vậy, không thả giống quá dày và kiểm soát chặt
chẽ việc sử dụng thức ăn đóng vai trò rất quan trọng đối với nghề nuôi tôm Ninh Thuận. Hơn nữa, việc mở rộng
diện tích nuôi và rút ngắn thời gian nuôi trong năm có ảnh hưởng tích cực, quan trọng, đến việc nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực đầu vào. Cuối cùng, chất lượng của các chương trình tập huấn kỹ thuật của các cơ
quan khuyến nông cũng như các chính sách hỗ trợ vay vốn cho nghề nuôi cần được xem xét lại một cách cẩn
trọng để hướng đến một nghề nuôi tôm bền vững cho Ninh Thuận.
Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, tôm thẻ chân trắng thâm canh, Ninh Thuận, DEA
ABSTRACT
The study adopts Data Envelopment Analysis (DEA) method to analyse effi ciency in input utilisation
(so-called technical effi ciency with input orientation) in intensive white-leg shrimp farming in Ninh Thuan
province in 2014. The results indicate that, on average, variable inputs of production can be reduced by
20.7%, yet still maintaining a constant output. Therefore, effective management of stocking and feeding is very
important for the development of Ninh Thuan’s white-leg shrimp aquaculture. In addition, expanding farm area
and shortening culture time in the year of operation are also important for effi ciency improvement in input
utilization. Finally, it is suggested that the quality of technical training courses and government’s credit
policies for aquaculture should be re-assessed for a sustainable shrimp aquaculture in Ninh Thuan.
Keywords: technical effi ciency, intensive white-leg shrimp farming, Ninh Thuan, DEA
1 Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2001, tôm thẻ chân trắng đã
bắt đầu trở thành đối tượng nuôi quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế vùng duyên hải,
Việt Nam. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tập
trung chủ yếu ở các tỉnh miền trung và khu
vực đồng bằng sông Cửu Long với diện tích
nuôi gia tăng nhanh chóng từ 13.455 hec-ta
năm 2005 tới 22.192 hec-ta năm 2010 [6].
Năm 2012, diện tích nuôi đã đạt 38.169 ha
với sản lượng 177.817 tấn. Đặc biệt, theo
dữ liệu của VASEP, trong năm 2012, mặc dù
diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ chiếm
5,9% diện tích nuôi thủy sản cả nước nhưng
38 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
sản lượng đạt tới 27,3% tổng sản lượng nuôi
cả nước [5].
Ninh Thuận là tỉnh cực nam của miền Trung,
Việt Nam với diện tích tiềm năng để nuôi tôm
nước lợ khoảng 1.000 hec-ta (ha). Nghề nuôi
tôm ở Ninh Thuận bắt đầu với con tôm sú từ
những năm 1990 với hình thức nuôi chủ yếu là
bán thâm canh. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng
bắt đầu phát triển ở Ninh Thuận đầu những
năm 2000. Trong vùng duyên hải Nam Trung
bộ, Ninh Thuận là địa phương có diện tích nuôi
tôm thẻ chân trắng lớn. Năm 2005, UBND tỉnh
Ninh Thuận chính thức cho phép đưa tôm thẻ
chân trắng vào nuôi thử nghiệm tại khu vực
nuôi tôm thuộc dự án nuôi tôm trên cát xã An
Hải, huyện Ninh Phước, sau đó được nhân
rộng tại hai vùng dự án nuôi tôm trên cát An
Hải và vùng dự án nuôi tôm công nghiệp Sơn
Hải kể từ đầu năm 2006 theo Quyết định số
455/QĐ-UBND ngày 24/01/2006 của Chủ tịch
UBND tỉnh Ninh Thuận [4].
Ngay từ khi triển khai, đối tượng tôm thẻ
chân trắng đã được nhiều người dân hưởng
ứng chuyển đổi nhờ những ưu điểm vượt trội
của nó so với tôm sú như: dễ sinh sản và thuần
dưỡng; có thể nuôi ở mật độ cao, yêu cầu hàm
lượng protein trong thức ăn thấp hơn so với
tôm sú, chịu được nhiệt độ thấp và chịu được
nước có chất lượng kém hơn so với tôm sú,
chúng có thể nuôi được ở nhiều loại thủy vực
khác nhau. Theo thống kê của Chi cục Nuôi
trồng Thủy sản thì từ năm 2006 đến nay diện
tích nuôi tôm thẻ chân trắng tại Ninh Thuận
không ngừng tăng lên. Cụ thể, năm 2006 diện
tích nuôi tôm thẻ chân trắng ở Ninh Thuận là
159 ha, năm 2008 diện tích nuôi là 600 ha,
năm 2010 diện tích nuôi là 811 ha và đến năm
2011 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng ở đây
là 984 ha, trong đó diện tích nuôi tôm thẻ chân
trắng thâm canh khoảng 850 ha [4].
Trong những năm qua, do lợi nhuận từ
nghề nuôi tôm thẻ chân trắng mang lại khá cao
nên diện tích nuôi ngày càng gia tăng không
theo quy hoạch của địa phương và của ngành.
Diện tích nuôi gia tăng tỷ lệ thuận với mức độ
ô nhiễm môi trường, dịch bệnh bùng phát và
lây lan. Đây cũng chính là hệ quả của việc quản
lý chưa chặt chẽ, trình độ của người nuôi còn
hạn chế, nhất là kỹ thuật quản lý môi trường,
phòng ngừa dịch bệnh trên tôm nuôi v.v, làm
cho nghề nuôi tôm thẻ chân trắng chưa thật
sự phát triển bền vững. Mặc dù lợi nhuận của
nghề nuôi tôm mang lại tuy có cao nhưng thiếu
tính ổn định, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy
cơ [1, 4].
Thế giới đã và đang dịch chuyển mô hình
phát triển từ “kinh tế nâu, brown economy”
sang “kinh tế xanh, green economy” [17] . Đây
là bước chuyển tiếp cần thiết để từng bước
tiến tới sự phát triển bền vững. Trong điều
kiện dân số thế giới gia tăng và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên hữu hạn, việc phân tích
hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào để tìm cách
gia tăng sản lượng đầu ra mà không phải sử
dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào đang là
một chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà
hoạch định chính sách trên thế giới quan tâm.
Farrel, năm 1957, là người đầu tiên xây dựng
một cách có hệ thống về lý thuyết này [10].
Hiện tại, có hai cách tiếp cận phân tích chính
là Data Envelopment Analysis (DEA), còn gọi
là cách tiếp cận phi tham số, được khởi xướng
bởi Charnes và các cộng sự năm 1978; và
Stochastic Frontier Analysis (SFA), hay là cách
tiếp cận tham số, được phát triển bởi Battese
và Coelli năm 1995 [7, 8]. Ưu điểm chính của
DEA so với SFA là không phải tìm kiếm và
giả thiết dạng hàm cho công nghệ sản xuất,
và vì thế, thường đơn giản trong tính toán và
không phải thực hiện các kiểm định với yêu
cầu rất chặt chẽ (thường không phải lúc nào
cũng thỏa mãn) về giả thiết nhiễu của mô hình.
Nhược điểm chính của phương pháp DEA là
không tách được nhiễu ngẫu nhiên ra khỏi kết
quả tính toán [9].
Việc phân tích hiệu quả sử dụng yếu tố
đầu vào của các đơn vị sản xuất nhằm đề
xuất các chính sách phát triển bền vững đã
và đang được áp dụng rất rộng rãi trong các
nghiên cứu thực nghiệm. Cả hai cách tiếp cận
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39
phân tích DEA và SFA đều có những ưu,
nhược điểm riêng và được áp dụng rất rộng
rãi trong nghiên cứu của ngành nuôi trồng thủy
sản [11,16]. Dù vậy, hiện có rất ít các nghiên
cứu theo các cách tiếp cận này cho ngành nuôi
trồng thủy sản Việt nam khi tính bền vững đang
là một câu hỏi quan trọng, đặc biệt đối với nghề
nuôi tôm [15]. Các nghiên cứu tiêu biểu về nuôi
tôm trên thế giới sử dụng cách tiếp cận phân
tích DEA có thể kể đến như: Matinez & Lueng,
năm 2003, cho nghề nuôi tôm của Mexico và
Nguyen & Fisher, năm 2014, cho nghề nuôi
tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam
[13,15].
Để đơn giản trong tính toán và phân tích,
cách tiếp cận phân tích DEA được lựa chọn sử
dụng trong nghiên cứu này. Mục tiêu của bài
viết là: phân tích hiệu quả sử dụng các yếu tố
đầu vào của nghề khai nuôi tôm thẻ chân trắng
thâm canh của Ninh Thuận, với bộ dữ liệu thu
thập cho năm sản xuất 2014, nhằm đề xuất
một số khuyến nghị cho chính quyền và các hộ
nuôi nhằm từng bước phát triển nghề nuôi tôm
thẻ chân trắng bền vững ở Ninh Thuận.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm về hiệu quả (Effi ciency)
Hiểu theo nghĩa rộng, hiệu quả thể hiện
mối tương quan giữa các biến số đầu ra thu
được (outputs) so với các biến số đầu vào
(inputs) đã được sử dụng để tạo ra những kết
quả đầu ra đó [9].
Hiệu quả = Đầu ra /Đầu vào
2. Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của
sản xuất (Technical effi ciency with input
orientation)
Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là
khả năng tạo ra một lượng đầu ra cho trước
từ một lượng đầu vào nhỏ nhất tương ứng với
một trình độ công nghệ nhất định [9].
Phương pháp DEA
Farrel (1957) là người đầu tiên xây dựng
một cách có hệ thống về lý thuyết này và
sau đó được Charnes, Cooper, và Rhodes
phát triển vào năm 1978 với tên gọi là DEA
như sau [7, 9, 10]:
Giả sử một nghề sản xuất đơn giản sử
dụng 2 yếu tố đầu vào x1, x2 để sản xuất ra
1 đầu ra q được trình bày như hình vẽ dưới
đây. Đường biên SS’ là đường biên giới hạn
của sản xuất, nghĩa là để sản xuất được một
đơn vị sản lượng đầu ra thì (i) miền không gian
phía tay trái của đường SS’ là miền không gian
không khả thi; (ii) miền không gian nằm bên
tay phải của đường SS’ là miền sản xuất khả
thi trong thực tế. Như vậy, các đơn vị sản xuất
trong thực tế nằm trên đường SS’ là có sự kết
hợp tốt nhất, tiết kiệm nhất các yếu tố đầu vào
của sản xuất nên được xem là các đơn vị sản
xuất đạt được hiệu quả sử dụng các yếu tố
đầu vào đạt 100%. Vì vậy C và D là những
đơn vị sản xuất đạt hiệu quả. Điều đó có nghĩa
là, A và B là những đơn vị sản xuất chưa đạt
hiệu quả. Mức hiệu quả sử dụng các yếu tố
đầu vào của đơn vị sản xuất A được đo lường
khoảng cách OA’/OA và nhỏ hơn 1. Tương tự,
sự không hiệu quả của B được trình bày bởi
khoảng cách OB’/OB và nhỏ hơn 1. Điều này
có nghĩa là các đơn vị sản xuất A và B có thể
giảm sử dụng 2 đầu vào đối với A là từ A đến
A’, và B là từ B đến B’ mà không giảm đầu ra.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Dữ liệu nghiên cứu
1.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu
Đối tượng khảo sát là các hộ nuôi tôm thẻ
chân trắng thâm canh của tỉnh Ninh Thuận
trong năm sản xuất 2014. Tổng số hộ nuôi
40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
trong tổng thể là 442 và mẫu nghiên cứu là
102, chiếm tỷ lệ 23% trên tổng thể.
1.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản bằng cách dựa vào danh sách các hộ
nuôi được cung cấp bởi Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, sau đó
rút thăm ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách
lập để chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu
thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp
chủ hộ nuôi.
2. Mô hình và phương pháp phân tích
dữ liệu
Các nghiên cứu trước đây trong nghề nuôi
trồng thủy sản ở các nước đang phát triển áp
dụng phương pháp phân tích DEA, ví dụ như
Lê Kim Long và Đặng Hoàng Xuân Huy (2015);
Nguyen & Fisher (2014) và Alarm (2011),
thường lựa chọn cách tiếp cận tối thiểu hóa
đầu vào với đầu ra không đổi vì: (i) các hộ nuôi
ở các nước đang phát triển thường có nguồn
lực đầu vào tài chính có hạn; (ii) các hộ nuôi
dễ kiểm soát đầu vào hơn nhiều so với đầu
ra; và (iii) việc sử dụng lãng phí đầu vào trong
nghề nuôi, đặc biệt là thức ăn và kháng sinh,
hóa chất đang thách thức nghiêm trọng tính
bền vững của các nghề nuôi [1, 8, 13]. Do vậy,
bài viết này cũng thực hiện đo lường hiệu quả
kỹ thuật theo hướng tối thiểu hóa các yếu tố
đầu vào trong khi vẫn duy trì được mức đầu
ra không đổi. Hơn nữa, nghiên cứu này chỉ tập
trung phân tích hiệu quả kỹ thuật thuần túy nên
mô hình DEA sẽ xem xét trường hợp năng suất
biến đổi theo quy mô (variable return to scale
– VRS) [9]. Mô hình toán cụ thể cho bài toán
DEA_VRS với định hướng đầu vào như sau:
Giả sử rằng có N hộ nuôi tôm thẻ chân
trắng và sử dụng K yếu tố đầu vào. Đối với hộ
nuôi thứ i (i = 1, 2,, N), dữ liệu đầu vào và
đầu ra được biểu diễn bằng các véc tơ cột là xi
và yi . Dữ liệu cho tất cả các hộ nuôi được biểu
diễn bởi ma trận K*N yếu tố đầu vào, X, và véc
tơ cột đầu ra Y. Khi đó, mô hình toán cho hộ
nuôi thứ i là:
TEj(X,Y) = min θj
θj, λ
với các ràng buộc:
n
Yj Xλ; λ > 0; ∑ λj = 1 (1)
j = 1
TEj là thước đo vô hướng của hiệu quả kỹ
thuật của hộ nuôi thứ i và có giá trị thuộc [0, 1].
Do vậy, để phân tích sự ảnh hưởng của các
đặc điểm sản xuất của nông hộ đến hiệu quả
kỹ thuật, hồi quy tobit thường xuyên được áp
dụng cho mô hình phân tích sau [7]:
TEj = ßZj + εj (2)
Trong đó, TEj là chỉ số hiệu quả kỹ thuật tính
toán từ (1); Zj là véc tơ các đặc điểm sản xuất
của nông hộ, ß là véc tơ các tham số được
ước lượng và εj là sai số ngẫu nhiên. Phần
mềm thống kê R được sử dụng để ước lượng
kết quả.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Thống kê mô tả các biến dùng trong
phân tích
Tiếp theo Lê Kim Long và Đặng Hoàng
Xuân Huy (2015); Nguyen & Fisher (2014), và
Alarm và các cộng sự (2011), nghiên cứu này
sử dụng 5 biến đầu vào biến đổi chủ yếu (chiếm
phần lớn chi phí biến đổi) của nghề nuôi tôm
thẻ chân trắng thâm canh tại Ninh Thuận là [6,
2,15]: giống, thức ăn, lao động, hóa chất năng
lượng cho mỗi ha trong năm sản xuất 2014, 01
biến đầu ra là sản lượng tôm thu hoạch trên
một ha trong năm cho mô hình DEA_VRS ở (1).
Trên cơ sở tổng lược của Sharma & Lueng
năm 2003; Iliyasu và các cộng sự năm 2014
và Nguyen & Fisher năm 2014; cũng như đặc
điểm của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Ninh
Thuận, các đặc điểm sản xuất của nông hộ
được lựa chọn cho mô hình phân tích (2) gồm
[11, 15, 16]: (i) diện tích trang trại nuôi tôm; (ii)
vay nợ là biến giả với biến có giá trị là 1 nếu hộ
có vay nợ, và có giá trị là 0 nếu hộ không vay
nợ; (iii) thời gian nuôi là số ngày hộ nuôi tôm
trong năm; (iv) kinh nghiệm là số năm mà chủ
hộ tham gia nghề nuôi; (v) tập huấn là biến giả
với giá trị bằng 1 nếu hộ đã từng được tập huấn
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 41
kỹ thuật bởi các cơ quan nhà nước, và giá trị
bằng 0 nếu chưa được tập huấn; (vi) học vấn
cũng là biến giả và có giá trị bằng 1 nếu chủ hộ
đã học từ trung cấp trở lên, và giá trị là 0 nếu
chưa. Bảng 1 mô tả thống kê tất cả các biến sử
dụng trong nghiên cứu này.
Bảng 1. Một số giá trị thống kê của các biến dùng trong phân tích
Tên biến Đơn vị tính Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất
Mô hình hàm sản xuất
Sản lượng đầu ra (y) Kg/ha 29.930,69 11.345,63 5.260,00 50.010,00
Đầu vào (x)
Giống (x1) 1000 con/ha 4.323,73 1.829,58 500,00 9.900,00
Thức ăn (x2) Kg/ha 46.465,69 20.814,28 6.300,00 87.300,00
Lao động (x3) Số giờ/ha 7.562,93 2.908,29 2.316,00 13.714,00
Hóa chất (x4) Kg/ha 105,56 55,55 9,50 321,30
Năng lượng (x5) Kw/ha 379.926,54 231.735,31 25.320,00 932.224,00
Đặc điểm sản xuất nông hộ
Diện tích trang trại (Z1) Ha 0,85 0,69 0,3 6
Vay nợ (Z2) Dummy 0,75 - 0 1
Thời gian nuôi (Z3) Ngày nuôi/năm 224,80 61,18 55 330
Kinh nghiệm (Z4) Năm 11,31 4,10 4,0 24
Tập huấn kỹ thuật (Z5) Dummy 0,67 - 0 1
Học vấn (Z6) Dummy 0,23 - 0 1
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra
Bảng 1 cho thấy một số đặc trưng cơ bản
của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh
ở Ninh Thuận. Các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng
ở Ninh Thuận có diện tích nuôi bình quân đạt
0,85 ha, lớn nhất là 6 ha và nhỏ nhất là 0,3 ha,
với độ lệch chuẩn là 0,69. Kinh nghiệm tham
gia nuôi trồng thủy sản của chủ hộ bình quân
đạt 11,31 năm, lớn nhất là 24 và nhỏ nhất là
4 năm. Năng suất tôm bình quân cho mỗi ha
trong năm 2014 đạt 29.930,69 kg, lớn nhất là
50.010 và nhỏ nhất là 5.260 kg với độ lệch
chuẩn là 11.345. Thời gian nuôi bình quân
trong năm 2014 của mỗi hộ là 224,80 ngày,
nhỏ nhất là 55 ngày và lớn nhất là 330 ngày.
2. Hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp DEA
Kết quả tính toán hiệu quả sử dụng các
nguồn lực đầu vào được trình bày như ở Bảng 2.
Bảng 2. Hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Ninh Thuận 2014
Chỉ tiêu TEVRS
1. Tổng số hộ nuôi trong mẫu 102
2. Các hộ nuôi đạt hiệu quả (TE = 1) 15
4. Mức hiệu quả trung bình 0,793
5. Phân nhóm mức hiệu quả Số hộ Tần số (%)
0,4 – 0,5 5 4,9
0,5 – 0,6 7 6,9
0,6 - 0,7 13 12,7
0,7 - 0,8 26 25,5
0,8 - 0,9 23 22,5
0,9 - 0,1 13 12,7
1,0 15 14,8
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra
42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
Qua bảng 2, hiệu quả sử dụng các nguồn
lực đầu vào của các hộ nuôi tôm thẻ chân
trắng thâm canh tỉnh Ninh Thuận biến động từ
0,4 đến 1,0 với giá trị trung bình là 0,793 và có
phân phối xấp xỉ phân phối chuẩn; trong đó,
14,8% số hộ nuôi đạt hiệu quả 100%. Kết quả
này cho thấy, bình quân, các đầu vào biến đổi
hiện tại của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm
canh ở Ninh Thuận có thể giảm xuống 20,7%
trong khi vẫn duy trì được đầu ra không đổi.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương đối tương
đồng với kết quả của Alarm năm 2014 đối với
nghề nuôi cá ba sa thâm canh ở Bangladesh
[6]; và có xu hướng đạt được hiệu quả cao
hơn kết quả của Nguyen & Fisher năm 2014
tính toán cho nghề nuôi tôm (nhiều giống và
loại hình nuôi) ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long [15].
Trong năm sản xuất 2014, với bình quân
số vụ nuôi trong năm của mẫu là 2,18, từ dữ
liệu Bảng 1, hai chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng
đối với các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở Ninh
Thuận là [14]: (i) mật độ thả giống bình quân là
((4.323,73*1000)/2,18))/10000 = 166 con/m2;
(ii) hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) bình quân
là (46.465,69/29.930,69) = 1,53 lần, tức mức
sử dụng thức ăn là 1,53 kg để tạo ra được 1 kg
thành phẩm tôm. Với kết quả mức hiệu quả kỹ
thuật trung bình là 79,3% cho thấy rằng, bình
quân, hộ nuôi chỉ nên thả mật độ nuôi mỗi vụ
là 166*0.793 = 132 con/m2 và FCR chỉ nên sử
dụng ở mức 1,53*0,793 = 1,21 lần. Điều này,
không chỉ giúp các hộ tiết kiệm chi phí trong
quá trình sản xuất (thức ăn chiếm khoảng
50% chi phí biến đổi) mà còn giúp giảm thiểu ô
nhiễm môi trường khi lượng phát thải ô nhiễm
của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng chủ yếu do
thức ăn tạo ra.
Kết tiếp, với kết quả tính toán và dạng
phân phối của hiệu quả kỹ thuật được trình bày
ở Bảng 2, mô hình hàm hồi quy Tobit được lựa
chọn và áp dụng để phân tích các đặc điểm
sản xuất và nông hộ ảnh hưởng đến hiệu quả
kỹ thuật của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tại
Ninh Thuận như sau [7]:
Bảng 3. Mô hình hồi quy Tobit phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật
Tên biến Hệ số Sai số chuẩn Giá trị t Giá trị p
Hệ số chặn 0,9650 0,0958 10,075 0,000
Diện tích trang trại 0,1090* 0,0402 2,710 0,006
Thời gian nuôi -0,0007* 0,0002 -2,434 0,014
Kinh nghiệm -0,0048 0,0044 -1,091 0,275
Vay nợ -0,0527 0,0393 -1,341 0,179
Tập huấn kỹ thuật 0,0256 0,0347 0,739 0,460
Học vấn -0,0371 0,0438 -0,847 0,397
* Mức ý nghĩa 5%
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy hai biến diện
tích trang trại và thời gian nuôi ảnh hưởng có ý
nghĩa thống kê đến hiệu quả kỹ thuật của nông
hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở Ninh Thuận với
mức ý nghĩa 5%. Cụ thể, thứ nhất, kết quả cho
thấy nếu diện tích trang trại nuôi tôm càng lớn
thì hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào
càng cao. Lí do là các trang trại nuôi tôm càng
lớn càng có xu hướng được hưởng lợi từ đặc
trưng kinh tế của quy mô sản xuất [7]. Thứ hai,
nếu thời gian nuôi trong năm càng dài thì sự
phi hiệu quả càng lớn. Kết quả này có thể giải
thích bởi hai lí do: (i) các hộ nuôi kéo dài chu kỳ
nuôi hơn mức cần thiết sẽ tốn nhiều đầu vào
nhưng tôm không lớn nhiều nữa [7]; (ii) các
nông hộ với thời gian nuôi dài trong năm có xu
hướng sử dụng đất quá mức và vì thế sẽ phải
đối diện với rủi ro lây lan dịch bệnh và ô nhiễm.
Alarm năm 2011 và Nguyen & Fisher năm
2014 cũng tìm thấy mối quan hệ này [6, 15].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43
Lê Kim Long & Phạm Thị Thanh Bình năm
2016 đã khuyến cáo rằng sự phát thải ni-tơ từ
thức ăn nuôi tôm đã gây ô nhiễm môi trường
và ảnh hưởng rất đáng kể tới khả năng sinh lợi
của nghề nuôi tôm thẻ ở Quảng Ngãi [3]. Lui &
Sumaila năm 2010 ước lượng mức độ ô nhiễm
do phát thải ni-tơ từ thức ăn trong nghề nuôi
cá hồi đã làm năng suất nuôi cá hồi thiệt hại
tới 3,5% [12]. Tiếp theo, mức độ ảnh hưởng
của các biến còn lại đến hiệu quả sử dụng các
nguồn lực đầu vào đều không có ý nghĩa thống
kê dù ở mức ý nghĩa 10%. Dù vậy, có hai vấn
đề cũng cần được quan tâm nghiên cứu sâu
hơn. Thứ nhất, biến tập huấn kỹ thuật dù có
tác động dương nhưng không có ảnh hưởng
đủ mạnh đến hiệu quả sử dụng nguồn lực
đầu vào của nông hộ. Nguyen & Fisher năm
2014 cũng tìm thấy kết quả tương tự đối với
nghề nuôi tôm ở Đồng bằng Sông Cửu Long
[15]. Thứ hai, có tới 75% hộ gia đình nuôi
tôm có vay nợ (Bảng 1), và hiện tại, vay nợ
đang có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kỹ thuật
dù tác động là chưa đủ ý nghĩa thống kê (ở
mức 10%).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận DEA
(VRS) đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực
đầu vào của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng tại
tỉnh Ninh Thuận trong năm sản xuất 2014. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu đầu ra không
đổi, các đầu vào biến đổi của sản xuất có thể
giảm xuống 20,7%. Như vậy, bình quân, các
hộ nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Ninh
Thuận nên thả giống với mật độ 132 con/m2
và nuôi với FCR bình quân là 1,21 lần.
Mô hình phân tích hồi quy Tobit cho thấy,
để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
đầu vào thì việc mở rộng diện tích nuôi và rút
ngắn thời gian nuôi trong năm có ý nghĩa rất
quan trọng. Do vậy, các chính sách về đất
cho nghề nuôi tôm cũng như các chính sách
để quản lý thời gian nuôi trong năm như: quy
hoạch vùng nuôi, mùa nuôi, xử lý chất thải và
thông tin thị trường là rất cần thiết. Cuối cùng,
chất lượng của các chương trình tập huấn kỹ
thuật của các cơ quan khuyến nông cũng như
các chính sách hỗ trợ vay vốn cho nghề nuôi
trồng thủy sản của Nhà nước cần được xem
xét lại để hướng đến một nghề nuôi tôm bền
vững cho Ninh Thuận.
Trong giới hạn của bài báo này, nghiên
cứu còn một số hạn chế cần tiếp tục được giải
quyết ở các nghiên cứu sau. Thứ nhất, nghiên
cứu sử dụng mô hình DEA nên kết quả ước
lượng chỉ số hiệu quả vẫn chưa tách được sai
số ngẫu nhiên. Các nghiên cứu kế tiếp có thể
áp dụng kỹ thuật bootstrap đã được phát triển
rất mạnh trong phần mềm R để giải quyết vấn
đề này. Thứ hai, nghiên cứu sử dụng thước
đo hiệu quả hướng tâm của Farrel (1957) nên
kết quả là các đầu vào có khả năng cắt giảm
(mà đầu ra không đổi) cùng một tỉ lệ. Để tránh
vấn đề “không dễ cắt giảm các đầu vào cố
định” nghiên cứu này đã quy đổi các đầu vào
biến đổi của sản xuất về cho 1 ha mặt nước
sử dụng trong mô hình phân tích. Các nghiên
cứu kế tiếp có thể sử dụng các thước đo và
mô hình ước lượng hiệu quả tốt hơn, ví dụ mô
hình hàm khảng cách [8]. Thứ ba, phát thải
ô nhiễm môi trường, còn được gọi là đầu ra
không mong muốn, đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của nghề nuôi tôm cần được
nội sinh hóa vào quá trình đánh giá hiệu quả
sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2012. Báo cáo tóm lược về Quy hoạch thủy sản Việt Nam tới 2020 và
tầm nhìn 2030. Hà Nội, Việt Nam.
44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
2. Lê Kim Long, Đặng Hoàng Xuân Huy, 2015. Phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các ao nuôi tôm he chân trắng tại
thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 40(2): 7-14.
3. Lê Kim Long, Phạm Thị Thanh Bình, 2016. Phân tích khả năng sinh lợi của nghề nuôi thâm canh tôm thẻ chân
trắng tại tỉnh Quảng Ngãi. Tạp chí KHCN Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang, 2: 32-40.
4. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Ninh Thuận, 2013. Quy hoạch thủy sản Ninh Thuận đến 2020, Ninh
Thuận, Việt Nam.
5. VASEP, 2013. Báo cáo về xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2012 và dự báo năm 2013. Hà Nội, Việt Nam.
Tiếng Anh
6. Alarm, F., 2011. Measuring technical, allocative and cost effi ciency of pangas (Pangasius hypophthalmus,
Sauvage 1878) fi sh farmers of Bangladesh. Aquaculture Research, 42(10): 1487-1500.
7. Battese, G. E., & Coelli, T. J., 1995. A model for technical ineffi ciency effects in a stochastic frontier production
function for panel data. Empirical economics, 20(2): 325-332.
8. Charnes, A., Cooper, W. W., & Rhodes, E., 1978. Measuring the effi ciency of decision making units. European
Journal of Operational Research, 2(6): 429-444.
9. Charnes, A., Cooper, W. W., Lewin, A. Y., & Seiford, L. M. (Eds.), 2013. Data envelopment analysis: Theory,
methodology, and applications. Springer Science & Business Media.
10. Farrell, M. J., 1957. The measurement of productive effi ciency. Journal of the Royal Statistical Society, 120(3):
253-290.
11. Iliyasu, A., Mohamed, Z. A., Ismail, M. M., Abdullah, A. M., Kamarudin, S. M., & Mazuki, H., 2014. A
review of production frontier research in aquaculture, 2001–2011. Aquaculture Economics & Management, 18(3):
221-247.
12. Liu, Y., & Sumaila, U. R., 2010. Estimating pollution abatement costs of salmon aquaculture: a joint production
approach. Land Economics, 86(3): 569-584.
13. Martinez, C, F. J., & Leung, P., 2004. Sustainable aquaculture and producer performance: measurement of
environmentally adjusted productivity and effi ciency of a sample of shrimp farms in Mexico. Aquaculture,
241(1): 249-268.
14. NACA, 2011. Application of Business Management Principles in Small Scale Aquaculture.
pbworks.com/w/page/33326179/Application%20of%20Business%20Management%20Principles%20in%20
Small%20Scale%20Aquaculture.
15. Nguyen, K. T., & Fisher, T. C., 2014. Effi ciency analysis and the effect of pollution on shrimp farming in the
Mekong river delta. Aquaculture Economics & Management, 18(4): 325-343.
16. Sharma, K. R., & Leung, P., 2003. A review of production frontier analysis for aquaculture management.
Aquaculture Economics & Management, 7(1–2): 15-34.
17. UNEP, 2011. Towards a green economy: Pathways to sustainable development and poverty eradication -
A synthesis for policy makers. United Nations Environment Programme.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_hieu_qua_su_dung_cac_yeu_to_dau_vao_cho_nghe_nuoi.pdf