Thứ tư, cần có những biện pháp để quản lý
môi trường vùng nuôi một cách hiệu quả. Từ kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng, vị trí lồng nuôi đặt
xa bờ từ 50 - 400m. Tuy nhiên, những lồng nuôi đặt
càng xa bờ có tác động tích cực đến hiệu quả nghề
nuôi. Do vậy, về lâu dài cần quan tâm giải quyết
một số vấn đề chính: (i) Tuyên truyền vận động để
hộ nuôi không sử dụng quá nhiều lượng thức ăn
hữu cơ làm ô nhiễm vùng nuôi. (ii) Định kỳ có các
đánh giá về môi trường nuôi tại khu vực để khuyến
cáo cho những hộ nuôi, (iii) Quy hoạch vùng nuôi
để có những chính sách phát triển hợp lý với các
ngành kinh tế khác như: vận tải, du lịch, v.v góp
phần hạn chế những tác động ô nhiễm môi trường
từ những ngành kinh tế này gây ra.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 135
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT NGHỀ NUÔI CÁ LỒNG BÈ
TẠI VÙNG BIỂN NAM DU, TỈNH KIÊN GIANG
FACTORS AFFECT THE PRODUCTIVITY OF CAGE FISH FARMING
IN THE NAM DU COASTAL, KIEN GIANG PROVINCE
Ong Nhất Oanh1, Phạm Hồng Mạnh2
Ngày nhận bài: 24/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 20/12/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013
TÓM TẮT
Bài viết này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh
Kiên Giang thông qua việc sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để xây dựng mô hình nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng
của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du. Kết quả phân tích cho thấy
mật độ thả giống, chi phí thức ăn, chi phí lao động, tỉ lệ sống, khoảng cách đặt lồng nuôi, kinh nghiệm và rủi ro là những
yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%. Trong khi đó, thời gian nuôi, vốn
đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi và tiếp cận tín dụng không ảnh hưởng tới năng suất nuôi.
Từ khóa: hiệu quả nghề nuôi, nghề nuôi cá biển, hàm sản xuất
ABSTRACT
This study aims to analyze the factors affecting productivity fi sh farming in sea cages Nam Du, Kien Giang through
the use of production function Cobb-Douglas to build a model to quantify the impact of these factors to study yield of cage
fi sh farmers in the Nam Du. Analysis results showed that stocking density, feed costs, labor costs, survival rate, distance
put cages, experiences and risk factors signifi cantly affect the yield of the household and statistical signifi cance at 1%, 5%
and 10%. Meanwhile, the culture period, investment capital, training, objects and access to credit does not signifi cantly
affect the yield. On this basis, the study also proposes a number of policies and measures to improve the effi ciency of fi sh
farming cages in Nam Du, Kien Giang.
Keywords: effi cient farming, fi sh farming, production function
1 Ong Nhất Oanh: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Kiên Giang
2 TS. Phạm Hồng Mạnh: Khoa Kinh Tế - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kiên Giang là tỉnh, thuộc vùng đồng bằng sông
Cửu Long với bờ biển dài trên 200 km, Kiên Giang
có tiềm năng rất phong phú để phát triển kinh tế
biển, trong đó vùng ven bờ có độ sâu 20 - 50m và có
hơn 100 đảo lớn nhỏ là tỉnh có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế biển tại Đồng bằng Sông Cửu Long [8].
Nghề nuôi cá lồng bè trên biển ở Kiên Giang
gần đây phát triển nhanh, đặc biệt là ở đảo Hòn
Mấu, Hòn Ngang (xã Nam Du), Hòn Củ Tron (xã
An Sơn), Hòn Tre (xã Hòn Tre) huyện Kiên Hải;
quần đảo Hải Tặc thuộc xã Tiên Hải, thị xã Hà Tiên
hay quần đảo Bà Lụa, thuộc xã Sơn Hải, huyện
Kiên Lương... Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản
Kiên Giang [2] trong năm 2005, toàn tỉnh chỉ có
131 lồng bè trên biển nuôi cá mú, cá bớp, với sản
lượng khoảng 90 tấn/năm, thì đến năm 2008, số
lồng bè nuôi cá đã tăng lên 546 lồng, với sản lượng
693 tấn/năm và hiện nay lên đến 925 lồng, sản lượng
hơn 1.200 tấn/năm. Chỉ tính trong 5 năm (2005 - 2009),
số lồng bè nuôi cá trên biển ở Kiên Giang đã tăng
hơn 7 lần và sản lượng thủy sản thu hoạch tăng hơn
13,3 lần. Kết quả này chứng tỏ, nghề nuôi cá lồng
bè trên biển đang phát triển đúng hướng [2].
Kiên Hải là một trong những huyện có hoạt
động nuôi cá lồng bè trên biển phát triển mạnh của
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
136 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
tỉnh Kiên Giang [3]. Tuy nhiên, nuôi cá lồng bè ở
khu vực này đã và đang gây ra nhiều vấn đề cho
các hộ nuôi tại khu vực này, như: hoạt động nuôi
còn mang tính tự phát, các yêu cầu về kỹ thuật nuôi
chưa được thông tin đầy đủ, số lồng bè thủy sản
tăng quá nhanh dẫn đến chất lượng nguồn nước
suy giảm,... Điều này đã dẫn đến năng suất nuôi của
các hộ tại khu vực này bị giảm sút [6]. Việc đánh giá
năng suất nghề nuôi cũng như xác định các yếu tố
ảnh hưởng tới năng suất của nghề nuôi cá lồng bè
trên địa bàn là rất cần thiết nhằm xác định những
vấn đề cần quan tâm nhằm cải thiện năng suất và
hiệu quả nghề nuôi tại khu cực này góp phần thúc
đẩy hoạt động nghề nuôi cá lồng bè phát triển ổn
định và lâu dài.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết
Nuôi trồng thuỷ sản là quá trình hoạt động liên
quan đến các vấn đề sinh học. Quá trình sản xuất
liên quan đến việc sử dụng các nguồn lợi ở nước,
lao động, và quản lý để tạo ra các sản phẩm thuỷ
sản đáp ứng cho nhu cầu của con người và xã hội.
Trong quá trình sản xuất, các nhà khoa học [1], [4],
[6], [7] thường quan tâm đến sản lượng khi các yếu
tố đầu vào như thức ăn, con giống, quản lý chất
lượng nước, Trong khi đó, các nhà kinh tế quan
tâm đến cả hai sản lượng và năng suất.
Hàm số sản xuất là mối quan hệ kỹ thuật giữa
các yếu tố đầu vào và sản phẩm làm ra tại một thời
điểm nhất định với một công nghệ nhất định. Sản
phẩm nuôi trồng thủy sản thường đa dạng và là kết
quả của hàng loạt các yếu tố đầu vào. Chất lượng
và năng suất của sản phẩm làm ra được quy định
bởi việc sử dụng mỗi yếu tố đầu vào cũng như mối
quan hệ tương tác giữa chúng. Hàm số sản xuất
thủy sản được biểu diễn dưới dạng [3]:
Y = f(X1, X2, X3, ..., Xn)
Trong đó: Y - Sản lượng thủy sản
X1 - Lượng thức ăn
X2 - Kích cỡ thả
X3 - Tỷ lệ sống
X4 - Mật độ thả
Xn - Các biến số liên quan đến tăng trưởng của cá
2. Mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ cơ sở lý thuyết [3] và tổng quan
các công trình nghiên cứu thực nghiệm liên quan
[1], [4]. Mô hình nghiên cứu đề xuất được đề nghị
như sau:
Để thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố
đến năng suất nuôi cá lồng bè, nghiên cứu đã sử
dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để ước lượng.
Hàm sản xuất Cobb – Douglas có dạng:
W = A. MATDOα1 .THOIGIα2 .TH_ANα3 .VON_DTα4
.LADOα5 .TILSOα6 .KCAHα7 .KNGα8 TAPHUANα9
.RUIROα10 .TDUNGα11 .DTGNUIα12
Các biến trong mô hình bao gồm:
Trong đó:
W: năng suất cá lồng bè nuôi thương phẩm của
hộ nuôi (triệu đồng/m3 lồng nuôi)
Mật độ thả giống (MATDO): Mật độ thả giống
của hộ nuôi (con/m3). Mật độ thả giống là số lượng
giống hoặc trọng lượng giống được thả trên một
đơn vị diện tích mặt nước hay lồng bè nuôi. Để xác
định mật độ thả thích hợp cho diện tích nuôi hay
lồng nuôi và từng phương thức nuôi, các yếu tố
cần quan tâm là diện tích mặt nước, nguồn thức
ăn, năng lực của người nuôi Nhiều thí nghiệm
trên thế giới đã kết luận rằng năng suất nuôi tỷ lệ
thuận với mật độ giống thả, tới một điểm cực đại thì
năng suất bắt đầu giảm [9]. Vì vậy, với các yếu tố và
nguồn lực sẵn có của người nuôi thì nhân tố này sẽ
có một mối quan hệ dương (+) với năng suất nghề
nuôi cá lồng bè.
Thời gian nuôi (THOIGI): Thời gian nuôi/vụ
của hộ nuôi tính bằng tháng. Vì chu kỳ sinh trưởng
của cá tương đối dài và do nhu cầu của thị trường
về trọng lượng cá thu hoạch phải đạt từ 0,8 kg
trở lên, do vậy, đối với cá mú và cá bóp phải đạt
từ 7kg trở lên nên để đảm bảo cá thu hoạch đạt
được trọng lượng theo yêu cầu nên các hộ nuôi
phải nuôi với thời gian từ 10 tháng đến 12 tháng.
Việc nuôi đạt thời gian nói trên hoặc dài hơn
không những đáp ứng được nhu cầu thị trường
mà còn tăng sản lượng, tăng năng suất trên cùng
một diện tích. Vì vậy, nghiên cứu kỳ vọng rằng
tăng thời gian nuôi/vụ sẽ làm tăng thêm năng suất
nuôi của hộ.
Chi phí thức ăn (TH_AN): Là biến thể hiện chi
phí thức ăn/vụ nuôi, tính bằng triệu đồng/m3 lồng
nuôi. Thức ăn là nhân tố không kém phần quan
trọng trong hoạt động nuôi. Thức ăn cá tạp tươi
hay thức ăn công nghiệp có chất lượng sẽ thúc đẩy
nhanh quá trình tăng trưởng, phát triển của cá giúp
cho người nuôi rút ngắn thời gian nuôi, giảm chi
phí. Do vậy nghiên cứu kỳ vọng rằng biến này sẽ có
quan hệ đồng biến với sản lượng nuôi.
Vốn đầu tư (VON_DT): Là lượng vốn mà hộ
nuôi bỏ ra để đầu tư cho hoạt động nuôi, tính bằng
triệu đồng/m3 lồng nuôi. Vốn là một yếu tố được trực
tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất; việc đầu tư bài
bản, đúng, đủ nguồn thức ăn, bảo dưỡng lồng bè
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 137
định kỳ sẽ mang lại kết quả cao. Do vậy, nghiên cứu
kỳ vọng quy mô vốn đầu tư sẽ làm tăng năng suất
nuôi cá lồng bè của hộ.
Chi phí lao động (LADO): Chi phí lao động trên 1
đơn vị diện tích nuôi (triệu đồng/m3 lồng nuôi/vụ nuôi).
Tỉ lệ sống (TILSO): Tỉ lệ sống của giống thả/m3
lồng nuôi.
Khoảng cách (KCAH): Là biến thể hiện khoảng
cách đặt lồng nuôi so với bờ của hộ nuôi, tính bằng
mét (m). Đây là yếu tố mang tính kỹ thuật, có tác
động rất quan trọng đối với lợi nhuận của nghề
nuôi cá lồng bè ở quần đảo Nam Du. Hoạt động
nuôi trồng thủy sản phụ thuộc lớn vào điều kiện môi
trường nước. Do vậy, những hộ càng nuôi xa bờ thì
càng có điều kiện đảm bảo cho môi trường nước
không bị ô nhiễm. Trên thực tế, nơi đây ngư dân đặt
lồng bè đan xen với khu vực neo đậu tàu thuyền,
nên sẽ bị ảnh hưởng do các chất thải ra từ tàu đánh
cá và giảm sản lượng nuôi. Vì thế, nghiên cứu kỳ
vọng khoảng cách đặt lồng có tác động tích cực tới
hiệu quả nghề nuôi.
Kinh nghiệm (KNG): Là biến thể hiện số năm
hoạt động nghề nuôi cá lồng bè, kỳ vọng mang dấu
(+). Kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều năm từ
những vụ nuôi, học hỏi kinh nghiệm của bạn bè,
càng trải qua nhiều vụ nuôi thì người dân sẽ càng
hiểu rõ được đối tượng nuôi của mình. Những kinh
nghiệm đó sẽ giúp cho người nuôi nắm bắt kịp thời
và xử lý một cách có hiệu quả trong vụ nuôi, biết
được mùa vụ thích hợp, thời điểm thả giống, cách
cho ăn và quản lý chăm sóc lồng nuôi,
Tập huấn (TAPHUAN): là biến dummy, nhận giá trị
1 nếu chủ hộ nuôi được tập huấn và nhận giá trị 0 cho
trường hợp ngược lại. Vấn đề tập huấn kỹ thuật nuôi có
vai trò rất quan trọng vì nuôi cá lồng bè mới là phương
pháp mới cần áp dụng khoa học kỹ thuật để thực hiện
vụ nuôi nhằm đạt hiệu quả cao. Việc hiểu được tầm
quan trọng khi thả nuôi đúng thời vụ, xây dựng lồng bè,
chọn con giống, cho ăn hợp lý... đều là những bước
quyết định đến kết quả sản xuất sau cùng. Do vậy,
nghiên cứu kỳ vọng rằng những hộ được tập huấn kỹ
thuật sẽ có tác động tích cực đến hiệu quả nghề nuôi.
Rủi ro (RUIRO): Là biến dummy, thể hiện thiệt
hại từ quá trình nuôi, nhận giá trị 0 nếu hộ không
gặp thiệt hại, nhận giá trị 1 nếu hộ gặp phải rủi ro.
Trong nghiên cứu, kỳ vọng của biến này ảnh hưởng
xấu (-) đến năng suất nuôi của hộ.
Tín dụng (TDUNG): là biến dummy, thể hiện
khả năng tiếp cận tín dụng của hộ, nhận giá trị 1
nếu hộ tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng chính
thức, giá trị 0 cho các trường hợp khác. Trong
nghiên cứu, kỳ vọng của biến số này mang dấu (+).
Đối tượng nuôi (DTGNUI): là biếm dummy,
nhận giá trị 1 nếu hộ nuôi cá mú, và giá trị 0 nếu
hộ nuôi cá bớp. Trong các đối tượng nuôi, nuôi cá
bớp có mức độ rủi ro thấp hơn cá mú. Yếu tố này có
tác động xấu (-) đến năng suất nuôi của hộ. Do vậy,
nghiên cứu giả định rằng những hộ nuôi cá mú năng
suất nuôi sẽ giảm so với nuôi cá bớp.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những hộ nuôi cá lồng
bè tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang với hai đối
tượng nuôi chủ yếu là bá bớp và cá mú trong thời
gian từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 12 năm 2011.
Nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau, như: phương pháp điều tra thực địa, phương
pháp thống kê và phân tích kinh tế lượng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Khái quát về mẫu nghiên cứu
Điều tra 150 hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển
đảo Nam Du, số mẫu thu về đạt chất lượng nghiên
cứu là 128 mẫu. Trong 128 chủ hộ nuôi thì nữ giới
chỉ chiếm tỉ lệ 15,6%, số chủ hộ nuôi là nam giới
chiếm tỉ lệ 84,4%. Tuổi của chủ hộ nuôi cũng rất đa
dạng, nhưng tập trung chủ yếu trong độ tuổi từ 30
đến dưới 50, chiếm tỉ lệ 77,4%, số chủ hộ có độ tuổi
dưới 30 và trên 50 chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ dưới 30%.
Tuổi chủ hộ nhỏ nhất là 27, lớn nhất là 57 và trung
bình là 41,5 tuổi. Đối tượng nuôi của chủ hộ chủ yếu
là cá bớp, với tỉ lệ chiếm trên 70% tổng số hộ nuôi.
Số hộ nuôi cá mú chiếm 20,3% và số hộ nuôi cả hai
loại cá này chỉ chiếm 8,6%.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi
cá biiển nói riêng phụ thuộc khá nhiều vào các yếu
tố về con giống, mật độ thả giống Qua khảo sát
tại các hộ nuôi này cho thấy mật độ thả cá mú trung
bình là 6,23 con/m3 thể tích lồng, trong khi đó mật độ
thả cá bớp trung bình là 2,47 con/m3 thể tích lồng.
Tỉ lệ sống của cá mú trung bình là 83.67%, trong khi
tỉ lệ sống của cá bớp cao hơn nhiều, trung bình là
97,11%. Số lần cho ăn đối với các đôi tượng nuôi
này ít nhất là 1 lần/ngày và nhiều nhất là 2 lần/ngày.
Trung bình mỗi hộ nuôi cho cá ăn đạt 1.96 lần/ngày.
Thời gian nuôi của cả hai đối tượng tương đối dài,
thời gian nuôi ngắn nhất là 240 ngày và dài nhất
là 360 ngày, trung bình thời gian nuôi của các đối
tượng này là 285 ngày/vụ nuôi.
Khoảng cách từ địa điểm đặt lồng nuôi tới bờ
đối với các hộ này cũng rất khác nhau. Khoảng cách
lồng nuôi tới bờ ngắn nhất là 50m, dài nhất là 400m
và trung bình là 168,75m. Một số chỉ tiêu kỹ thuật về
hoạt động nuôi được thể hiện trong bảng 1.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
138 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất
của nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du,
Kiên Giang
Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng
suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du,
tỉnh Kiên Giang, tác giả đã sử dụng biến số năng
suất (tính theo giá trị) làm biến đo lường. Biến số
này được xem xét trong mối quan hệ giữa các biến
số nghiên cứu thông qua kiểm định tương quan và
phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả phân tích
cho thấy, hầu hết các yếu tố của mô hình hồi qui có
dấu như dự đoán và có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 1%, 5% và 10%, ngoại trừ 5 yếu tố không có
ảnh hưởng rõ ràng tới năng suất nuôi, bao gồm:
thời gian nuôi, vốn đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi
và tiếp cận tín dụng. Kết quả phân tích ban đầu mô
hình về yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của hộ nuôi
được thể hiện trong bảng 2.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu kỹ thuật về hoạt động nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang
ĐVT Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Mật độ thả mú Con/m3 2.00 20.00 6.23
Mật độ thả bớp Con/m3 1.00 6.00 2.47
Tỉ lệ sống cá mú % 15.00 97.00 83.67
Tỉ lệ sống cá bớp % 90.00 100.00 97.11
Số lần cho ăn Lần/ngày 1.00 2.00 1.96
Khối lượng 1 lần cho ăn Kg 16.00 800.00 151,34
Thời gian nuôi Ngày 240 360 285
Khoảng cách lồng nuôi tới bờ m 50 400 168,75
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi qui yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi cá lồng bè
tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang
Tên biến Hệ số hồi qui chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi qui chuẩn
hóa
Giá trị thống kê
t Sig.
(Constant) 2,489 2,523 0,013
Mật độ thả giống 0,310 0,200 3,226 0,002
Thời gian nuôi -0,218 -0,031 -,555 0,580
Chi phí thức ăn 0,456 0,557 9,513 0,000
Vốn đầu tư 0,039 0,068 ,892 0,374
Chi phí lao động -0,242 -0,231 -2,347 0,021
Tỉ lệ sống 0,435 0,433 3,964 0,000
Khoảng cách 0,369 0,227 4,172 0,000
Kinh nghiệm 0,356 0,240 2,544 0,012
Tập huấn 0,044 0,032 ,589 0,557
Rủi ro -0,364 -0,233 -2,364 0,020
Tín dụng 0,023 0,015 0,141 0,888
Đối tượng nuôi 0,077 0,045 0,407 0,685
R2 Adjust 0,663
F- Statistic 21,791 (sig.= 0,000)
Durbin-Watson 2,289
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra
Từ kết quả phân tích cho thấy, mô hình nghiên
cứu đã giải thích sự ảnh hưởng của các yếu tố tới
năng suất nuôi cá lồng bè là 67,10%, các giả thuyết
hồi qui đều không bị vi phạm. Trong các yếu tố
nghiên cứu thì chi phí thức ăn và tỉ lệ sống có ảnh
hưởng lớn nhất tới năng suất nuôi. Mật độ giống thả
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 139
và rủi ro là những yếu tố có ảnh hưởng thấp nhất tới
năng suất nuôi tại khu vực này.
Mật độ thả giống: Yếu tố này có tác động thuận
chiều tới năng suất nuôi của hộ và có ý nghĩa thống
kê ở mức ý nghĩa 1%. Trong hoạt động nuôi trồng
nói chung và nuôi biển nói riêng thì mật độ thả giống
có ý nghĩa rất quan trọng, nó phản ánh số lượng
con giống trên 1 đơn vị diện tích. Tùy vào đối tượng
nuôi, đặc điểm của môi trường mà có mật độ giống
thả khác nhau. Đối với hoạt động nuôi biển tại khu
vực đảo Nam Du do mới phát triển gần đây nên điều
kiện môi trường biển có thể còn thích hợp cho đối
tượng nuôi này phát triển, do vậy hộ nuôi có điều
kiện để tăng năng suất từ hoạt động nuôi của mình.
Thời gian nuôi: Biến số này có tác động ngược
chiều tới năng suất nuôi của hộ. Thời gian nuôi là
yếu tố đảm bảo cho đối tượng nuôi phát triển theo
chu kỳ sinh học. Tăng thời gian nuôi ở thời kỳ đầu
của chu kỳ sinh học thì trọng lượng cá nuôi càng
tăng nhanh. Tuy nhiên, nếu thời gian quá dài thì
trọng lượng nuôi lại không tăng, thậm chí còn giảm.
Điều này hoàn toàn phù hợp với chu kỳ sinh học của
đối tượng thủy sản. Tuy nhiên, biến số này trong
nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.
Chi phí thức ăn: Yếu tố này có tác động thuận
chiều với năng suất nuôi của hộ và có ý nghĩa thống
kê ở mức 1%. Thức ăn là yếu tố quan trọng hàng
đầu trong hoạt động nuôi trồng thủy sản, số lượng
thức ăn được cung cấp đầy đủ thì cá nuôi sẽ phát
triển tốt và trọng lượng nuôi sẽ tăng nhanh, ngược
lại cá nuôi sẽ kém phát triển, ảnh hưởng tới sản
lượng thu hoạch của hộ nuôi. Điều này cũng được
thể hiện trong chi phí nuôi của hộ. Trong các khoản
chi phí thì chi phí cho thức ăn của hộ chiếm rất lớn,
gần 50% so với tất cả các khoản chi phí khác.
Chi phí lao động: có tác động thuận chiều đến
năng suất nuôi. Lao động là 1 trong các yếu tố
cơ bản đảm bảo cho hoạt động sản xuất. Khi lao
động của hộ nuôi được đảm bảo thì các công đoạn
trong hoạt động nuôi được thực hiện nhanh chóng
từ khâu chuẩn bị giống, kỹ thuật nuôi đến các hoạt
động khác. Điều này đã làm cho năng suất nuôi
tăng. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh kinh tế, khi số
lao động nuôi tăng thêm sẽ làm cho năng suất biên
giảm dần theo qui luật vốn có của lao động. Trong
nghiên cứu cho thấy trong điều kiện nuôi hiện tại,
yếu tố lao động có lại có ảnh hưởng xấu đến năng
suất nuôi của hộ và biến số này có ý nghĩa thống kê
ở mức ý nghĩa 5%.
Tỉ lệ sống: Tỉ lệ sống của giống thả nuôi có ý
nghĩa rất quan trọng đảm bảo cho hộ nuôi nâng cao
năng suất của mình. Tỉ lệ giống thả sống tùy thuộc
vào khá nhiều yếu tố, từ chất lượng con giống, điều
kiện môi trường sống và chăm sóc Trong hai đối
tượng nuôi thì tỉ lệ sống của cá bớp là cao, trong khi
đó tỉ lệ sống của cá mú là thấp hơn nhiều. Kết quả
phân tích mô hình cho thấy, tỉ lệ sống của giống thả
có tác động lớn nhất và có ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 5%.
Khoảng cách: kết quả nghiên cứu, biến khoảng
cách có dấu như kỳ vọng. Khoảng cách từ lồng
nuôi tới bờ có tác động thuận chiều với năng suất
nuôi. Xét về mặt lý thuyết, khoảng cách càng xa
bờ thì điều kiện môi trường nuôi biển ít bị ô nhiễm,
sự thay đổi thường xuyên các dòng hải lưu là điều
kiện thuận lợi để cho cá nuôi phát triển và vì vậy sẽ
tạo điều kiện cho gia tăng năng suất nuôi. Điều này
hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của mô
hình. Yếu tố này không có ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 1%.
Kinh nghiệm: Kinh nghiệm nuôi có tác động
thuận chiều tới năng suất nuôi của hộ. Đối với nghề
cá ở Việt Nam nói chung và hoạt động nuôi nói riêng
thì hoạt động sản xuất này phụ thuộc khá lớn vào
kinh nghiệm thực tiễn của hộ. Những hộ càng có
kinh nghiệm nuôi lâu năm thì càng rút ra được nhiều
bài học thực tiễn từ quá trình nuôi cá lồng bè và khả
năng làm cho năng suất nuôi của hộ gia tăng. Điều
này hoàn toàn phù hợp với kết quả của mô hình
nghiên cứu đó là kinh nghiệm nuôi của hộ có tác
động tích cực tới năng suất nuôi và có ý nghĩa thống
kê ở mức 10%.
Rủi ro: Trong kết quả phân tích cho thấy, yếu tố
rủi ro có tác động xấu tới năng suất nuôi của hộ và
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%. Phần lớn
những hộ nuôi cá mú có mức độ thiệt hại từ hoạt
động nuôi khá cao, trong khi đó tỉ lệ thiệt hại do nuôi
cá bớp lại thấp hơn nhiều. Chính điều này đã làm
ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ.
Tập huấn: Trong mô hình nghiên cứu yếu tố
này có tác động dương tới năng suất nuôi của hộ.
Những hộ có điều kiện được tập huấn về kỹ thuật
nuôi từ các cơ quan chuyên trách ngành thủy sản
sẽ có điều kiện để nâng cao kiến thức, và do vậy có
điều kiện để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hoạt
động nuôi của mình. Tuy nhiên, trong mẫu điều tra
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
140 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
cho thấy số hộ được tham gia tập huấn nghề nghiệp
là khá ít, do vậy trong kết quả nghiên cứu biến số
này không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%.
Đối tượng nuôi (cá bớp = 1): Trong 128 hộ nuôi
được khảo sát có tới 91/128 hộ nuôi cá bớp chiếm
tỉ lệ 71,09%. Tuy vậy giá trị của cá bớp không cao
bằng cá mú. Kết quả phân tích của mô hình cho
thấy rằng hộ nuôi cá bớp có tác động thuận chiều tới
năng suất nuôi của hộ. Tuy nhiên biến số này không
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%.
Tín dụng: Yếu tố này có tác động thuận chiều
tới năng suất nuôi của hộ. Những hộ tiếp cận được
với các nguồn tín dụng chính thức sẽ có điều kiện
vốn liếng để đầu tư và tổ chức sản xuất tốt, vì vậy sẽ
làm gia tăng năng suất nuôi. Mặc dù vậy, yếu tố này
không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.
Như vậy, những yếu tố có ảnh hưởng thực sự
đến năng suất nuôi của hộ và có ý nghĩa thống kê ở
các mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% bao gồm: mật độ
thả giống, chi phí thức ăn, chi phí lao động, tỉ lệ sống,
khoảng cách, kinh nghiệm và rủi ro từ hoạt động nuôi.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tiếp cận
về lý thuyết sản xuất để ước lượng và phân tích các
yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè
tại vùng biển Nam Du, tỉnh Kiên Giang. Từ kết quả
điều tra cho thấy đối tượng nuôi của chủ hộ chủ yếu
là cá bớp, với tỉ lệ chiếm trên 70% tổng số hộ nuôi. Số
hộ nuôi cá mú chiếm 20,3% và số hộ nuôi cả hai loại
cá này chỉ chiếm 8,6%. Mật độ thả cá mú trung bình
là 6.23 con/m3 thể tích lồng, trong khi đó mật độ thả
cá bớp trung bình là 2.47 con/m3 thể tích lồng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố ảnh
hưởng tới năng suất nuôi tại khu vực này bao gồm:
mật độ giống thả, chi phí thức ăn, tỉ lệ sống của con
giống, khoảng cách đặt lồng nuôi và kinh nghiệm
nuôi của hộ. Trong các yếu tố trên, thì tỉ lệ sống
của con giống và chi phí thức ăn có ảnh hưởng lớn
nhất. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề xuất một số
khuyến nghị nhằm nâng cao năng suất nuôi cho các
hộ nuôi cá lồng bè tại khu vực này, đó là:
Thứ nhất, cơ quan quản lý nhà nước cần đảm
bảo nguồn giống ổn định, qui chuẩn tỉ lệ và mật độ
thả giống để các hộ nuôi yên tâm đầu tư. Nghề nuôi
cá mú, cá bớp lồng bè đang được phát triển nhanh
chóng ở vùng biển đảo Nam Du cũng như các địa
phương khác trong nước. Tuy nhiên, hiện nay nghề
nuôi hoàn toàn dựa vào giống tự nhiên gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, các cơ quan quản lý và nghiên
cứu của ngành nông nghiệp cần tiếp tục nghiên cứu
sinh sản giống nhân tạo các loài cá biển trên quy mô
rộng đảm bảo có đủ số lượng và chất lượng về con
giống nhằm hạn chế việc khai thác cá giống ngoài
tự nhiên. Bên cạnh đó, việc khuyến cáo kỹ thuật về
tỉ lệ giống thả trên/đơn vị diện tích sẽ là thông số
đầu vào quan trọng để nâng cao hiệu quả nghề nuôi
tại khu vực này.
Thứ hai, cần nghiên cứu các loại thức ăn công
nghiệp phù hợp với những đối tượng nuôi này để thay
thế thức ăn tươi sống mà các hộ nuôi đang sử dụng
như hiện nay. Kết quả khảo sát cho thấy chi phí thức
ăn chiếm phần lớn trong cơ cấu chi phí nghề nuôi cá
biển tại khu vực này và ảnh hưởng có ý nghĩa thống
kê tới năng suất nuôi của hộ gia đình. Tuy nhiên, việc
sử dụng thức ăn công nghiệp sẽ làm giảm đáng kể
chi phí nuôi, nâng cao hiệu quả nghề nuôi, đồng thời
vừa đảm bảo được môi trường nuôi không bị ô nhiễm
do dư lượng thức ăn tươi sống gây ra.
Thứ ba, nâng cao trình độ đối với lao động làm
nghề nuôi cá biển. Kết quả phân tích cho thấy chi
phí lao động tác động ngược chiều tới năng suất
của nghề nuôi cá lồng bè tại khu vực này. Việc sử
dụng nhiều lao động đã làm tăng chi phí nuôi, trong
khi chất lượng lao động lại khá thấp và chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm. Do vậy, để nâng cao hiệu quả
nghề nuôi, các cơ quan quản lý cần: (i) quy hoạch
lao động trong ngành nuôi tại khu vực, (ii) Hỗ trợ
trong việc đào tạo lực lượng lao động cho những
hộ làm nghề nuôi này, (iii) Chuyển giao công nghệ
về những đối tượng nuôi đang được nuôi chủ yếu.
Thứ tư, cần có những biện pháp để quản lý
môi trường vùng nuôi một cách hiệu quả. Từ kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng, vị trí lồng nuôi đặt
xa bờ từ 50 - 400m. Tuy nhiên, những lồng nuôi đặt
càng xa bờ có tác động tích cực đến hiệu quả nghề
nuôi. Do vậy, về lâu dài cần quan tâm giải quyết
một số vấn đề chính: (i) Tuyên truyền vận động để
hộ nuôi không sử dụng quá nhiều lượng thức ăn
hữu cơ làm ô nhiễm vùng nuôi. (ii) Định kỳ có các
đánh giá về môi trường nuôi tại khu vực để khuyến
cáo cho những hộ nuôi, (iii) Quy hoạch vùng nuôi
để có những chính sách phát triển hợp lý với các
ngành kinh tế khác như: vận tải, du lịch, v.v góp
phần hạn chế những tác động ô nhiễm môi trường
từ những ngành kinh tế này gây ra.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tôn Nữ Hải Âu, Bùi Dũng Thể (2010), Hiệu quả kỹ thuật của mô hình nuôi xen tôm sú - cá kình ở phá Tam Giang, tỉnh Thừa
Thiên Huế, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế.
2. Vũ Trọng Hội (2010), Điề u tra hiệ n trạ ng kỹ thuậ t và đá nh giá hiệ u quả kinh tế - xã hộ i củ a nghề nuôi lồ ng bè mộ t số loà i cá
biể n có giá trị kinh tế tạ i Thà nh phố Hạ Long, tỉ nh Quả ng Ninh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nha Trang.
3. Vũ Đình Thắng, Nguyễn Viết Trung (2005), Giáo trình kinh tế thủy sản, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Bảo Sơn (2009), Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, nghề nuôi cá Chẽm thương phẩm tại tỉnh Khánh Hòa, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang.
5. Lê Xân, 2007. Công nghệ sản xuất giống cá biển - những giải pháp để nhanh chóng làm chủ, hoàn thiện và chuyển giao cho
sản xuất. Kỷ yếu Hội nghị Nuôi biển toàn quốc, 9-10, 2006. Viện NCNTTS I, Hà Nội, 16-23.
6. Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Kiên Giang (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, Rạch Giá.
7. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2010, 2011), Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang 2010, 2011, Kiên Giang.
8. UBND tỉnh Kiên Giang (2011), Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2010 - 2020, tầm nhìn 2030,
Rạch Giá.
9. De Silva, S.S. and Phillips, M.J., (2007), A review of cage aquaculture: Asia (excluding China), In M. Halwart, D. Soto and
J.R. Arthur (eds). Cage aquaculture - Regional reviews and global overview. FAO Fisheries Technical Paper. No. 498, 18–48.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- yeu_to_anh_huong_toi_nang_suat_nghe_nuoi_ca_long_be_tai_vung.pdf