Những vấn đề ôn tập môn: Triết học Mác - Lênin

Nguyên tắc phát triển gợi mở cho chúng ta điều gì trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt những chuyển biến tích cực.

docx28 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề ôn tập môn: Triết học Mác - Lênin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu cơ bản về PPL rút ra từ các cặp phạm trù và vận dụng những nguyên tắc khác của PBCDV như nguyên tắc khách quan, nguyên tắc mâu thuẫn, nguyên tắc phân tích lượng-chất, nguyên tắc phủ định biện chứng, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễnnhằm giúp ta thấy được ở từng giai đoạn cụ thể sự vật đã tồn tại: dưới hình thức nào và ẩn chứa nội dung gì? trong quan hệ với những sự vật khác thì cái gì là cái chung, cái riêng hay cái đơn nhất; hiện tượng biểu hiện bên ngoài cái nào là điển hình cái nào là giả tượng và bản chất thật sự của sự vật là gì; sự vật đang bị tác động bởi những mâu thuẫn nào, mâu thuẫn nào là cơ bản; sự vật đã, đang tồn tại thông qua những chất, lượng nào, thể hiện qua những độ nào, điểm nút và bước nhảy ra sao, những chất và lượng mới nào hình thành; và thông qua hiện thực để khám phá khả năng có mức hiện thực hoá cao để xác định được xu hướng vận động và phát triển trong tương lai theo nguyên tắc phủ định biện chứng. Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải: Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,) chi phối sự vật. Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ () bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng. của nó. Không được áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào mà phải nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,)của bản thân sự vật. Xây dựng được những biện pháp, đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể, kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Trong xã hội, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa,..) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức, chính trị xã hội để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, không thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp. 3 Ý nghĩa nguyên tắc toàn diện: (1) Trong hoạt động thực tiễn, để cải biến sự vật, tạo nên sự thay đổi về chất, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc quan điểm toàn diện, đồng bộ, quan điểm phát triển; lựa chọn những biện pháp, phương tiện phù hợp để tác động vào đối tượng sao cho có hiệu quả nhất nhưng lại ít chi phí nhất. (2) Trong quá trình tác động vào đối tượng, một mặt chúng ta phải chú ý đến sự đồng bộ, hệ thống về phương pháp, về phương tiện, về tính toàn vẹn trong sự tác động, lựa chon phương pháp tối ưu mặt khác, phải xác định đâu là trọng tâm, trọng điểm; đâu là phương pháp có tính chất trung gian. Không được sử dụng các phương pháp một cách ngang bằng nhau. (3) Phương pháp, phương tiện sử dụng để tác động phải linh hoạt, mềm dẻo tùy theo tình hình cụ thể. Không được rập khuôn, máy móc trong quá trình sử dụng phương pháp. Mỗi khi tình hình thực tế có sự thay đổi, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi phương pháp tác động phù hợp để có hiệu quả cao nhất. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể có điều kiện nhận thức được chân lý từ đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn phù hợp với qui luật khách quan; khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện, trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình. + Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật. + Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. + Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu, hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi. Qui luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và sự vận dụng qui luật này ở nước ta. a/ Khái niệm phương thức SX - Định nghĩa: Phương thức SX là cách thức mà con người dùng để tạo ra của cải vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, mà theo cách ấy thì con người có mối quan hệ nhất định với tự nhiên và quan hệ với nhau. Trong sản xuất vật chất gồm: - Kết cấu: Phương thức SX được cấu thành từ 2 yếu tố cơ bản là lực lượng SX và quan hệ SX b/ Khái niệm lực lượng SX - Định nghĩa: Lực lượng SX là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu SX mà trước hết là với công cụ lao động - Kết cấu + Người lao động: cần có những đặc trưng cơ bản sau đây * Tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo lao động... (trí lực) * Có sức lao động (thể lực) + Tư liệu SX: gồm các yếu tố sau * Công cụ lao động * Đối tượng lao động * Phương tiện sản xuất (lao động) (vd: đường xá cầu cống...) - Ngày nay ngoài các yếu tố trên, còn xuất hiện yếu tốc thứ 3 là khoa học. Khoa học: Ngày nay không chỉ KHTN mà KHXH đã trở thành lực lượng SX trực tiếp vì + KH đã trở thành quan điểm xuất phát trực tiếp của những biến đổi to lớn về kỹ thuật, tạo ra những ngành SX mới ngày càng hiện đại (KH ngày nay không tách rời kỹ thuật) + Thời gian để áp dụng những phát vào SX ngày càng được rút ngắn. + KH đã kết tinh, thẩm thấu vào các yếu tố cấu thành lực lượng SX, và làm biến đổi về chất của tất cả những yếu tố ấy (vô cùng quan trọng) + vd: máy tính computer: công cụ lao động è Trong các yếu tố cấu thành LLSX, người lao động giữ vị trí đứng đầu trong LLSX vì họ là người sáng tạo ra hầu hết TLSX và đồng thời cũng là người sử dụng chúng để SX ra mọi của cải cho XH. Còn công cụ lao động giữ vị trí quyết định trong TLSX vì nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong TLSX, sự biến đổi của nó dẫn đến những biến đổi trong toàn bộ TLSX è Các yếu tố cấu thành LLSX tác động lẫn nhau làm cho LLSX phát triển không ngừng. Sự phát triễn của LLSX mang tính khách quan vì “LLSX tuy là kết quả năng lực thực tiễn của con người nhưng bản thân năng thực tiễn ấy lại bị quy định bởi những điều kiện khách quan trong đó con người ta sống, bởi những hình thái và những LLSX đã có trước họ không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra” (Mác nói) c/ Khái niệm QHSX - Định nghĩa: QHSX là quan hệ giữa người với người trong SX vật chất, thể hiện ở QH sở hữu đối với TLSX, quan hệ trong tổ chức quản lý SX và trao đổi hoạt động cho nhau, quan hệ trong phân phối sản phẩm do XH tạo ra - Kết cấu: QHSX được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản (QH sở hữu, QU quản lý, QH phân phối) + QH sở hữu: QH giữa người với người trong việc chiếm hữu TLSX + QH quản lý: QH giữa người với người + QH phân phối: Phân phối của cải do con người làm ra è Trong các yếu tố cấu thành QHSX, QH sở hữu là QH cơ bản, QH trung tâm của QHSX, nó quy định tính chất của QHSX, và nó giữ vai trò quyết định đối với QH quản lý và QH phân phối. Ngược lại, QH quản lý cũng tác động trở lại to lớn đến QH sở hữu, nó có thể thúc đẩy QH sở hữu phát triển nhưng cũng có thể kìm hãm thậm chí làm biến dạng QH sở hữu Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX * Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX - LLSX là nội dung của QHSX, là hình thức của quá trình SX vật chất (cũng tức là phương thức SX), mà nội dung thì quyết định hình thức, điều đó có nghĩa là LLSX giữ vai trò quyết định đối với QHSX. - Xu hướng của SX vật chất không ngừng biến đổi phát triển, sự phát triển ấy bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao động, LLSX phát triển sẽ buộc QHSX biến đổi theo để phù hợp với nó Tính qui luật thể hiện: - Sự phù hợp của QHSX với trình độ LLSX là sự phù hợp của những mặt đối lập, thể hiện ở chỗ LLSX biến đổi phát triển không ngừng còn QHSX thì có tính ổn định tương đối, khi LLSX phát triển đến 1 trình độ nhất định thì QHSX trở nên không còn phù hợp với nó nữa à Mâu thuẫn giữa chúng ngày càng trở nên gay gắt, tất yếu LLSX sẽ đòi hỏi thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cho phù hợp với nó, QHSX mới lại tiếp tục thúc đẩy LLSX phát triển rồi đến 1 lúc nào đó mâu thuẫn giữa chúng lại trở nên gay gắt à LLSX lại đòi hỏi phá vỡ QHSX cũ thay bằng QHSX mới cho phù hợp với nó.. àCứ như vậy, tình trạng phù hợp rồi không phù hợp rồi phù hợp... đan xen lẫn nhau, thay thế lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình tác động qua lại biện chứng giữa LLSX với QHSX thúc đẩy nền SX vật chất cũng như XH phát triển không ngừng, từ PTSX này lẫn PTSX khác, từ hình thái KT-XH này lên hình thái KT-XH khác ngày càng cao - Sự biến đổi phát triển của LLSX, QHSX, PTSX được thực hiện thông qua hoạt động của con người trong XH có giai cấp, sự biến đổi ấy được thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng XH Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX - QHSX tuy bị quyết định bởi trình độ của LLSX nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối vì nó quy định mục đích XH của SX, quy định khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất,lợi ích tinh thần’ qui định hình thức tổ chức quản lý SX, quản lý XH nên nó có thể hình thành một hệ thống những nhân tố có thể tác động trở lại đối với sự phát triển của LLSX. QHSX là hình thức XH của quá trình SX vật chất, vì thế nó có thể tác động trở lại LLSX (tức nội dung) theo những xu hướng sau (vd: hình thức bố trí không phù hợp à 2 cháu bé sinh ra tim ở bên ngoài, não bên ngoài...) è Nếu QHSX phù hợp với trình độ LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển vì nó đưa ra được phương thức phối hợp tối ưu giữa người lao động với TLSX, nó đưa ra được hình thức tổ chức quản lý cao hơn, cách thức phân phối hợp lý hơn, thông qua yếu tố lợi ích, nó thúc đẩy người lao động hăng hái làm việc, qua đó nó thức đẩy nền SX cũng như LLSX phát triển è Nếu QHSX không phù hợp với trình độ LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX, QHSX sẽ trở nên không phù hợp và kìm hãm LLSX khi + Nó quá lạc hậu + Nó vượt trước quá xa, giả tạo do sai lầm duy ý chí + Khi các yếu tố cấu thành QHSX (sở hữu, quản lý, PP) không đồng bộ với nhau Vận dụng qui luật này ở nước ta. a/ Xem xét LLSX: LLSX ở nước ta hiện nay nhìn chung là trình độ thấp, hơn nữa lại phát triển không đều (đa dạng trình độ) giữa các vùng, các miền, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Để thúc đẩy sực phát triển của LLSX ở nước ta cần áp dụng 1 số giải pháp lớn sau đây: - Một: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghệ hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển TLSX (công cụ lao động) - Hai: Phát huy nguồn lực con người à yếu tố cơ bản và đặc biệt - Ba: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế (VN mở cửa hội nhập với thế giới à nguyên lý MLHà hội nhập có cơ hội phát triển nhưng cũng kèm theo nguy cơ và hội nhập không hòa tan) - Bốn: Đẩy mạnh phát triển KH kỹ thuật - Năm: Đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng QHSX nhằm tạo nên sự phù hợp của QHSX với trình độ LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển (vô cùng quan trọng) QHSX thời kỳ trước đổi mới: - Do tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí muốn có ngay CNXH trong thời gian ngắn, chúng ta đã đồng nhất việc cải tạo các thành phần kinh tế, các QHSX không XHCN, với xóa bỏ chúng , thiết lập ngay nền kinh tế 1 thành phần dựa trên 1 loạt QHSX gần nhất đẩy QHSX vượt lên quá xa so với trình độ của LLSX, xác định nền kinh tế hiện vật, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ mô hình phần nào đó tỏ ra phù hợp với điều kiện chiến tranh nhưng sau khi hòa bình lập lại, chúng ta đã kéo quá lâu mô hình ấy làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng QHSX sau đổi mới: - Trước tình hình ấy, Đảng Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, công cuộc đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy và trước hết là tư duy kinh tế, từ đó dẫn đến đổi mới cơ cấu kinh tế, chuyển từ kinh tế 1 thành phần sang nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng QHSX phù hợp với trình độ vừa tháp vừa không đều của LLSX, chuyển từ nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa, chuyển từ nền kinh tế KT KH hóa tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường nhưng trong nền kinh tế nhiều thành phần, do chủ thể của các thành phần kinh tế chạy theo những lợi ích khác nhau nên dẫn đến cuộc đấu tranh định hướng gay gắt, để đưa nền kinh tế ấy phát triển theo đúng con đường XHCN thì đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vao trò lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý nhà nước từng bước làm cho kinh tế nhà nước giữa được vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Phân tích những biểu hiện đậc thù của vấn đề này ở Việt Nam. - Định nghĩa về giai cấp của Lênin như sau: “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ, trong một hệ thống SX XH nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động XH, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ & về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn người này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ KT-XH nhất định”. Định nghĩa trên cho thấy: (1) những tập đoàn người đông đảo trong xã hợi và có thể ở tầm phạm vi quốc tế, đây là chuẩn mức quan trọng để xác định trong một xã hội nhất định có những g/c nào; (2) địa vị được xác định bằng sự phân định cơ bản trên 3 phương diện có quan hệ thống nhất với nhau là: sở hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức lao động XH, phương thức và quy mô thu nhập của cải; (3) Đây là sự hợp pháp hóa địa vị và sự chiếm đoạt lao động giữa tập đòan này với tập đoàn khác bằng một thể chế nhà nước và đó là thực chất đối kháng g/c. Từ đây có thể rút ra những kết luận sau: (1) Sự tồn tại g/c là 1 tất yếu của lịch sử do trình độ phát triển còn hạn chế của LLSX và do đó sự tồn tại tất yếu của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; (2) Sự tồn tại của g/c là khách quan chứ không là hiện tượng vĩnh viễn, XH loài người đã từng trải qua giai đoạn lịch sử không có g/c và cũng sẽ tất yết phát triển đến XH không có g/c đó là XH cộng sản tương lai; (3) Sự đối kháng trong chế độ kinh tế là nguyên nhân dẫn đến đối kháng giữa các g/c trong XH nhất định, nói cách khác là nguyên nhân phát sinh g/c là từ chế độ kinh tế từ cơ sở kinh tế của XH. * Địa vị của giai cấp là tổng hợp những điều kiện tồn tại vật chất cơ bản qui định sự tồn tại của cả giai cấp ấy.. Cụ thể địa vị của giai cấp được qui định bởi quan hệ giữa người với người trong sở hữu TLSX, trong tổ chức quản lý SX & trong phân phối sản phẩm. * Thực chất của quan hệ giai cấp đó là giữa bóc lột và bị bóc lột, điều hành và bị điều hành, thống trị và bị trị. - Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp được xác lập trong quan hệ KT của một hệ thống SX XH nhất định mà lợi ích cơ bản là đối lập nhau không thể điều hòa được. Định nghĩa dân tộc theo triết học : Dân tộc là cộng đồng XH tộc người ổn định bền vững, cộng đồng người về ngôn ngữ, cộng đoàng về lãnh thổ, cộng đồng về KT, VH, tâm lý tính cách, cộng đồng về NN, pháp luật. Định nghĩa trên cho thấy: Dân tộc có những đặc trưng sau đây : (1) Cộng đồng về lãnh thổ, biểu tượng về 1 chủ quyền của dân tộc trong quan hệ với các quốc gia đến dân tộc khác, mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, thống nhất không bị chia cắt. Lãnh thổ bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển (kể cả đảo và hải đảo) thuộc về chủ quyền quốc gia; (2) Cộng đồng về kinh tế, mỗi dân tộc đều có nền kinh tế cơ bản thống nhất quốc gia; (3) Cộng đồng về ngôn ngữ, mỗi dân tộc gồm nhiều tộc người với những ngôn ngữ khác nhau nhưng phải có 1 ngôn ngữ chung thống nhất dùng để giao tiếp; (4) Cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa độc đáo của riêng mình hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử; (5) Cộng đồng về nhà nước và pháp luật, mỗi dân tộc quốc gia là sự thống nhất của nhà nước và pháp luật thống nhất. Tóm lại : Một dân tộc phải có đầy đủ 5 đặc trưng trên. Sự hình thành dân tộc: Nhân loại đã lần lượt trải qua các hình thức cộng đồng người từ thấp đến cao đó là thị tộc – bộ lạc – bộ tộc – dân tộc. Con đường hình thành và phát triển của các dân tộc hết sức đa dạng và phong phú phụ thuộc vào điều kiện lịch sử XH nhất định. Ở châu âu, các dân tộc hình thành gắn liền với g/c tư sản và CNTB. Ở phương đông thì các dân tộc hình thành trước chủ nghĩa tư bản gắn liền với g/c phong kiến. Ở châu phi, châu mỹ la tinh và châu úc các dân tộc hình thành dưới tác động của g/c tư sản và CNTB, đó là con đường hình thành hết sức đa dạng và phong phú và thường gắn liền với chiến tranh xâm lược và di dân, do đó các dân tộc ở đây thường hình thành bằng con đường bạo lực, cưỡng bức thậm chí tàn sát đẫm máu. Ở VN cũng như các nước phương đông, dân tộc VN được hình thành trước CNTB gắn liền với g/c phong kiến 2/ Vai trò quyết định của GC đối với dân tộc : Trong dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trò quyết định tới sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Phương thức sản xuất sinh ra giai cấp nên phương thức sản xuất gián tiếp quy định bản chất của dân tộc. Giai cấp nào lãnh đạo dân tộc thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó. Trong một dân tộc có nhiều GC, GC nào giữ địa vị thống trị KT thì cũng giữ vai trò chi phối đối với dân tộc thể hiện cụ thể như sau : - GC chi phối sắc thái dân tộc, GC giữ địa vị thống trị nền KT sẽ đưa ra hệ thống luật pháp phù hợp với lợi ích của nó, nó buộc cả dân tộc phải tuân theo dần dần trở thành sắc thái dân tộc. - GC chi phối tâm lý dân tộc : (Ví dụ : Dân ở nước Mỹ xuất hiện tâm lý siêu cường nhất thế giới) - GC chi phối xu hướng phát triển dân tộc cụ thể là nếu giai cấp thống trị trong dân tộc đưa ra đường lối đúng thì sẽ thúc đẩy dân tộc phát triển còn nếu đưa ra đường lối sai thì sẽ làm cho dân tộc rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng thậm chí thảm họa. Vai trò của dân tộc đối với GC: Theo quan điểm của CN MLN thì GC giữ vai trò chi phối đối với dân tộc nhưng CN MLN không tuyệt đối hóa vai trò của GC mà đánh giá rất cao vai trò của dân tộc & sự tác động tích cực trở lại của dân tộc đối với GC thể hiện qua các ý kiến sau : + Đặc điểm của dân tộc ảnh hưởng đến đặc điểm của GC. + Trình độ của dân tộc là cơ sở cho trình độ phát triển của GC. + Dân tộc là môi trường và địa bàn tạo nên kết cấu giai cấp và cũng là môi trường địa bàn diễn ra mọi cuộc đấu tranh GC, mọi cuộc cách mạnh XH. Phân tích những biểu hiện đậc thù của vấn đề này ở Việt Nam Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ đấu tranh giải giai cấp vá đấu tranh dân tộc: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Ở VN vấn đề quan hệ dân tộc và g/c hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề không chỉ có ý nghĩa thực tiễn trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà còn nói lên là 1 trong những vấn đề lý luận cần nghiên cứu, nhận thức sau sắc thêm. Cụ thể là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản: Đảng cộng sản do HCM sáng lập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-lenin để g/q đúng đắn quan hệ giữa đấu tranh g/c và đấu tranh dân tộc. Đảng đã lãnh đạo cộng đồng dân tộc đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ vận mệnh của mình và đưa cách mạng giải phóng dân tộc ở 1 nước thuộc địa vào quỹ đạo của các mạng vô sản thế giới. Khi nói đến cách mạnh vô sản là nói đến con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, khẳng định 1 hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải phóng hoàn toàn mới, khác hẳn về chất so với lãnh tụ của phong trào yêu nước trước đó ở VN. Vì vậy vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liền với g/c. Dân tộc từ đây gắn liền với g/c vô sản do g/c vô sản đại biểu. Ngày nay để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình g/c công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để đưa cách mạng tiến lên, chỉ có g/c vô sản mới có khả năng dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, ngọn cờ độc lập và chủ quyền dân tộc, ngọn cờ tiến bộ và phồn vinh của dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là vấn đề xuyên suốt toàn bộ đường lối CMVN: Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết từng bước và triệt để cùng với thắng lợi của CNXH, CNXH có sức mạnh xóa bỏ áp bức g/c đồng thời xóa bỏ áp bức dân tộc đảm bảo quyền của dân tộc tự do phát triển tất cả các giá trị của mình và độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong CMVN. Độc lập gắn với dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối CMVN đó là con đường phát triển XH có tính chất rút ngắn biện chứng mang tính lịch sử - cụ thể và hợp quy luật - hiện thân sinh động sâu sắc của TTHCM hiện thực tất yếu và sáng tạo của chủ nghĩa Mac-lenin trong thực tiễn VN. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của VN tiến trình của 2 sự nghiệp giải phóng đó là: giải phóng dân tộc khỏi áp bức nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của g/c công nhân, điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các g/c và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Thực tiễn cho thấy trong bất cứ giai đoạn nào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích của g/c với lợi ích của dân tộc. Nền độc lập thực sự của dân tộc, tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu lý tưởng của g/c công nhân. Bởi vậy ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan điểm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, những bước đi và biện pháp phù hợp. Ngày nay chủ nghĩa Mac-Lenin và TTHCM đang khẳng định giá trị trường tồn, nhất là bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kỳ nguy hiểm, khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp về pháp quốc tế. Sự lãnh đạo của đảng và quyền lực nhà nước ở trong tay quần chúng nhân dân là tiền đề chính trị, là điều kiện tiên quyết để đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Chính vì thế mà kẻ thù của độc lập dân tộc và CNXH luôn chĩa mũi nhọn công kích vào vai trò lãnh đạo của đảng. Nói xây dựng CNXH và định hướng XHCN mà không chủ trương giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng, củng cố chính quyền nhân dân thì chỉ là ảo tưởng. Cách mạng giải phóng dân tộc kết hợp CM vô sản ở chính quốc: Phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là nhân tố bị động phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển, trái lại vẫn có thể chủ động tiến lên giành thắng lợi thậm chí có thể thắng lợi trước, từ đó có phần hỗ trợ tích cực cho cách mạng ở các nước tư bản. Đảng CSVN do chủ tịch HCM sáng lập đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH để lãnh đạo cộng đồng dân tộc đứng lên đấu tranh làm chủ vận mệnh của mình. Người đã kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tư tưởng đó dẫn dắt dân tộc VN từ một dân tộc thuộc địa trở thành dân tộc đầu tiên ở Đông Nam Á đập tan xiềng xích của chủ nghĩa thực dân. Một trong những bài học lớn nhất của CMVN là bài học về sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay Đảng CSVN chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nắm vững độc lập dân tộc và CNXH đó là đường lối đúng đắn đưa CMVN vượt qua khó khăn phức tạp hiện nay để tiếp tục tiến lên. Sau khi dân tộc được giải phóng phải quá độ lên CNXH: Vấn đề dân tộc chỉ có thể giải phóng từng bước và triệt để cùng với thắng lợi của CNXH. CNXH có sức mạnh xóa bỏ áp bức giai cấp, đồng thời xóa bỏ áp bức dân tộc, đảm bảo quyền của các dân tộc tự do phát triển tất cả các giá trị của mình. Vì thế sau khi giành được độc lập, dân tộc được giải phóng ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, phải quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm tình hình đất nước, tránh giáo điều rập khuôn, những hình thức, bước đi biện pháp của những nước khác. Ngày nay đảng ta chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, nắm vững độc lập dân tộc và CNXH đó là đường lối đúng đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn phức tạp để tiếp tục tiến lên. Sự nổi trội của tính dân tộc trong quan hệ giai cấp và dân tộc: Sự nổi trội của tính dân tộc trong quan hệ với tính giai cấp là một đặc trưng trong sự phát triển VN cả trong lịch sử và cả trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Khẳng định điều này không có nghĩa là tách rời tính giai cấp với tính dân tộc, hoặc phủ nhận tính giai cấp mà tuyệt đối hóa tính dân tộc mà sự nổi trội này không làm thay đổi tính giai cấp là cơ sở trong việc giải quyết quan hệ dân tộc và quốc tế. Sự nổi trội của tính dân tộc thể hiện: Đấu tranh giai cấp hòa quyện chặt chẽ với đấu tranh dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử VN. Lịch sử VN trước hết biểu hiện là lịch sử đấu tranh cho sự tồn tại của dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản trong bệ đỡ tư tưởng của hệ thống chính trị VN. Khi mất nước người VN không chấp nhận sự đô hộ của ngoại bang, nhất tề đứng lên chống lại để giành độc lập, khi đất nước giành được chủ quyền các nhà nước VN phát triển rực rỡ, gắn với các chiến công chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Tư tưởng yêu nước yêu dân tộc đã trở thành giá trị hàng đầu trong giá trị tư tưởng văn hóa VN. Ngày nay, giai cấp vô sản và hệ thống chính trị do đảng cộng sản lãnh đạo chỉ hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hệ thống đó là biểu tượng sinh động của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là công cụ để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước. Đây là sự vận dụng sáng tạo của đảng ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của đảng và nhà nước để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Quan đỉểm mác xít về bản chất của con người và ý nghĩa cùa vấn đề này trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hay duy vật siêu hình đều không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Mác. 1/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người Quan điểm về con người trong triết học Mácxít Triết học Mác quan niệm rằng: “Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội” - Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của thể xác . Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp tục phát triển của tự nhiên. Ph.Aêngghen viết : “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh học như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa - Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội. Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua đó tạo thành các mối quan hệ xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Sự tồn tại xã hội của con người gắn liền với sự tồn tại của ý thức. - Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệ thống nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần) Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn tại và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó; trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định. Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã hội, đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm tra các nhu cầu và hoạt động của mình. Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Trong mối quan hệ giữa thực thể tự nhiên và thực thể xã hội thì thực thể tự nhiên là tiền đề trên tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá”để mang giá trị văn minh con người, đến lượt nó nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để trở thành con người tự nhiên - xã hội. Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người Con người là thể thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Nếu xét con người là một chỉnh thể thì con người mang bản chất xã hội. Mác “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.” Con người sống trong cộng đồng người nào, sống trong chế độ xã hội nào thì mang bản chất của cộng đồng đó, chế độ xã hội đó. Con người quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy cho cùng, đều mang tính chất xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất, bao trùm các quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riệng biệt. Trong tính hiệnthực của nó, bản chất con con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Điều này khẳng định rằng không có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện mọi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và cả tư duy trí tuệ. Do đó, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động và biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nên khi xem xét về bản chất con người ta phải đặt con người trong không gian cụ thể, thời gian cụ thể, hoàn cảnh cụ thể. Nếu xét vềcác loại quan hệ thì có bao nhiêu loại quan hệ thì có bay nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất con người. Những quan hệ cơ bản có thể kể đến đó là quan hệ kinh tế, chính trị, đạo đức, huyết thống, hôn nhân trong các quan hệ ấy thì quan hệ kinh tế giữ vai trò quyết định vì khi kinh tế thay đổi thì bản chất con người sẽ thay đổi rất nhanh. Như vậy, bản chất của con người không được sinh ra mà được sinh thành. Bản chất con người hình thành và thay đổi theo sự hình thành các quan hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế. Vì vậy, để giải phóng con người thì phải tạo điều kiện tối ưu để con người phát huy tối ưu khả năng của mình. Trong đó quan hệ về kinh tế là quan hệ quan trọng nhất cho nên khi giải phóng con người cần xem trọng quan hệ này. Muốn giải phóng con người thì trước tiên những con người đó phải được giải phóng ra khỏi sự áp bức, bóc lột, giải phóng họ ra khỏi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Con người là chủ thể của lịch sử Với tư cách là thực thể xã hội, con người họat động thực tiễn tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, thúc đẩy sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội thì càng đóng vai trò là chủ thể. Thế giới lòai vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua họat động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm giới tự nhiên, tái tạo lại lại tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Mặt khác, trong quá trình cải biến giới tự nhiên thì con người vừa làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Họat động lao động sản xuất vừa là điều kiện tồn tại của con người, vừa là phương thức để biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua họat động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có họat động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của tòan bộ lịch sử xã hội lòai người. Không có con người từu tượng, chỉ có con người trong mỗi giai đọan phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Vì vậy, để phát triển bản chất của con người theo hướng tích cực thì cần phải làm cho hòan cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hòan cảnh trên nhiều phương diện khác nhau, nó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hòan cảnh trong bất kỳ giai đọan nào của lịch sử. Ý nghĩa cùa vấn đề này trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm 1 chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất năng lực của con người trong 1 quá trình biến đổi và phát triển XH nhất định + Vấn đề xây dựng con người mới: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Xây dựng con người Việt Nam hiện đại là yêu cầu cấp bách: Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình đổi mới. Thứ hai, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa. Thứ ba, phát huy nguồn lực con người là vấn đề chiến lược trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước xác định đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển; coi con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đều xuất phát từ con người, lấy con người làm trung tâm. Tăng trưởng và phát triển kinh tế vì con người, đi đôi với phát triển các mặt về văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ và cải thiện môi trường. Mục tiêu nhất quán của mọi chính sách xã hội đề ra đều hướng trọng tâm vào con người, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm những nhu cầu tối thiểu nhất của con người là ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, khám chữa bệnh và nâng cao thể chất con người Việt Nam. Để có thể phát huy vai trò nhân tố con người gắn với thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa để phát tiển nền kinh tế, đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu cần thực hiện các giải pháp:Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Hai là, nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực; Ba là, ổn định chính trị và mở rộng phát huy dân chủ; Bốn là, mở rộng giao lưu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; Năm là, Đẩy mạnh việc đấu tranh tham nhũng, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước. Câu 2b: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn? 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật: Trước khi tìm hiểu nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật ta làm rõ một số khái niệm liên quan đến nguyên tắc phát triển như sau: Vận động là gì?. Vận động là một thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất, vận động được hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.  Phát triển là gì?. Là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao (thay đổi về lượng), từ đơn giản đến phức tạp (thay đổi về chất), từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện (thay đổi lượng – chất), do việc giải quyết mâu thuẫn trong bản chất sự vật gây ra, được thực hiện thông qua bước nhảy về chất và diễn ra theo xu hướng phủ định của phủ định. Ở khía cạnh khác, phát triển cũng được xem là một khuynh hướng vận động tổng hợp của một hệ thống sự vật trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi – kết cấu tổ chức) của hệ thông sự vật theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của hệ thông – sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của hệ thống – sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò chủ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên. Theo cách hiểu này, trong quá trình phát triển của hệ thông sự vật vật chất xảy ra trong thế giới, không chỉ là sự thay đổi tiến bộ mà còn chứa trong mình những sự thay đôi thoái bộ tạm thời, không chỉ là sự thay đổi mà còn chứa trong mình những sự ổn định tương đối. Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng. phát triển trong thế giới tự nhiên vô sinh, hữu sinh, phát triển trong xã hội phát triển trong tư duy, tinh thần. Phát triển xảy ra khi có sự thay đổi/ chuyển hoá giữa các mặt đối lập, giữa lượng và chất, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái chung, giữa nguyên nhân và kết quả, giữa nội dung là hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa khả năng và hiện thực. Nội dung của nguyên lý phát triển là: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển. Phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra theo xu thế phủ định của phủ định. 2. Những yêu cầu của nguyên tắc phát triển: a) Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải: - Phát hiện những xu hướng, khả năng biến đổi, chuyển hoá giữa những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó. - Xây dựng được hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi của nó, từ đó, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển (bản chất) của sự vật hiện tượng. b) Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải: - Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng,.. tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra với nó. - Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế những khả năng tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho ta. 3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn: Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư duy) siêu hình, lối xem xét cứng nhắc, đầu óc bảo thủ, giáo điều,trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình. Nguyên tắc phát triển đòi hỏi chủ thể phải sử dụng các nguyên tắc kèm theo mới làm sáng tỏ bản tính vận động và phát triển tự thâm của sự vật như nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn, nguyên tắc phân tích lượng – chất, nguyên tắc phủ định biện chứng./. Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Trả lời: I. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển I.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển nguyên lý về sự phát triển Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chựng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật hiện tượng mới. Yêu cầu của nguyên tắc phát triển - Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng. - Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau. - Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ ...Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại kết quả gì Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.  Ngược lại nếu ko tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả gì Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội.  Nguyên tắc phát triển gợi mở cho chúng ta điều gì trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế giới. Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định “CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trãi qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbai_soan_ontapmontrietv2_4364.docx
Tài liệu liên quan