Nguồn gốc sự hình thái và phát triển hình thái chữ viết của các con số trong văn tự Hán

The morphology of figures in Chinese script was formed in early days. Although going by several thousand years of history, but some of the morphology of figures in Chinese script still retain relatively complete. The morphology of the other figures in the development stage has different variations but there are still some relations and certain similarities. Therefore, researching on the origin of formation and development of the morphology of figures in Chinese script as well as its variations helps us to have a perspective on the most long-existing character system of this world.

pdf5 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn gốc sự hình thái và phát triển hình thái chữ viết của các con số trong văn tự Hán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tô Vũ Thành Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 151 - 155 151 NGUỒN GỐC SỰ HÌNH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI CHỮ VIẾT CỦA CÁC CON SỐ TRONG VĂN TỰ HÁN Tô Vũ Thành* Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Hình thái chữ viết của con số trong văn tự Hán hình thành từ rất sớm. Mặc dù đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhưng một số hình thái chữ viết của con số vẫn còn được bảo lưu tương đối hoàn chỉnh, những hình thái của các con số khác trong các giai đoạn phát triển đã có những biến thể khác nhau nhưng vẫn có những liên quan và nét tương đồng nhất định. Vì vậy, tìm hiểu nguồn gốc và sự hình thành hình thái chữ viết của các con số trong văn tự Hán cũng như sự biến đổi về hình thể của chúng phần nào cũng giúp chúng ta có thêm một góc nhìn về hệ thống văn tự lâu đời nhất thế giới này. Từ khóa: Hình thái, chữ viết, con số, Văn tự Hán,ký hiệu Khi bàn luận đến sự hình thành ký hiệu của các con số, chúng ta cần phải quay ngược trở lại quá trình hình thành chữ viết để tìm hiểu nguồn gốc của chúng. Vì sự xuất hiện hình thái chữ viết của con số là một phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của văn tự. Như chúng ta đều biết, văn tự là ký tự dùng để ghi chép ngôn ngữ, mà trong số những văn tự được phát hiện sớm nhất từ thời nguyên thủy thì phần lớn đều là những ký hiệu hoặc là hình vẽ. Những hình vẽ và ký hiệu khi đó thực tế vẫn chưa phải là một hệ thống văn tự hoàn chỉnh, nhưng chính trong ký hiệu nguyên thủy mà các nhà khảo cổ và văn tự học tìm thấy thì cũng đã xuất hiện các kiểu ký hiệu dùng để ghi chép con số.* Con số trong tiếng Hán xuất hiện từ rất sớm. Có thể nói, cho đến nay, đây là hệ thống con số được lưu giữ hoàn chỉnh nhất. Về nguồn gốc cách viết con số trong tiếng Hán, đã có nhiều học giả nghiên cứu và mỗi người đều có quan điểm riêng, song chung qui lại có 3 quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: chữ số là mô phỏng từ hình các ngón tay. Quách Mạt Nhược viết trong cuốn “Nghiên cứu Văn tự giáp cốt” rằng: “Con số hình thành từ tay, cổ văn dùng一二三一 để miêu tả 1,2,3,4, đó chính là hình dáng của các ngón tay. Một ngón tay cái là 1, ngón cái thêm ngón trỏ là 2,cộng với ngón giữa nữa là 3, cộng tiếp ngón đeo nhẫn là 4, một nắm tay là 5, ngón cái thêm ngón út biểu thị 6, cả bàn tay xòe ra nghĩa là 10”[1]. * Tel: 0914 806123, Email: suwucheng@gmail.com Nhà nghiên cứu Đường Lan cũng cho rằng, con số được bắt nguồn từ ngón tay, nhưng cách giải thích của ông thì không giống Quách Mạt Như 一二三ợc: “ ”là 1,2,3,4, tức ngón thứ nhất đến ngón thứ 4, số 5 thì là ,6 là ,7 có hình十,8 lại là八,đều là hình các ngón tay giao nhau. 5 và 7 là một nhóm, 2 ngón tay giao nhau, 6 và 8 là 1 nhóm, 6 thì 2 đầu ngón tay chạm vào nhau, còn 8 thì tách ra, 9 thì có hình ‘ ’ giống như cánh tay, 10 chỉ là ‘丨’ như hình 1 ngón tay” [2]. Con số trong văn tự Hán được hình thành từ những hoạt động ghi chép số ban đầu của dân tộc Hán, trong đó dùng ngón tay là một cách trực tiếp, đơn giản và thông dụng nhất. Do đó, những suy luận của Quách Mạt Nhược và Đường Lan là có lí, đồng thời cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu về nguồn gốc sự hình thành cách viết các con số. Rất nhiều học giả đồng ý với quan điểm này và lấy đây làm căn cứ giải thích. Điều này cũng cho chúng ta liên tưởng đến cách biểu đạt các con số bằng tay hiện nay của người Trung Quốc: Từ 1 đến 5 khá đơn giản, chỉ xòe lần lượt các ngón tay ra theo số lượng là biểu thị được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tô Vũ Thành Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 151 - 155 152 6: ngón cái và ngón út xòe ra, các ngón kia nắm lại. 7: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa chụm lại, các ngón khác nắm lại trong lòng bàn tay 8: ngón cái và ngón trỏ xòe ra thành 1 góc vuông, tạo thành hình chữ L 9: ngón trỏ cong lại như móc câu, các ngón khác nắm lại. 10: nắm cả bàn tay lại Trên thực tế, dùng ngón tay biểu thị con số là cách thường gặp. Ngoài cách thường thấy trên đây, mọi người còn hay dùng cách khác, như lấy hai ngón trỏ đặt vuông góc với nhau hoặc xòe cả hay bàn tay ra đều là 10. Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào những điều trên mà cho rằng cách viết các con số hình thành từ ngón tay thì e là chưa đủ sức thuyết phục. Cách giải thích của hai nhà khoa học trên là có cơ sở, nhưng phân tích từ góc độ khoa học, thì vẫn chưa đủ căn cứ. Bởi vì, trong các hình vẽ và kí hiệu đã phát hiện được của kim văn và giáp cốt, thì không có tài liệu và hình vẽ nào nói về vấn đề này, mà đây chỉ là suy luận mà thôi. Hơn nữa, nếu căn cứ vào suy luận trên rồi mô phỏng theo các động tác đó thì thấy khá phức tạp và không thuận tay. Còn nữa, tư duy của người thời nguyên thủy còn nhiều hạn chế. Do đó, có một số học giả cũng không nhất trí với quan điểm trên. Trong cuốn “tư duy văn hóa chữ Hán” của mình, tác giả Diêu Cam Minh cho rằng, quan điểm mà hai nhà khoa học trên đây đưa ra “chỉ là giả thuyết, còn thực tế có phù hợp với tư duy của người cổ xưa không thì rất khó nói”[3] Quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài ngón tay ra, người xưa còn dùng rất nhiều vật khác để ghi con số, điển hình cho quan điểm này là Hà Cửu Doanh, Hồ Song Bảo, Trương Mãnh với cuốn “Tổng quan về văn hóa chữ Hán của Trung Quốc”. Họ cho rằng, khả năng ghi con số của ngón chân ngón tay là rất hạn chế, và cũng không phải là cách duy nhất của người xưa. Do đó, ghi lại con số không nhất thiết chỉ có bằng hình các ngón tay”[4]. Các học giả này còn chỉ ra rằng, người cổ xưa còn dùng nhiều công cụ khác để ghi con số, như vỏ sò, đá, dây thừng, tre trúc các công cụ này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành cách viết các con số. Vương Triều Trung, Vương Văn Học trong cuốn “Từ điển diễn chú hình nghĩa Hán tự thường dùng” cũng cho rằng, hình dáng của chữ Hán với việc thắt nút dây để biểu thị con số có quan hệ với nhau. Quan điểm thứ ba cho rằng, cách viết của số từ trong giai đoạn ban đầu là dùng các hình vẽ trừu tượng hoặc gấp khúc, chứ không chỉ có ngón tay, thắt dây hoặc tre gỗ, mà là những kí hiệu biểu ý. Quan điểm này là do nhà cổ văn tự học Cừu Tịch Khuê đưa ra, ông cho rằng: “Trong giai đoạn văn tự được thể hiện dưới các hình vẽ đã có một số từ có thể dùng hình vẽ trừu tượng để biểu thị. Ví dụ như: những con số nhỏ, có thể kế thừa cách dùng các vạch, các chấm để biểu thị. Điển hình là ‘一、 二、 三、’ ‘ ’ ‘ ’ ‘ ’, (1,2,3,4) trong chữ hán cổ”[5]. Ngoài ra, ông còn cho rằng, “ ”( ) 、năm “ ”( ) 、 十 (sáu “ ” b ) 、 八ảy “ ” (tám) trong giáp cốt văn là tiền thân của con số, và cũng rất có khả năng là kí hiệu ghi lại con số của thời tiền sử. Có thể thấy, các quan điểm trên đây đều có những cơ sở nhất định. Song, chúng tôi thiên về quan điểm của tác giả Cừu Tích Khuê, tức hình thái chữ viết của các chữ Hán biểu thị con số bắt nguồn từ các kí hiệu biểu ý, rồi phát triển dần thành kí hiệu của văn tự. Bởi vì, trong xã hội nguyên thủy, con người đã biết dùng rất nhiều các hình vẽ để miêu tả và chỉ sự việc, nên kí hiệu ghi số rất có thể phù hợp với việc biểu thị con số. Hơn nữa, từ những kí hiệu biểu thị con số trong tiếng Hán c ( 一 、 二、 三ổ “ ” “ ” “ ”、“ ”) ,cũng có thể nhận ra một kiểu nguyên tắc cấu tạo số học, vì như trên đã dẫn, người Maya và Babylon cổ dùng kí hiệu và mũi tên cũng tương tự như cách này. Quá trình hình thành và phát triển của Văn tự Hán có thể chia làm hai giai đoạn lớn, giai đoạn Văn tự Cổ đại và giai đoạn Lệ thư, Khải thư. Giai đoạn đầu khởi nguồn từ đời nhà Thương, kết thúc vào đời nhà Tần (Cuối thế kỷ thứ III trước Công Nguyên). Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ đời nhà Hán cho đến nay. Giai đoạn đầu của quá trình hình thành văn tự đã xuất hiện một số hình thái chữ viết của con số, nhưng Văn tự Hán đã trải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tô Vũ Thành Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 151 - 155 153 qua mấy ngàn năm lịch sử, vì vậy hình thái chữ viết cũng có rất nhiều những thay đổi. Chúng ta cùng nhìn lại và khảo sát sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết các con số từ 1 (một) đến 10 (mười) trong hệ thống Văn tự Hán. Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số một “一” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số hai “二” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số ba “三” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số bốn “四” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số năm “五” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số sáu “六” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số bảy “七” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số tám “八” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số chín “何” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Sự thay đổi và biến hóa của hình thái chữ viết con số mười “十” trong Văn tự Hán: Giáp cốt văn Kim Văn Tiểu triện Khải thư Từ quá trình biến đổi của từng con số được thể hiện trên đây, chúng ta có thể thấy được hình thái chữ viết của mười con số trong tiếng Hán từ Giáp cốt văn đến nay có không ít những vấn đề cần thảo luận sâu hơn nữa. Tuy nhiên, trong số đó thì hình thái của ba con số 1 (một), 2 (hai), 3 (ba) là gần như không thay đổi, đây cũng là một đặc điểm hết sức thú vị trong Văn tự Hán nói chung và hình thái chữ viết của con số nói riêng. Hình thái của các con số 1, 2, 3 tuy rất đơn giản nhưng thể hiện sự sáng tạo và tính khoa học rất cao của người cổ đại Trung Quốc. Bởi vì, trải qua hàng nghìn năm lịch sử nhưng hình thái của chúng vẫn không hề thay đổi. Trong quá trình phát triển của nhân loại, qui luật đào thải là một hiện tượng hết sức phổ biến, từ xã hội nguyên thủy đến xã hội hiện nay, để phát triển, loài người đã sáng tạo ra không biết bao nhiêu sản phẩm, nhưng không phải tất cả đều tồn tại đến bây giờ. Những sản phẩm không tốt, không có tính khoa học, không được loài người chấp nhận đều bị đào thải, để cho những thứ tốt hơn, phù hợp hơn thay thế chúng. Con số trong Văn tự Hán cũng không nằm ngoài qui luật đó, vì vậy sự ổn định trong hình thái chữ viết của ba con số này đã chứng minh hình thái của chúng không phải là vô tình phát hiện hay ngẫu nhiên sinh ra mà nó thực sự được sáng tạo bởi trí tuệ con người, đồng thời thể hiện sự kết hợp hoàn mỹ giữa khoa học và tư tưởng triết học phương đông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tô Vũ Thành Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 151 - 155 154 Bên cạnh tính ổn định rất cao của Văn tự Hán, mà thông qua sự thay đổi hình thái chữ viết của những con số còn lại, chúng ta còn thấy được sự kế thừa trong hình thái chữ viết của chúng qua từng giai đoạn. Đây cũng là một nhân tố rất quan trọng việc phát triển, duy trì và tồn tại cho đến tận bây giờ của các con số trong Văn tự Hán. Hình thái chữ viết của con số 4 (bốn) trên giáp cốt văn là bốn nét chồng lên nhau “ ”, có lẽ là cùng một hệ với ba con số một, hai, ba “一、二、三”. Nhưng đến giai đoạn Kim văn (văn tự khắc trên đồng) thì viết thành “ ”,các hình thái xuất hiện về sau cũng gần giống như chữ viết trên Kim văn. Hứa Thận - Nhà văn tự học nổi tiếng đời nhà Hán, cho rằng ‘四’ là hình chia làm bốn. Và thực tế lúc đầu là chữ “呬”, giống như cái miệng đang mở ra để hít thở. Thực tế, hình thể của con số bốn từ giáp cốt văn “ ” đến Kim văn biến thành “ ” là một sự khác biệt quá lớn về hình thái, sự thay đổi này đến nay vẫn còn là một ẩn số chưa có lời giải. Về sau người ta phán đoán rằng, có khả năng đến đời Thương Chu (tức thời đại đồ đồng), khi đó người ta không tìm thấy được hình thái chữ viết của con số bốn trên giáp cốt văn nên phải tìm chữ khác để thay thế. Con số 5 (năm) trên giáp cốt văn là hai nét đan chéo với nhau như dấu X “ ”. So với hình thái chữ viết bây giờ thì có sự khác biệt rất lớn, nhưng nếu quan sát kỹ hình thái chữ viết của con số 5 qua từng giai đoạn, thì chúng ta lại thấy nó có nhiều sự liên quan và tương đồng với nhau. Đường Lan cho rằng, số 5 là dùng hai ngón tay đan chéo vào với nhau, còn tác giả Trương Khiêm Quyền lại suy luận hình thái chữ viết của con số 5 giống như các đường chỉ tay giao nhau trong lòng bàn tay. Nhưng theo quan điểm của nhà văn tự học Vu Tỉnh Ngô, thì từ số năm đến số chín không phải là chữ tượng hình, bởi từ số năm trở đi các nét bắt đầu nhiều, nên không thể dùng cách thêm nét để biểu thị nữa mà chỉ có thể dùng hai nét giao chéo với nhau. Vì vậy, tác giả cho rằng con số năm, sáu, bảy, tám, chín “ ”、“ ”、 十、“ ” “ ” đều là các chữ phi tượng hình, do hai nét giao nhau kết hợp dùng để chỉ sự. Sau con số 5 trở đi thì hình thái chữ viết của số 8 là thay đổi ít nhất, từ Giáp cốt văn đến Kim văn, Tiểu triện và Khải thư đều do hai nét hợp thành. Còn hình thái của số 6 thì rất khó để có thể tìm ra những lời giải thích hợp lý, có một số tác giả Trung Quốc cho rằng, hình thái ở mỗi giai đoạn là mượn từ các chữ viết khác nhau. Riêng hình thái chữ viết của số 7, số 9 và số 10 được thể hiện qua các giai đoạn phát triển thì chúng ta thấy rõ được sự liên quan với nhau, và thể hiện tính kế thừa hết sức rõ rệt. Số 7 trên giáp cốt văn “十” lại viết giống như số mười đang dùng bây giờ “十”, còn số mười lúc đầu lại được viết như một nét sổ “丨”, và Vu Tỉnh Ngô đã cho rằng, hình thái chữ viết của số 10 đồng nhất với số một, nhưng sợ nhầm lẫn nên viết đứng thẳng lên. Có lẽ, cách lý giải này cũng phần nào có lý. Mặc dù hình thái chữ viết của các con số trong Văn tự Hán đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhưng một số hình thái chữ viết vẫn còn được bảo lưu tương đối hoàn chỉnh, còn lại những hình thái của các con số khác trong các giai đoạn phát triển khác nhau vẫn có những liên quan và nét tương đồng nhất định. Mặc dù, cho đến nay các nhà văn tự học vẫn chưa thể giải thích hết được những sự thay đổi của chúng, song qua đó chúng ta càng hiểu thêm được trí tuệ và sức sáng tạo đặc biệt của người Trung Quốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. 引引引引引《 甲甲甲甲甲甲》 中《 五十释 》 一甲。 [2]. 唐兰《 古甲甲文导导》 , 社齐齐齐 , 年,1981 409- 410页 [3].姚姚铭,《 甲甲字字汉 汉》 ,北北: 首首 首首文首首社师 , , 页2008 162 [4].何何何、胡胡胡、 猛张 《 中中 甲甲字首汉 汉》 北北: 北 北首文首首社, , 页。1995 212 [5].裘 裘锡 《 甲甲文文文》 北北: 商 商务 齐务, , 页2007 3 [6]. 于于于《 甲甲甲甲 甲诂 》 ,中 中华齐 , 年。1996 [7]. 于于于《 甲甲甲甲 甲释 》 ,中 中华齐 , 年。2009 [9]. 引引引《 甲甲甲甲甲甲》 , 科文首首社1982年 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tô Vũ Thành Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 151 - 155 155 SUMMARY THE ROOT OF FORMATION AND DEVELOPMENT OF THE MORPHOLOGY OF FIGURES IN CHINESE SCRIPT To Vu Thanh* Faculty of Foreign Languages - TNU The morphology of figures in Chinese script was formed in early days. Although going by several thousand years of history, but some of the morphology of figures in Chinese script still retain relatively complete. The morphology of the other figures in the development stage has different variations but there are still some relations and certain similarities. Therefore, researching on the origin of formation and development of the morphology of figures in Chinese script as well as its variations helps us to have a perspective on the most long-existing character system of this world. Key words: morphology; character; figures; ;chinese script notation. * Tel: 0914 806123, Email: suwucheng@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_33446_37266_792012101953912012_split_24_268_2052332.pdf