1. Kết luận
Bắt gặp 4 loại bệnh do ký sinh trùng đơn
bào gây ra ở cá mặt quỷ bố mẹ, bao gồm bệnh
Cryptocaryonosis (tác nhân là Cryptocaryon
irritans), bệnh Amyloodioniosis (tác nhân là
Amyloodinium ocellatum), bệnh thích bào tử
trùng (tác nhân gồm Myxobolus sp, Ceratomyxa
sp., và Sphaeromyxa balbiani), bệnh Vi bào tử
trùng (tác nhân là Pleistophora sp.); trong đó, 2
bệnh nguy hiểm nhất là và Amyloodioniosis, đã
gây chết số lượng lớn cá bố mẹ.
2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu các biện pháp phòng
trị bệnh do ký sinh trùng đơn bào gây ra để hỗ
trợ công tác nghiên cứu sản xuất giống và nuôi
thương phẩm loài cá này.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bệnh do ký sinh trùng đơn bào gây ra ở cá mặt quỷ (Synnanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801) bố mẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
MỘT SỐ BỆNH DO KÝ SINH TRÙNG ĐƠN BÀO GÂY RA
Ở CÁ MẶT QUỶ (Synnanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801) BỐ MẸ
SOME PARASITIC PROTOZOAN DISEASES OF STONE FISH BROODSTOCKS
(Synnanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801)
Võ Thế Dũng1, Võ Thị Dung1
Ngày nhận bài: 23/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 26/7/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016
TÓM TẮT
Cá mặt quỷ (Synnanceia verrucosa) là loài có thành phần dinh dưỡng cao, với nhiều acid amine không
thay thế, rất có lợi cho sức khỏe con người. Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về
cá mặt quỷ, nhưng đây là nghiên cứu đầu tiên về bệnh ở loài cá này. Kết quả cho thấy, cá mặt quỷ bị nhiễm
với nhiều bệnh do ký sinh trùng đơn bào gây ra: bệnh Cryptocarionosis (tác nhân Cryptocarion irritans);
bệnh Amyloodinionosis (tác nhân Amyloodinium ocellatum); bệnh Thích bào tử trùng (tác nhân Myxobolus
sp., Ceratomyxa sp., Sphaeromyxa balbiani); bệnh Vi bào tử trùng (tác nhân Pleistophora sp.). Các loài ký
sinh trùng này đều có thể gây bệnh nguy hiểm đối với cá mặt quỷ bố mẹ; trong đó, đặc biệt đáng chú ý nhất
là Cryptocarion irritans và Amylodinium ocellatum; những ký sinh trùng này có thể gây chết cá số lượng lớn
trong thời gian rất ngắn.
Từ khóa: Cá mặt quỷ, Synnanceia verrucosa, bệnh cá, ký sinh trùng đơn bào
ABSTRACT
Stone fi sh (Synnanceia verrucosa) are highly nutritious species, with many un-saturated acid amines,
which are very healthy to human. In recent years, there were some studies on stone fi sh, but, this is the fi rst
study on this fi sh diseases. Results from this study showed that, stone fi sh broodstocks were infected with
parasitc diseases: Cryptocarionosis (agent: Cryptocarion irritans), Amylodinionosis (agent: Amyloodinium
ocellatum), Myxosporidia disease (agents: Myxobolus sp., Ceratomyxa sp., Sphaeromyxa balbiani);
Mycrosporidiasis (agent: Pleistophora sp.). These parasies can cause serious diseases for broodstocks of stone
fi sh. Especially, Cryptocarion irritans and Amyloodinium ocellatum can cause mass death in a short time for
broodstock fi sh.
Keywords: stone fi sh, Synnanceia verrucosa, fi sh disease, Protozoa
1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III - Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá mặt quỷ (Synnanceia verrucosa Bloch
& Schneider, 1801) là loài đặc sản quí với chất
lượng thịt cao, nhưng sản lượng còn rất hạn
chế (Võ Thế Dũng và cộng sự, 2014) [6]; để đáp
ứng nhu cầu của thị trường, việc sản xuất giống
và nuôi thương phẩm loài cá này cần được
thực hiện sớm nhất có thể. Cá mặt quỉ phân
bố tự nhiên ở biển nước ta, là loài được đánh
bắt từ nhiều năm nay, nhưng những nghiên
cứu về loài này còn hết sức khiêm tốn. Về đặc
điểm sinh học, sinh thái được công bố trong
các tài liệu (Võ Thế Dũng và cộng sự, 2011 [3];
Nguyễn Hữu Phụng, 1999). Về giá trị kinh tế,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 51
giá trị dinh dưỡng của cá mặt quỷ được công
bố trong Võ Thế Dũng và cộng sự (2014) [6].
Về sinh học sinh sản, Võ Thế Dũng và cộng
sự (2012a) cho biết đã kích thích cho cá đẻ
trứng, nhưng phôi chưa phát triển để nở thành
cá bột. cho biết một số đặc điểm sinh học sinh
sản của cá mặt quỷ; Võ Thế Dũng và cộng sự
(2015) [7] thông báo kết quả bước đầu về nuôi
vỗ cá mặt quỷ trong hệ thống nước tĩnh và
nước chảy, công trình này cho biết, nuôi trong
hệ thống nước chảy hay nước tĩnh cá đều có
thể thành thục. Như vậy, chưa có nghiên cứu
nào về bệnh của loài cá này được công bố. Để
xây dựng được nghề sản xuất giống và nuôi
thương phẩm loài cá này, nghiên cứu bệnh cá
là hết sức cần thiết, đặc biệt là nghiên cứu về
bệnh ký sinh trùng – một loại bệnh hết sức phổ
biến và nguy hiểm đối với sản xuất giống và
nuôi thương phẩm cá biển ở Việt Nam (Võ Thế
Dũng và cộng sự, 2012 [4]; Vo The Dung và
cộng sự, 2008a,b) [14, 15]. Bài báo tập trung
mô tả một số dấu hiệu bệnh lý và tác nhân ký
sinh trùng bắt gặp ở cá mặt quỷ bố mẹ, làm cơ
sở cho việc nghiên cứu phòng-trị bệnh.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ký sinh trùng
đơn bào ký sinh ở Cá mặt quỷ (Synnanceia
verrucosa Bloch & Schneider, 1801) bố mẹ
được nuôi vỗ trong bể xi măng.
Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2013 -
11/2015.
Địa điểm nghiên cứu: Khánh Hòa.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thu mẫu nghiên cứu
Thực hiện thu mẫu chọn lọc, chọn những
cá thể yếu, hô hấp khó khăn, bơi không bình
thường, có hiện tượng bỏ ăn, khó có khả năng
hồi phục để nghiên cứu ký sinh trùng đơn bào.
Tổng số 154 cá thể có chiều dài trung bình 268,1 ±
34,5 mm, khối lượng trung bình là 1.012,6 ±
587,8 g được sử dụng trong nghiên cứu này.
2.2. Nghiên cứu mô tả dấu hiệu bệnh lý
Quan sát cá trong bể: Quan sát hàng ngày,
chú ý những cá thể kém ăn hoặc bỏ ăn, miệng
và nắp mang không đóng mở bình thường theo
nhịp hô hấp mà mở liên tục, màu sắc kém tươi.
Kiểm tra ký sinh trùng bên ngoài: Kiểm
tra từng cá thể, chú ý mang, vì cơ quan
này thường nhiễm các ký sinh trùng như
Cryptocaryon irritans, Amylodinium spp, với
các dấu hiệu như tơ mang bị nát, nắp mang
phồng lên, miệng mở liên tục.
Kiểm tra ký sinh trùng nội ký sinh: bắt buộc
phải giải phẩu cá, trình tự thực hiện theo Võ
Thế Dũng và cộng sự (2012) [5]. Chú ý mật, dạ
dày, ruột, gan, thận, buồng trứng, cơ (dưới da).
Chụp ảnh, vẽ, mô tả kỹ các dấu hiệu bệnh
lý qua mắt thường, kính soi nổi hoặc kính hiển
vi ở độ phóng đại thích hợp.
2.3. Nghiên tác nhân ký sinh trùng
Áp dụng phương pháp nghiên cứu ký sinh
trùng được mô tả trong các tài liệu: Hà Ký và
Bùi Quang Tề (2007) [8]; Võ Thế Dũng và cộng
sự (2012) [5].
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
+ Tỷ lệ cảm nhiễm (TLCN %) của KST
được đánh giá theo công thức sau:
Trong đó: P là tỷ lệ nhiễm (%); N1 là số cá
nhiễm; N2 là tổng số cá kiểm tra.
+ Cường độ cảm nhiễm (CĐCN) tính theo
công thức dưới đây:
Trong đó: C là cường độ nhiễm trung bình
Nt và Ntt tính như sau: Nt là tổng số KST
đếm được trên 1 số thị trường kính kiểm tra;
Ntt là số thị trường kính đã đếm KST.
Với KST là cá thể đơn lẻ:
Nt từ 1-10 KST/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm +;
Nt từ 11-20 KST/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm ++;
Nt từ 21-30 KST/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm +++;
52 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
Nt từ 31 KST/thị trường kính trở lên tương
đương cường độ nhiễm ++++;
Với KST dạng bào nang (Vi bào tử trùng):
Nt từ 1-2 bào nang/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm +;
Nt từ 3-4 bào nang/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm ++;
Nt từ 5-6 bào nang/thị trường kính tương
đương cường độ nhiễm +++;
Nt từ 7 bào nang/thị trường kính trở lên
tương đương cường độ nhiễm ++++;
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Bệnh Cryptocaryonosis
Dấu hiệu bệnh lý: ký sinh trên mang cá mặt
quỷ. Trùng bám tạo thành các hạt lấm tấm rất
nhỏ, bằng mắt thường có thể thấy các đốm
màu trắng đục nhỏ liti ở những nơi chúng ký
sinh (Hình 1A). Mang cá có nhiều nhớt, màu
sắc nhợt nhạt. Cá bệnh thường nổi đầu, bơi
lên tầng mặt, bơi lờ đờ do trùng bám nhiều ở
mang, phá hoại biểu mô mang làm cá ngạt thở.
Miệng và nắp mang mở liên tục. Quan sát dưới
kính hiển vi có thể thấy trùng có hình quả lê,
bám vào các tơ mang, xoay tròn liên tục, xâm
nhập sâu vào lớp tế bào dưới da (Hình 1D),
huỷ hoại và tiêu hoá lớp nhớt mang, gây ảnh
hưởng đến hô hấp cá.
Tác nhân: là ký sinh trùng Cryptocarion
irritans (Hình 1B). Trùng có hình dạng quả lê
hoặc hơi tròn tùy vào giai đoạn phát triển. Trên
bề mặt có lông tơ bao phủ, cơ thể có thể biến đổi
khi vận động. Đường kính cơ thể 180 – 700 μm.
Bằng mắt thường có thể nhìn thấy ký sinh trùng
như những hạt nhỏ, màu trắng đục. Bên trong
cơ thể có nhân lớn hình móng ngựa, màu đen.
Võ Thế Dũng (2010), Võ Thế Dũng và cộng sự
(2012) thông báo bắt gặp loài này trên cá mú ở
Khánh Hòa [2, 4].
Hình 1. Một số hình ảnh Cryptocarion irritans ký sinh trên mang cá mặt quỷ
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 53
Trong quá trình nuôi vỗ và nuôi thuần dưỡng
cá mặt quỷ bố mẹ, bệnh Cryptocaryonosis
xảy ra thường xuyên; tỷ lệ nhiễm bệnh là 82/154
(53,2%) cá bố mẹ sử dụng trong nghiên cứu,
trong đó có 74 cá thể (48,1%) bị chết, hầu hết
các cá thể bị chết đều nhiễm nặng (+++ , ++++)
với ký sinh trùng này. Bệnh xảy ra chủ yếu vào
tháng 7 và tháng 10 đến tháng 12. Theo Hà Ký
và Bùi Quang Tề (2007), bệnh đốm trắng do
Cryptocaryon sp. gây ra thường xuất hiện vào
thời điểm giao mùa và chủ yếu vào mùa mưa
ở miền Nam [8].
2. Bệnh Amyloodioniosis
Dấu hiệu bệnh lý: Dấu hiệu cá bị bệnh
Amyloodiniosis cũng tương tự như cá bị bệnh
Cryptocaryonosis. Ký sinh trùng ký sinh trên
mang, hình thành các đốm trắng; tuy nhiên,
các đốm trắng của bệnh Amyloodiniosis có
kích thước nhỏ hơn, màu trắng hơn. Cá bệnh
cũng thường nổi đầu, bơi lên tầng mặt, bơi lờ
đờ do trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu
mô mang, ăn mòn mang làm cá ngạt thở và có
thể làm cá chết rất nhanh.
Hình 2. Một số hình ảnh ký sinh trùng Amylodinium ocellatum ký sinh trên mang cá mặt quỷ.
A- Mang cá mặt quỷ bị nhiễm A. ocellatum; B, C, D: A. ocellatum
Tác nhân: Là ký sinh trùng Amylodinium
ocellatum cơ thể có 2 roi dài để vận động và
các đĩa bám với cấu tạo đặc biệt để bám lên
da và mang cá. Cá thể trưởng thành có đường
kính khoảng 120 µm.
Trong thời gian nghiên cứu (2013-2015),
bệnh Amyloodioniosis xảy ra 4 lần, xảy ra chủ
yếu khi giao mùa vào tháng 8 đến tháng 11 và
tháng 3, với tổng số 24/154 cá thể bị nhiễm,
trong đó 23/154 cá bố mẹ bị chết, các cá thể
này có cường độ nhiễm từ (++) đến (++++),
chỉ duy nhất 1 cá thể có cường độ nhiễm (+)
được cứu sống kịp thời. Điều đó, cho thấy bệnh
này phát triển rất nhanh và hết sức nguy hiểm.
Một cá thể A. ocellatum ở giai đoạn sinh trưởng
(trophont) có thể tạo ra 256 bào tử trong vài ngày
(Brown, 1931; Noga, 1987), và chỉ cần 2 đến
6 ngày ở nhiệt độ 20 0C để khép kín vòng đời
(Paperna, 1984). Gần đây, A. ocellatum được
phát hiện ký sinh gây bệnh trên cá chim vây vàng
bố mẹ (Trachinotus blochii Lacepède, 1801) ở
Ấn Độ (Ramesh Kumar và cộng sự, 2015) [13].
54 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
3. Bệnh Thích bào tử trùng
Dấu hiệu bệnh lý: Cá không có dấu hiệu
bất thường nếu mức độ cảm nhiễm nhẹ, tuy
nhiên nếu cá nhiễm cường độ cao thường biểu
hiện các dấu hiệu như màu sắc cơ thể đen
sậm, gầy yếu. Giải phẫu cho thấy mật cá bị bị
nhạt màu và một phần gan có màu xanh khi
cường độ cảm nhiễm ký sinh trùng ở mật cao.
Hình 3. A- Mật cá mặt quỷ bị Thích bào tử ký sinh; B- Myxobolus sp. trong mật cá mặt quỷ
3.1. Tác nhân gây bệnh Myxobolus sp
Khi kiểm tra dịch mật ở độ phóng đại 400X,
có thể thấy ký sinh trùng kích thước hiển vi dày
đặc trong dịch mật (> 100 cá thể/thị trường,
tương đương mức ++++). Cơ thể có hình ovan
hoặc ovan hơi eo thắt ở giữa. Hai cực nang
hình tháp, kích thước bằng nhau, có thể nằm
trong túi hoặc không. Đường kính cơ thể dao
động trong khoảng 7,0 – 10,0 μm. KST này đã
được Võ Thế Dũng (2010) [2] công bố bắt gặp
trên cá mú.
trên cá mặt quỷ thấp hơn so với trên cá mú, cá
chẽm. Theo Võ Thế Dũng (2008), tỷ lệ nhiễm
Ceratomyxa sp. trên cá mú là 14,5% (ở cá mú
mè) và 57,9%) (ở cá mú đen). Theo Nguyễn
Nguyễn Thành Nhơn và cộng sự (2010), tỷ lệ
nhiễm Ceratomyxa sp. trong dịch mật cá chẽm
(Lates calcarifer Bloch, 1790) từ 17,2-69,5%
và cường độ nhiễm từ (+) đến (++++) [9].
3.3. Tác nhân Sphaeromyxa balbiani
Bắt gặp trong mật cá mặt quỷ bố mẹ với
mức độ nhiễm không cao, cường độ cảm nhiễm
(CĐCN) 1-23 trùng/thị trường (400X) và tỷ lệ
nhiễm 1,3% (2/154 mẫu). S.balbiani ký sinh
trên cá mặt quỷ có dạng hình thuôn dài, kích
thước dài x rộng khoảng (20 - 22) x (5 - 6) µm.
Hai đầu tù và có cạnh thẳng.
Hình 4. Ceratomyxa sp. ở mật cá mặt quỷ
3.2. Tác nhân Ceratomyxa sp.
Ký sinh trong mật cá mặt quỷ, có dạng hình
trăng non hoặc hình chùy (tùy giai đoạn phát
triển) cạnh trước hơi lồi lên, kích thước chiều
dài 0,016-0,028 mm, chiều rộng 0,004-0,008
mm, có 2-4 cực nang dạng tròn. Mức độ nhiễm
không cao, tỷ lệ nhiễm 3,2% (5/154 mẫu) và
cường độ cảm nhiễm từ 1-5 trùng/thị trường
(400X). Như vậy, mức độ nhiễm Ceratomyxa sp.
Hình 5. Sphaeromyxa balbiani
Theo Lom & Dyková (2006), giống Sphaeromyxa
đã được tìm thấy trên nhiều loài cá biển và cá
nước ngọt, một số động vật lưỡng cư và bò
sát. Đã có loài thuộc giống này (Sphaeromyxa
zaharoni) được công bố bắt gặp ở cá biển
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 55
Scorpaenopsis barbata (một loài cá biển cùng
thuộc bộ cá mù làn - Scorpaeniformes). Tuy
nhiên, so với loài S. balbiani thì S. zaharoni nhỏ
hơn (kích thước trung bình 14,5 x 4,8 µm).
4. Bệnh Vi bào tử trùng (Mycrosporidiasis)
Dấu hiệu bệnh lý: dấu hiệu bên ngoài
không rõ ràng. Khi giải phẩu, ở những vị trí ký
sinh trùng ký sinh tạo thành các nốt sần màu
nâu vàng hoặc trắng đục (Hình 6A, B) trên gan
hay mô mỡ của cá. Tiêu bản phết từ các nốt
sần cho thấy mật độ dày đặc các bào tử (> 300
cá thể/thị trường 400X) (Hình 6B).
Hình 6. A- Gan cá mặt quỷ bị Vi bào tử trùng ký sinh (→); B- Vi bào tử trùng ký sinh (→) trên mô mỡ
cá mặt quỷ; C- Bào nang vi bào tử trùng; D- Bào tử trùng
Tác nhân gây bệnh: ký sinh trùng gây bệnh
là Pleistophora sp. Mỗi bào tử được bao ngoài
bằng lớp vỏ chitin cứng. Có không bào tương
đối lớn ở phía sau cơ thể. Tác hại của bệnh
Vi bào tử gây ra trên cá thường không lớn.
Tuy nhiên, khi cường độ cảm nhiễm cao sẽ
làm cho cá suy nhược và có thể dẫn đến chết.
Khi cá chết, bào tử từ các tế bào nhiễm phóng
thích ra ngoài môi trường. Khi cá khỏe ăn phải,
các bào tử này sẽ đi qua ruột vào máu đến
xâm nhập vào mô/cơ quan ký sinh. Chỉ phát
hiện duy nhất 1/154 (0,6%) cá thể nhiễm ký
sinh trùng này, với cường độ nhiễm ở mức +,
mặc dù vậy cá bỏ ăn và chết, mặc dù vậy, giải
phẩu chỉ bắt gặp ký sinh trùng này cùng với
Ceratomyxa sp. ở mức ++.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bắt gặp 4 loại bệnh do ký sinh trùng đơn
bào gây ra ở cá mặt quỷ bố mẹ, bao gồm bệnh
Cryptocaryonosis (tác nhân là Cryptocaryon
irritans), bệnh Amyloodioniosis (tác nhân là
Amyloodinium ocellatum), bệnh thích bào tử
trùng (tác nhân gồm Myxobolus sp, Ceratomyxa
sp., và Sphaeromyxa balbiani), bệnh Vi bào tử
trùng (tác nhân là Pleistophora sp.); trong đó, 2
bệnh nguy hiểm nhất là và Amyloodioniosis, đã
gây chết số lượng lớn cá bố mẹ.
2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu các biện pháp phòng
trị bệnh do ký sinh trùng đơn bào gây ra để hỗ
trợ công tác nghiên cứu sản xuất giống và nuôi
thương phẩm loài cá này.
56 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Võ Thế Dũng, G.A. Bristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung và Nguyễn Thị Thanh Thùy, 2005. Thành phần
KST ở một số loài cá Mú thuộc giống Epinephelus khu vực Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học và công nghệ biển,
phụ trương 4 (T5)/(2005): 247-254.
2. Võ thế Dũng, 2010. Động vật ký sinh ở cá mú thuộc giống Epinephelus. Luận án tiến sĩ Sinh học. Thư viện Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 184 trang.
3. Võ Thế Dũng, Lê Thị Thu Hương, Võ Thị Dung, 2011. Một số đặc điểm sinh học của cá mặt quỷ thu được ở khu
vực Nam Trung Bộ. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: 68-74.
4. Võ Thế Dũng, Glenn Allan Bristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung, Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn, 2012. Ký
sinh trùng cá mú và cá chẽm ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh. 180 trang. ISBN: 978-604-60-
0543-8.
5. Võ Thế Dũng, Nguyễn Cao Lộc, Lê Thị Thu Hương, Võ Thị Dung, Phạm Quốc Hùng, 2012a. Thử nghiệm sinh
sản nhân tạo cá mặt quỷ (Synanceia verrucosa Bloch & Schneider, 1801). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (số 9/2012): 81-85.
6. Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Dương Văn Sang, Nguyễn Tiến Thành, Huỳnh Ngọc Hoàng Trang, 2014. Một
số kết quả đánh giá bước đầu về giá trị dinh dưỡng nguồn gen cá Mặt quỷ (Synnanceia verrucosa, Bloch &
Schneider, 1801). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 18/2014: 111-114.
7. Võ Thế Dũng, Dương Văn Sang, Võ Thị Dung, 2015. Nuôi vỗ cá mặt quỷ (Synanceia verrucosa Bloch &
Schneider, 1801) trong bể nước chảy và nước tĩnh. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 13/2015
trang 80-84.
8. Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007. Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
9. Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn, Võ Thế Dũng, Võ Thị Dung, Glenn Allan Bristow, Đỗ Thị Hòa, 2010. Một số ký
sinh trùng ở cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790). Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 6/2010:
59-63.
Tiếng Anh
10. Carlos A., Casal G., Clemente S.C.S., Lopes L.M.S., Matos P., Abdel-Baki A.A., Oliveira E. and Matos E., 2011.
Myxidium volitans sp. nov., a parasite of the gallbladder of the fi sh, Dactylopterus volitans (Teleostei: Triglidae)
from the Brazilian Atlantic coast - Morphology and pathology. Mem. Inst. Oswaldo Cruz vol.106 no.5 Rio de
Janeiro Aug. 2011. pid=S0074-02762011000500 007&script=s ci_arttext.
11. Lom J. and Dyková I., 2006. Myxozoa genera: defi nition and notes on taxonomy, life-cycle terminology and
pathogenic species. Flolia Parasitologica 53: 1-36.
12. Lom J. and Dyková I., 1992. Protozoan Parasites of Fishes. Developments in Aquaculture and Fisheries science,
Volume 26, Elsevier Science Publishers B. V. Netherland.
13. Ramesh Kuma P., Abdul Nazar A.K., Jayakumar R., Tamilmani G., Sakthivel M., Kalidas C., Balamurugan V.,
Sirajudeen S., Thiagu R. and Gopakumar G., 2015. Amyloodinium ocellatum infestation in the broodstock of
silver pompano Trachinotus blochii (Lacepede, 1801) and its therapeutic control. Indian J. Fish., 62 (1): 131-134.
14. Vo The Dung, Glenn Allan Bristow, Dung Huu Nguyen and Dung Thi Vo. 2008a. Parasitism of two Caligus
(Copepoda: Caligidae) on wild and cultured grouper in Khanh Hoa Province, Viet Nam. Journal of Fisheries
Society of Taiwan, 35(1) (2008/03): 35-43. ISSN: 0379-4180.
15. Vo The Dung, Darwin Murrell, Anders Dalsgaard, Glenn Bristow, Dung Huu Nguyen, Thanh Ngoc Bui and
Dung Thi Vo. 2008b. Prevalence of zoonotic metacercariae in two species of Grouper, Epinephelus coioides and
E. bleekeri, and Flathead Mullet, Mugil cephalus in Vietnam. Korean Journal of Parasitology. Vol 46. No. 2.
77-82. ISSN: 0023-4001. ISSN on-line: 1738-0006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_benh_do_ky_sinh_trung_don_bao_gay_ra_o_ca_mat_quy_syn.pdf