Nâng cao chất lượng trường học, nâng cao hiệu quả GD, giảm thiểu tỉ lệ
HS yếu kém, lưu ban và tình trạng HS bỏ học ở các cấp phổ thông. Đây là công
việc không dễ thực hiện do bị chi phối bởi nhiều nhân tố, nhất là kinh tế. Sở
Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu thêm về lí do bỏ học chính, tỉ lệ thôi học
theo giới, nơi ở và dân tộc để có những giải pháp kịp thời trong việc giảm tỉ lệ HS bỏ học.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa phát triển dân số và phát triển giáo dục tỉnh Long An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lâm Huỳnh Hải Yến và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
41
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN DÂN SỐ
VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỈNH LONG AN
LÂM HUỲNH HẢI YẾN*, NGUYỄN KIM HỒNG**
TÓM TẮT
Sự phát triển dân số (DS) ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến đến quy mô, chất
lượng, đầu tư cho giáo dục (GD) thông qua quy mô, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân số và
phân bố địa lí dân cư. Và ngược lại, việc phát triển GD cũng ảnh hưởng đến các động lực
phát triển dân số như mức sinh, tử, hôn nhân, di cư và các mặt xã hội của dân cư. Bài viết
nghiên cứu mối quan hệ đó nhằm làm cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư thỏa đáng cho
GD, phát huy vai trò “GD là quốc sách hàng đầu” trên con đường phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh Long An.
Từ khóa: phát triển dân số, phát triển giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp, ảnh hưởng gián
tiếp, tỉnh Long An.
ABSTRACT
The relation between the population growth
and the education development in Long An province
Population growth directly and indirectly influences the scale, quality and
investment in education through the scale and speed of population growth, the population
structure and the geographical distribution of population. On the contrary, education
development also affects the dynamic of population growth such as birth, death, marital,
migration and social aspects of the population. This article studies that relation so as to
provide a foundation for appropriate investment projects in education, which develops the
role: “Education is the first national policy” on the way of social and economic
development in Long An province.
Keywords: population growth, educational development, direct effect, indirect effect,
Long An province.
1. Đặt vấn đề
DS và GD là hai vấn đề nổi bật
trong việc nghiên cứu sự phát triển kinh
tế xã hội và có mối quan hệ ảnh hưởng
lẫn nhau. Phân tích mối quan hệ trên cho
thấy dân số là tiền đề quan trọng của sự
phát triển GD, dân số vừa là yếu tố đầu
vào vừa là sản phẩm của GD và có tác
động rất lớn đến quá trình xây dựng và
* HVCH, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
** PGS TS, Trường ĐH Sư phạm TPHCM
phát triển GD cả về số lượng lẫn chất
lượng. Vì vậy, phát triển dân số hợp lí sẽ
trở thành điều kiện thuận lợi cho phát
triển GD hoặc ngược lại, kìm hãm sự
phát triển GD trên mọi phương diện.
2. Nội dung
2.1. Một số khái niệm cơ bản
Dân số: Là dân cư được xem xét,
nghiên cứu ở góc độ quy mô, cơ cấu [1].
Gia tăng dân số: Là quá trình phát
triển số dân trên một lãnh thổ, một quốc
gia hay toàn thế giới trong một thời gian
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 49 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
42
nhất định thường là một năm. [1]
Giáo dục: Là hoạt động hướng tới
con người thông qua một hệ thống các
biện pháp tác động nhằm truyền thụ
những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện
kĩ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng
và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp
hình thành và phát triển năng lực, phẩm
chất, nhân cách phù hợp với mục đích
mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia
lao động. Một cách khái quát nhất có thể
định nghĩa GD là tất cả các dạng học tập
của con người. [3]
Phát triển GD: Là việc mở rộng
quy mô của hệ thống GD trên các mặt
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển nhân cách, đáp
ứng những đòi hỏi phát triển của xã hội
cũng như của mỗi thành viên. [3]
2.2. Mối quan hệ giữa phát triển dân
số và phát triển giáo dục tỉnh Long An
DS và GD có mối liên hệ tác động
lẫn nhau và chịu tác động của nhiều yếu
tố khác như kinh tế, chính trị, quan niệm,
phong tục, truyền thống văn hóa, tôn
giáo... Khi xem xét mối quan hệ giữa DS
và GD, cần phải xem xét nó trong hoàn
cảnh cụ thể, trong mối liên hệ, sự tương
tác của các yếu tố kinh tế xã hội khác do
chủ thể và khách thể của chúng là con
người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
tập trung phân tích mối quan hệ của DS
và GD phổ thông.
2.2.1. Ảnh hưởng của vấn đề phát triển
dân số đến phát triển GD
2.2.1.1. Ảnh hưởng trực tiếp
a. Quy mô và tốc độ tăng dân số ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô GD (xem
bảng 1)
Quy mô dân số lớn là điều kiện
thúc đẩy mở rộng quy mô của GD. Nếu tỉ
lệ trẻ em ở độ tuổi đến trường trong tổng
số dân (kí hiệu là e) tương đối ổn định
hoặc giảm rất chậm thì quy mô của nhu
cầu GD phổ thông (E) phụ thuộc vào quy
mô dân số (P).
Bảng 1. Quy mô DS và số học sinh (HS) phổ thông tỉnh Long An (1990-2012)
Năm Quy mô DS Số HS phổ thông Năm Quy mô DS Số học HS phổ thông
1990 1.161.512 219.619 2008 1.428.213 235.777
1995 1.250.760 248.718 2010 1.442.828 245.400
1999 1.309.989 270.626 2011 1.449.600 244.496
2005 1.393.391 218.008 2012 1.458.191 245.643
Nguồn: [2]
Phương trình: E = P x e (1)
Do đó việc tăng hay giảm quy mô
DS sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng
hay giảm quy mô, nhu cầu GD [1].
Từ (1) ta có: E1/E0 = P1.e1/ P0.e0 =
(P1/P0).(e1/e0).
Theo phương trình trên, thay số ở
bảng 1 vào, ta được:
245.643/219.619 =1.458.191/1.161.512(e1/e0)
111,85 % %= 125,54%*( e1/e0)
( e1/e0) = 89,10%
Như vậy, số HS phổ thông tăng
11,9% là do DS tăng 25,54% cả giai đoạn
1990-2012, tỉ lệ đi học trong tổng số dân
giảm 10,9%. DS tăng liên tục qua các
năm nhưng số HS phổ thông tăng không
ổn định:
- Từ 1990 đến 1999, số HS phổ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lâm Huỳnh Hải Yến và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
43
thông tăng nhanh, sau đó giảm mạnh vào
2005 và có xu hướng tăng trở lại trong
những năm gần đây nhưng vẫn thấp hơn
số HS năm 1999.
- Nhu cầu GD của tỉnh có sự gia tăng
cùng với sự gia tăng DS, tuy nhiên sự
biến động số lượng HS phổ thông là do
điều kiện kinh tế khó khăn nên một số
lượng lớn HS đúng tuổi đi học không
được đến trường. Từ 1991-2000, tỉnh
Long An đã thực hiện phổ cập GD tiểu
học, vận động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 và
miễn học phí cấp tiểu học nên số HS tăng
nhanh (Số trẻ 6 tuổi học lớp 1 đạt 100%,
số trẻ 11 tuổi hoàn thành chương trình
tiểu học 94,6%), đến năm 2005 giảm
mạnh là do số HS không học tiếp bậc
trung học cơ sở (THCS) tăng. Năm 2012,
số HS tăng trở lại và dự báo có xu hướng
tăng trong tương lai do tỉnh tiếp tục thực
hiện chương trình phổ cập THCS và ban
hành chính sách hỗ trợ cho HS trung học
phổ thông (THPT) ở những vùng đặc biệt
khó khăn (nhằm cải thiện trình độ cho
người dân và giảm nhanh tỉ lệ HS bỏ học
giữa chừng vì lí do kinh tế) đang phát
huy hiệu quả.
- Số học HS tăng lên làm cho sĩ số
HS trong mỗi lớp học cao (khoảng 40-45
HS/lớp) gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường và chất lượng GD đồng thời làm
tăng nhu cầu mở rộng quy mô trường
học. Với tỉ suất gia tăng tự nhiên hiện
nay 0,93%, quy mô DS 1.458.191 người
thì trong vòng 6 năm sau, số HS vào lớp
1 sẽ là 13.561, điều này đòi hỏi tỉnh phải
tiếp tục chi ngân sách cho việc xây dựng
cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ giáo
viên tương ứng.
b. Cơ cấu dân số theo tuổi ảnh hưởng
trực tiếp đến phát triển GD
Cơ cấu DS theo độ tuổi và giới tính
là những yếu tố xác định quy mô, cơ cấu
của hệ thống GD [1]. Nếu tất cả trẻ em
đến tuổi đi học đều đến trường thì hệ
thống GD cũng có dạng hình tháp giống
như tháp DS trẻ.
Năm 1999 tỉnh có cơ cấu DS trẻ,
tháp tuổi DS có đáy mở rộng nên cơ cấu
của nền GD phổ thông sẽ là: số HS tiểu
học> số HS THCS> số HS THPT. Đến
năm 2012, cơ cấu DS tỉnh có sự chuyển
dịch, tỉ lệ DS từ 5-19 tuổi giảm 8,3% so
với năm 1999, vì thế tháp HS cũng có sự
thay đổi. (Xem biểu đồ dưới đây)
Mức sinh giảm nên tỉ lệ DS trong
độ tuổi HS phổ thông giảm từ 29,7%
năm 1999 còn 21,4% năm 2012, số dân
của tỉnh trong độ tuổi này cũng giảm từ
338.786 người năm còn 312.000 người
năm 2012. Do đó cũng làm cơ cấu DS
trong độ tuổi học phổ thông cũng thay
đổi thể hiện ở bảng 2 và biểu đồ sau
đây:
Bảng 2. Cơ cấu DS trong độ tuổi GD phổ thông năm 1999, 2012 (Đơn vị: %)
1999 2012
Độ tuổi Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ
5-9 tuổi 10,8 11,3 10,3 8,3 8,4 8,1
10-14 tuổi 11,6 12,1 11,1 7,9 8,2 7,6
15-19 tuổi 7,3 7,5 7,0 5,2 5,4 5
Tổng tỉ lệ 29,7 30,9 28,4 21,4 22 20,7
Nguồn: [2]
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 49 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
44
Biểu đồ số lượng HS
các cấp phổ thông
c. Phân bố địa lí dân cư ảnh hưởng
trực tiếp đến phân bố cơ sở vật chất
ngành GD
Sự phân bố DS không đồng đều
giữa các vùng, khu vực trên cùng một
lãnh thổ cũng tạo ra sự khác biệt trong
quá trình GD, nhất là đối với việc tiếp
cận và thỏa mãn các nhu cầu về GD [5].
Khu vực thành thị và vùng kinh tế trọng
điểm1 (KTTĐ) đông dân, kinh tế phát
triển, hệ thống GD cũng được đầu tư và
phát triển hoàn thiện hơn nên trẻ em có
nhiều cơ hội tiếp cận với GD nhanh hơn.
Ngược lại, đối với vùng nông thôn và
vùng kinh tế khó khăn như Đồng Tháp
Mười, vùng hạ thì cơ hội để người dân
tiếp cận với dịch vụ GD khó khăn hơn rất
nhiều.
Bảng 3. Phân bố dân cư và cơ sở vật chất ngành GD
phân theo vùng của tỉnh Long An năm 2012
Vùng Dân số Số trường Số phòng học Số lớp Số giáo viên Số HS
KTTĐ 847.536 195 2977 4.097 7.304 142.796
ĐTM 359.921 152 1986 2.294 4.016 63.074
HẠ 250.734 80 998 1.269 2.525 39.773
Tổng 1.458.191 427 5961 7.660 13.845 245.643
Nguồn: Xử lí từ [2]
Long An có khoảng 58,12% DS
sống tại các vùng KTTĐ, mức độ đô thị
hóa trung bình 21,3%, hầu hết các huyện
chỉ có thị trấn là đô thị, các xã còn lại đều
là nông thôn. Với sự phân bố dân cư
không đều giữa thành thị và nông thôn,
giữa vùng kinh tế phát triển với vùng khó
khăn thì mức độ tiếp cận GD và đầu tư cơ
sở GD hoàn toàn khác biệt, vùng KTTĐ
là khu vực đô thị hóa nhanh nên GD phát
triển mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng,
trường lớp khang trang, cơ sở vật chất
ngành GD phân bố tập trung, khoảng
cách trung bình giữa 2 trường kế cận thấp
hơn trung bình của tỉnh. Vùng Đồng
Tháp Mười gắn liền với hoạt động nông
nghiệp, ngập lũ hàng năm, do nước từ
sông Tiền qua kênh Hồng Ngự, Phước
Xuyên làm ngập nhanh chóng các vùng
trũng. Lũ lên chậm và rút chậm gây khó
khăn cho việc đến trường, làm gián đoạn
thời gian học tập, dân cư phân tán nên
việc bố trí cơ sở ngành GD cũng phân
tán, khoảng cách trung bình giữa 2
trường kế cận cao hơn trung bình của
tỉnh. Bán kính giữa 2 trường kế cận càng
tăng lên theo cấp học, cấp THPT của vùng
Đồng Tháp Mười học sinh phải vượt chặn
đường trung bình từ 11 đến 22 km để đến
trường, ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, cơ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lâm Huỳnh Hải Yến và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
45
hội tiếp cận GD và làm gia tăng khả năng
bỏ học. Dân cư phân bố không đều giữa
các huyện cũng làm tăng khoảng cách
chênh lệch về số HS giữa các huyện.
Vùng KTTĐ có tổng số HS, GV, trường,
lớp và phòng học cao nhất. Huyện Đức
Hòa có DS và số lượng HS đông gấp 4,2
lần huyện Vĩnh Hưng; 3,5 lần huyện Tân
Trụ. (Xem bảng 4)
Bảng 4. Phân bố dân cư và HS theo thành phố và các huyện năm 2012
Vùng
kinh tế
xã hội
Huyện, thị Số HS phổ thông
Dân số
(người)
Khoảng cách trung
bình giữa 2 trường
kế cận (km)
Toàn tỉnh 245.643 1.458.191 3,24
TP Tân An 24.515 134.612 1,68
Huyện Cần Đước 30.625 171.331 2,36
Huyện Cần Giuộc 27.632 171.644 2,26
Huyện Đức Hòa 35.535 219.040 3,08
Vùng
KTTĐ
Huyện Bến Lức 24.489 150.909 2,65
Huyện Tân Hưng 8463 48.480 4,98
Huyện Vĩnh
Hưng
9647 50.113 3,85
Huyện Mộc Hóa 12.759 70.229 4,57
Huyện Tân Thạnh 12.752 76.714 3,65
Huyện Thạnh
Hóa 8.928 54.422 4,33
Vùng Đồng
Tháp Mười
Huyện Đức Huệ 10.552 59.943 4,15
Huyện Thủ Thừa 13.962 90.609 2,20
Huyện Tân Trụ 10.190 61.206 2,32
Vùng hạ Huyện Châu
Thành 15.621 98.919 2,20
Nguồn:Xử lí từ [2]
d. Ảnh hưởng của tuổi kết hôn, mức
sinh, mức chết và di cư tới hệ thống GD
Tuổi kết hôn cao tạo cơ hội kéo dài
thời gian học tập ở các trường học [1].
Nếu mức sinh thấp, thì gia đình và xã hội
có điều kiện để bảo đảm GD cho trẻ,
nâng cao tỉ lệ đến trường của từng độ tuổi
và sự bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực
GD. Việc giảm tỉ lệ mắc bệnh, tỉ lệ chết
(nhất là tỉ lệ tử vong ở trẻ em), kéo dài
tuổi thọ sẽ nâng cao uy tín của khoa học
và GD. Các bậc cha mẹ nhận thấy rõ lợi
ích của GD, từ đó nỗ lực cho con đến
trường. Việc di cư, nếu không có tổ chức,
không có kế hoạch thì sẽ dẫn đến tình
trạng bị gián đoạn hoặc bỏ học ở trẻ; do
đó, việc hoạch định chiến lược phát triển
GD cần phải tính toán đến các yếu tố này.
Các yếu tố DS còn ảnh hưởng lớn
đến chất lượng của hệ thống GD như: DS
tăng nhanh, số HS cũng tăng nhanh, nếu
sự đầu tư từ ngân sách Nhà nước và gia
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 49 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
46
đình cho GD không theo kịp, làm cho
điều kiện giảng dạy, học tập không được
bảo đảm, dẫn đến tình trạng xuống cấp hệ
thống GD, chất lượng giảng dạy, học tập
giảm sút, tỉ lệ HS đến trường có xu
hướng giảm, tỉ lệ HS bỏ học có nguy cơ
tăng.
2.2.1.2. Ảnh hưởng gián tiếp
Tác động gián tiếp của quy mô và
tốc độ tăng DS đến GD thông qua ảnh
hưởng của sự tăng nhanh DS đến chất
lượng cuộc sống, mức thu nhập, từ đó
ảnh hưởng đến việc đầu tư GD cho con
cái. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự khác
biệt trong tiếp cận và đáp ứng các dịch vụ
GD, cũng như đầu tư cho GD giữa các
nhóm dân cư có thu nhập khác nhau. [4]
Có tình trạng bất bình đẳng rõ rệt
về điều kiện cũng như cơ hội GD giữa 5
nhóm thu nhập và phân theo thành thị,
nông thôn [2]. Tỉ lệ chi cho GD chung
của người dân chiếm 5,13% của 1 tháng
thu nhập, trong đó sự phân hóa về thu
nhập dẫn đến sự chênh lệch về chi phí
GD giữa các tầng lớp dân cư. Chênh lệch
thu nhập bình quân/tháng giữa nhóm 1
(nghèo nhất) và nhóm 5 (cao nhất) là 2,7
lần nên chi phí chi cho GD con em cũng
chênh lệch 2 lần. Chi phí bình quân cho
một HS phổ thông/tháng ở nhóm 1 chỉ
bằng 5,13% (50 ngàn đồng) so với mức
chi của một gia đình khá giả (100 nghìn
đồng). Với khoản tiền eo hẹp đó thì điều
kiện học tập của con em gia đình nghèo
sẽ kém hơn, sắm sách vở và dụng cụ học
tập ít hơn Hơn nữa, do không đủ chi
phí và phải dành thời gian để lao động
phụ giúp gia đình, nên cơ hội học tập ít
hơn và khả năng bỏ học cao hơn so với
con em nhà khá giả. (Xem bảng 5)
Bảng 5. Chi tiêu bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo 5 nhóm thu nhập
giữa thành thị/nông thôn và tỉ lệ chi cho GD tỉnh Long An năm 2012
(Đơn vị: 1000 đồng)
Nhóm thu nhập Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Chênh lệch nhóm 1&5
Tỉnh 859 1171 1359 1590 2414 2,7
Thành thị 879 1417 1990 2098 3562 4,05
Nông thôn 827 1254 1248 1527 2106 2,55
Tỉ lệ chi cho GD
(%) 5,83 8,52 5,58 3,12 4,24 2,04
Nguồn: [2]
Sự chênh lệch về thu nhập giữa
nhóm 1 và 5 ở thành thị (gấp 4,05 lần) so
với nông thôn (gấp 2,5 lần) cho thấy khu
vực thành thị có tỉ lệ chi cho GD giữa các
tầng lớp dân cư chênh lệch rất nhiều. Điều
này chắc chắn sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng
trong thụ hưởng các dịch vụ từ GD. Vì
thành thị là nơi đắt đỏ nên chi phí cho GD
sẽ ngày càng tăng, trở thành gánh nặng quá
lớn vượt khả năng của nhóm nghèo.
Mức thu nhập trung bình của hộ gia
đình cũng thay đổi theo loại hộ. Mức thu
nhập cao nhất là của các hộ phi nông
nghiệp, sau đó là hộ kiêm, rồi đến các hộ
nông nghiệp. Điều này cũng được phản
ánh qua tỉ lệ cao về số hộ nghèo trong các
hộ nông nghiệp (13,8%), sau đó là hộ
kiêm (7,1%), rồi đến các hộ phi nông
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lâm Huỳnh Hải Yến và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
47
nghiệp (6,2%). Mức thu nhập và sự phân
bố dân cư không đều làm tăng thêm sự
phân hóa trong phát triển GD. Vùng
KTTĐ và thành thị của tỉnh có mức thu
nhập cao thì đầu tư cho GD nhiều, thúc
đẩy GD phát triển và nâng cao trình độ
dân trí. Ngược lại, vùng nông thôn và
vùng hạ, số hộ nghèo cao nên tỉ lệ trẻ bỏ
học do hoàn cảnh khó khăn cao (tiểu học
36,2%, THCS 25,1%, THPT 21,5%). [7]
2.2.2. Ảnh hưởng của GD đến các động
lực phát triển dân số tỉnh Long An
2.2.2.1. Mức sinh
Không chỉ ở Việt Nam, mà nhiều
nghiên cứu đã khẳng định rằng không một
nơi nào trên thế giới mà phụ nữ có trình độ
học vấn cao lại có mức sinh cao hơn phụ
nữ có trình độ học vấn thấp, mặc dù có thể
phụ nữ có trình độ học vấn cao ở vùng này
(quốc gia này) có mức sinh cao hơn phụ
nữ trình độ thấp ở vùng khác (quốc gia
khác) [7]. Mối quan hệ giữa mức sinh và
trình độ GD đã giải thích lí do phụ nữ có
trình độ học vấn cao sinh ít như sau:
- Trình độ học vấn cao làm cho phụ
nữ có xu hướng kết hôn muộn so với
những người có trình độ học vấn thấp,
đồng thời làm giảm thời gian sinh sản thực
tế, dẫn đến khả năng sinh con thấp hơn.
- Phụ nữ có trình độ học vấn cao có
nhiều cơ hội việc làm hơn, vì thế có xu
hướng sinh ít hơn để ưu tiên cho công
việc mà không vướng bận việc gia đình.
- Khả năng sống của con cái ở phụ
nữ có trình độ học vấn cao tốt hơn là do
họ có nhiều kiến thức chăm sóc con hơn,
làm giảm nhu cầu sinh bù của người mẹ
và họ cũng có nhiều cơ hội hơn trong
việc tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa
gia đình, tỉ lệ sử dụng biện pháp tránh
thai tỉ lệ thuận với trình độ học vấn, giúp
kiểm soát tốt số con mong muốn và giảm
thiểu những lần sinh con ngoài ý muốn. [5]
Do tỉnh chưa có số liệu thống kê về
tỉ lệ sử dụng biện pháp tránh thai chia
theo trình độ học vấn người mẹ nên
chúng tôi sử dụng số liệu nghiên cứu của
Trần Thị Liễu, nội dung về mối liên hệ
giữa trình độ học vấn của người mẹ với
kiến thức, thực hành các biện pháp tránh
thai, biến số trình độ học vấn là biến số
gây nhiễu với OR điều chỉnh
29,18%>10%. Phụ nữ sống ở thành thị có
điều kiện về kinh tế, trình độ học vấn (từ
THPT trở lên) có kiến thức và thực hành
các biện pháp tránh thai cao hơn nên thái
độ thực hiện kế hoạch hóa gia đình tốt
hơn (86,6%); qua đó, số con mong muốn
cũng có xu hướng giảm đối với nữ có
trình độ học vấn từ THPT trở lên. [6]
Bảng 6. Tổng tỉ suất sinh (TFR), tỉ lệ sử dụng biện pháp tránh thai
chia theo trình độ học vấn người mẹ năm 2010
Trình độ giáo dục TFR Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành đúng biện pháp tránh thai
Chưa đi học
Tiểu học
THCS
THPT
Trung cấp, cao đẳng, đại học
2,15
1,59
0,88
0,63
0,52
Dưới THPT: 29,18%
Từ THPT trở lên: 71,82%
Tỉ lệ phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại: 72,6%
Tỉ lệ phụ nữ biết thời điểm sinh con hợp lí: 83,9%
Nguồn: [6]
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 49 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
48
Như vậy, GD giúp nâng cao trình
độ nhận thức, hiểu biết về sinh sản, cho
nên nó là chìa khóa vàng trong các biện
pháp giảm mức sinh.
2.2.2.2. Mức tử
Trình độ GD ảnh hưởng đặc biệt
đến mức tử của trẻ em, đặc biệt là trình
độ học vấn của phụ nữ. Theo các cuộc
điều tra nhân khẩu, tỉ suất chết trẻ em
dưới một tuổi càng giảm khi trình độ
học vấn của phụ nữ càng cao. [4]
Mức tử vong của trẻ em và trình
độ học vấn của người mẹ có mối quan
hệ khá chặt chẽ. Do không có số liệu
nghiên cứu này của tỉnh nên chúng tôi
sử dụng số liệu trong nghiên cứu mức
chết trẻ em dưới 1 tuổi và 5 tuổi chia
theo trình độ học vấn người mẹ của cả
nước năm 2009 để phân tích [7]. Con
của các phụ nữ chưa bao giờ đi học có
mức độ chết cao hơn so với con của các
phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn. Cụ
thể, tỉ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi của
phụ nữ chưa bao giờ đi học cao gần 3
lần so với tỉ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi
của phụ nữ đã tốt nghiệp THCS (71 so
với 25 trẻ dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ
sinh sống) và cao gần 4 lần so với tỉ
suất chết trẻ em dưới 5 tuổi của phụ nữ
đã tốt nghiệp THPT trở lên (71 so với
20 trẻ dưới 5 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh
sống). Tương tự, tỉ suất chết trẻ em
dưới 1 tuổi của phụ nữ đã tốt nghiệp từ
THPT trở lên thấp nhất (11 trẻ dưới 1
tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống).
2.2.2.3. Hôn nhân
Ảnh hưởng của GD đến hôn nhân
thể hiện qua quyền lựa chọn bạn đời,
tuổi kết hôn lần đầu và li hôn [4]. Trình
độ học vấn ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi
kết hôn của phụ nữ. Mặt khác, tuổi kết
hôn sớm hay muộn lại trực tiếp rút ngắn
thời gian mà phụ nữ có khả năng sinh
đẻ. Nếu phụ nữ kết hôn sớm thì khoảng
thời gian sinh đẻ sẽ kéo dài, và ngược
lại. Ví dụ, nếu lấy giới hạn sinh đẻ là
15-49 tuổi thì những người phụ nữ kết
hôn ở tuổi 19 sẽ có khoảng tuổi sinh
con là 30 năm, còn những người kết
hôn ở tuổi 27 thì sẽ có khoảng thời gian
đẻ sinh con là 22 năm. Kết quả tính
toán tuổi kết hôn trung bình của Long
An năm 2010 là 24,3 tuổi, đối với nữ là
22,1 và nam là 26,3. Tuổi kết hôn của
nam luôn cao hơn nữ và thời gian sinh
đẻ của phụ nữ tỉnh Long An đã rút ngắn
lại còn 27 năm do tuổi kết hôn trung
bình tăng lên cùng với sự nâng cao trình
độ học vấn. (Xem bảng 7)
Bảng 7. Trình độ học vấn và tuổi kết hôn trung bình 2010
TĐHV của người mẹ Tuổi kết hôn trung bình (X) Tổng số phụ nữ
Số con đã sinh
trung bình (Y)
Chưa đi học
Dưới tiểu học
Tiểu học
THCS
THPT
Trung cấp nghề, cao
đẳng trở lên
19,1
20,2
22,4
23,1
24,3
25,6
10.970
65.145
157.127
99.855
33.991
30.341
2,59
2,15
1,59
0,88
0,63
0,54
Nguồn: [6]
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lâm Huỳnh Hải Yến và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
49
Bảng 7 cho thấy tuổi kết hôn trung
bình của nhóm có trình độ học vấn càng
cao thì số con trung bình càng giảm, đây
là mối quan hệ tỉ lệ nghịch. Từ hai mối
quan hệ này, dựa vào phương pháp hồi
quy tương quan [5], chúng tôi xây dựng
phương trình sau:
Y= b0 +b1X
Với b0 là biến tự do; b1 là biến theo
X, ta được: Y = 8,982 - 0,3378 X
Trong đó hệ số tương quan r = -
0,586.
Qua đó cho thấy mối quan hệ tương
quan nghịch ở đây là khá chặt chẽ
(0,4<r<0,8).
Ý nghĩa khi tuổi kết hôn tăng lên 1
tuổi thì tổng số con trung bình giảm đi
0,34 con.
Ngoài ra, GD còn gián tiếp làm
giảm mức sinh thông qua thái độ đối với
hôn nhân và gia đình, khuyến khích phụ
nữ sinh muộn và hạn chế sinh sớm ngay
sau thời điểm kết hôn. Trình độ học vấn
càng cao sẽ làm thay đổi thái độ của
người phụ nữ đối với hôn nhân và gia
đình, họ thường chủ động lựa chọn thời
điểm kết hôn. Mặt khác, phụ nữ có trình
độ học vấn cao thường có lối suy nghĩ
tiến bộ và có kiến thức về chăm sóc và
GD con cái.
3. Kết luận và kiến nghị
DS và GD có mối liên hệ tương
quan khá chặt chẽ, những thay đổi trong
phát triển DS tác động rất lớn đến hệ
thống GD và GD tác động hiệu quả đến
hành vi con người, nhất là giúp nhận thức
cao trong vấn đề DS. Để sự phát triển DS
và GD bền vững hơn, chúng tôi đề xuất
một số kiến nghị sau:
- Tỉnh cần thực hiện và điều chỉnh
chính sách DS và kế hoạch hóa gia đình
một cách linh hoạt, tiến tới ổn định DS.
Hiện nay tỉnh đã bảo đảm mức sinh thay
thế nên giảm sinh không còn là vấn đề
quan trọng hàng đầu mà cần phải nâng
cao chất lượng DS và chất lượng cuộc
sống.
- Nâng cao hiệu quả đầu tư cho GD,
chú trọng hơn nữa công tác xóa đói giảm
nghèo và chính sách ưu tiên cho vùng
kinh tế khó khăn để quyền thụ hưởng các
dịch vụ xã hội, trong đó có GD, trở nên
bình đẳng cho tất cả mọi người.
- Củng cố vững chắc phổ cập GD
nhằm tăng cơ hội học tập cho mọi người,
nâng cao dân trí, đồng thời góp phần đáp
ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phát triển quy mô và cơ cấu hệ
thống GD một cách hợp lí trên cơ sở sự
gia tăng DS và phân bố địa lí dân cư.
Tỉnh cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa về
vấn đề dự báo DS gắn kết chặt chẽ với
chiến lược phát triển GD, tạo cơ sở vững
chắc cho việc hoạch định chiến lược phát
triển GD (vì hiện nay có rất ít những
nghiên cứu về vấn đề này).
- Nâng cao chất lượng trường học,
nâng cao hiệu quả GD, giảm thiểu tỉ lệ
HS yếu kém, lưu ban và tình trạng HS bỏ
học ở các cấp phổ thông. Đây là công
việc không dễ thực hiện do bị chi phối
bởi nhiều nhân tố, nhất là kinh tế. Sở
Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu
thêm về lí do bỏ học chính, tỉ lệ thôi học
theo giới, nơi ở và dân tộc để có những
giải pháp kịp thời trong việc giảm tỉ lệ
HS bỏ học.
- Tỉnh cần chú trọng giải pháp phát
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 49 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
50
triển GD đào tạo vì không những đáp ứng
được mục tiêu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của Chiến lược DS mà
còn nâng cao trình độ học vấn của phụ nữ
dẫn đến giảm sinh và giảm mức tử vong.
- Lồng ghép biến DS vào kế hoạch
phát triển GD (kế hoạch đào tạo giáo viên,
xây dựng trường lớp, đầu tư GD) sẽ giúp
cho mục tiêu của GD gắn với nhu cầu của
dân cư, từ đó định hướng tốt cho hoạt động
GD mà không làm lãng phí về của cải vật
chất nếu hai hoạt động phát triển DS và
phát triển GD tách rời nhau.
____________________
1Vùng KTTĐ gồm thành phố Tân An và các huyện: Cần Đước, Cần Giuộc, Bến Lức và Đức Hòa. Vùng
Đồng Tháp Mười gồm các huyện: Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Đức Huệ, Tân Thạnh, Thạnh Hóa. Vùng
hạ gồm các huyện còn lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tống Văn Đường (2001), Giáo trình dân số và phát triển, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
2. Cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 1999, 2003, 2007, 2011, 2012.
3. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2011), Từ điển Giáo
dục học, Nxb Từ điển Bách khoa.
4. Nguyễn Ngọc Huy (2006), Mối quan hệ giữa dân số và giáo dục ở nước ta, Tổng cục
Dân số kế hoạch hóa gia đình.
5. Nguyễn Kim Hồng (1995), Phát triển dân số và phát triển giáo dục ở Thành phố Hồ
Chí Minh, Đề tài cấp Bộ, mã số:304.609597.
6. Trần Thị Liễu (2010) Kiến thức thái độ thực hành về kế hoạch hóa gia đình của phụ
nữ tỉnh Long An, Luận văn Thạc sĩ điều dưỡng, Trường Đại học Y dược TPHCM.
7. Tổng cục Thống kê (2011), Mức sinh và mức chết ở Việt Nam: Hiện trạng, xu hướng
và những khác biệt, Hà Nội.
8. UBND tỉnh Long An (2011), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Long
An giai đoạn 2001-2010.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 23-7-2013; ngày phản biện đánh giá: 29-7-2013;
ngày chấp nhận đăng: 12-8-2013)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5_7343.pdf