Cần lưu ý chi phí cơ hội không phải là tổng giá trị các lựa chọn bị bỏ lỡ mà chỉ là giá trị của
lựa chọn tốt nhất có thể bởi vì người ta không thể nào cùng một lúc sử dụng nhiều lựa chọn
thay thế được. Trong ví dụ ban đầu, chi phí cơ hội của quyết định xây bệnh viện là việc mất
một khu đất trống để xây trung tâm thể thao, xây bãi đậu xe, hoặc số tiền có thể thu được
nếu bán khu đất đó, chứ không thể là tổng của 3 lựa chọn đó vì xét cho cùng khu đất đó
không thể nào cùng lúc được sử dụng cho hơn một mục đích được.
Tuy nhiên, hầu hết các chi phí cơ hội rất khó so sánh. Chi phí cơ hội chỉ có ý nghĩa trong
điều kiện khan hiếm nguồn lực, vì khi đó người ta sẽ buộc phải đánh đổi, nếu tiến hành hoạt
động này thì phải bỏ hoạt động khác.
Chi phí cơ hội thường được thể hiện dưới dạng giá tương đối, tức là giá của một lựa chọn
trong tương quan với lựa chọn khác. Ví dụ: Giá một bình sữa là 4 $ và một ổ bánh mì là 2 $
thì giá của một bình sữa là 2 ổ bánh mì. Đặc trưng này thể hiện rất rõ trong phân tích lợi thế
so sánh của David Ricardo.
32 trang |
Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học vĩ mô - Bài 1: Khái quát về kinh tế học vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
Thành tựu của kinh tế vĩ mô
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
10
1.3.1.2. Các mục tiêu của kinh tế vĩ mô
Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng, công bằng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải
hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
• Mục tiêu đạt mức sản lượng cao và tốc độ tăng trưởng nhanh
o Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên mức sản lượng
không thể giống nhau. Mục tiêu đặt ra của đại đa số các quốc gia trên thế giới là đạt
được sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Trong đó, mức
sản lượng tiềm năng (Y*) là mức sản lượng tối đa mà các quốc gia có thể sản xuất ra
trong điều kiện toàn dụng nhân công và không gây nên lạm phát.
Mức sản lượng thực tế cao
Mức sản lượng tiềm năng Y* được xác định tại điểm đường tổng cung trong dài hạn
cắt trục hoành.
Mức giá
(P)
0
Y* Sản lượng
(Y)
ASL
Hình 1.3. Mức sản lượng tiềm năng Y*
Đạt được mức sản lượng Y* không được gây nên lạm phát → nền kinh tế bình ổn
về giá cả, tỷ lệ lạm phát thực tế coi như bằng 0 → mọi người đều có việc làm → tỷ
lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Đạt được mức sản lượng Y* nhưng không được làm ảnh hưởng đến môi trường
tự nhiên và tài nguyên, thiên nhiên.
Đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững
o Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm hay sự gia tăng về
quy mô sản lượng của một nền kinh tế trong một thời kỳ
nhất định (thường là 1 năm). Đó là kết quả của các hoạt
động sản xuất – kinh doanh các loại hàng hoá và dịch vụ
do nền kinh tế tạo ra. Mỗi quốc gia muốn phát triển thì
phải có sự tăng trưởng sản lượng, điều này nhằm đảm
bảo mối quan hệ kinh tế ổn định, đảm bảo sự phát triển
của nền kinh tế.
Cơ giới hóa
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
11
o Công thức xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế:
t t 1
t
t 1
GDP GDPg 100%
GDP
−
−
−= ⋅
Trong đó: gt là tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm t
GDPt là tổng sản phẩm quốc nội của năm t
GDPt–1 là tổng sản phẩm quốc nội của năm cơ sở (t–1)
Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên mỗi lao động hàng năm
của một số nước trên thế giới
1961 − 1970 1971 − 1980 1981 − 1990 1991 − 2000 1961 − 2000
Pháp 4.9 2.8 2.3 1.5 2.9
Đức 4.2 2.6 1.7 1.6 2.5
Italy 6.2 2.6 1.6 1.5 3
Ireland 4.2 3.7 3.8 3.5 3.8
Nhật 8.6 3.7 3.1 0.9 4.1
Hà Lan 3.9 2.7 1.6 1.2 2.4
Anh 2.6 1.6 2.2 1.9 2.1
Mỹ 2.3 1.2 1.3 1.8 1.7
Nguồn: Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô của Mankiw
Bảng 1.3: GDP và xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1986 đếm năm 2004
Năm
Dân số
(triệu
người)
GDP (tỷ
USD)
GDP/
người
(USD)
Tỷ lệ tăng
GDP (%)
XK
(triệu
USD)
Tỷ lệ tăng
xuất khẩu
(%)
XK trên
GDP (%)
1986 61,1093 5367,26 87,8 2,84 789 13 14,7
1987 62,4524 5547,6 88,8 3,36 854 8,2 15,39
1988 63,7274 5881,02 92,3 6,01 1038 21,6 17,65
1989 64,774 6156,24 95 4,68 1946 87,4 31,61
1990 66,0167 6469,64 98 5,09 2404 23,5 37,16
1991 67,2424 8001,85 119 5,81 2087 –13,2 28,08
1992 68,4501 9925,26 145 8,7 2581 23,7 26
1993 69,6445 13232,5 190 8,08 2985 15,7 25,56
1994 70,8245 16148 228 8,83 4054 35,8 25,11
1995 71,9955 20806,7 289 9,54 5449 34,4 26,19
1996 73,1567 24653,8 337 9,34 7256 33,2 29,43
1997 74,3069 27047,7 364 8,15 9185 26,6 33,96
1998 75,4563 27239,7 361 5,76 9360 1,9 34,36
1999 76,5967 28723,8 375 4,77 11541 23,3 40,18
2000 77,6354 31209,4 402 6,79 14455 25,5 46,32
2001 78,6858 32654,6 415 6,89 15027 4 46,02
2002 79,7274 35080,1 440 7,08 16706 11,2 47,62
2003 80,9024 37654,9 465,4 7,34 20176 20,8 53,58
2004 82,0698 40550,6 494 7,69 26003 28,9 64,12
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
12
Hình 1.4. GDP, % xuất khẩu, và xuất khẩu trong GDP
Khi các nhà kinh tế nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, họ quan tâm đến tăng trưởng của mức
sản lượng thực tế (hay sản lượng trên mỗi đầu người) qua một thời kỳ dài để có thể xác định
được các yếu tố làm tăng GDP thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn.
• Tạo công ăn việc làm tốt và giảm tỷ lệ thất nghiệp
o Muốn tăng thu nhập cho người dân và tăng thu nhập cho nền kinh tế thì chính phủ
phải tạo được nhiều công ăn, việc làm tốt.
o Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp (và duy trì ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) nhằm tạo ra
mức sản lượng cao cho xã hội.
• Ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp
o Giá cả là mục tiêu đầu ra của nền kinh tế, sản xuất, tiêu dùng. Khi giá cả biến động
thì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế, do đó để bình ổn được giá cả thì nên có sự can thiệp
của Nhà nước.
o Phải ổn định được giá cả và kiềm chế được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do.
Tình trạng lạm phát
Giá cả tiêu dùng leo thang
• Kinh tế đối ngoại
o Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán là một bảng kết toán tổng
hợp luồng bán buôn hàng hoá và dịch vụ, luồng chu chuyển về vốn giữa một công
dân, một quốc gia với các quốc gia còn lại trên thế giới.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
13
Quan hệ kinh tế đối ngoại
Phân phối công bằng
Khi cán cân thanh toán mất cân đối → nền kinh tế không ổn định.
Muốn cân bằng cán cân thanh toán thì phải ổn định tỷ giá hối đoái.
o Ổn định tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả tiền tệ của một quốc gia được tính
bằng tiền tệ của một quốc gia khác. Giá ngoại tệ không ổn
định sẽ ảnh hưởng đến những hoạt động của nền kinh tế.
Phải ổn định được tỷ giá hối đoái và bảo đảm cán cân thanh
toán quốc tế.
• Phân phối công bằng
Đây vừa là mục tiêu kinh tế vừa là mục tiêu chính trị – xã hội,
nó đề cập đến việc hạn chế sự bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập. Dân cư đều phải được chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc
giáo dục và văn hoá thông qua các hàng hoá công cộng của
quốc gia. Một số nước coi mục tiêu phân phối công bằng là
một trong các mục tiêu quan trọng.
Nghiên cứu các mục tiêu trên đây, chúng ta cần lưu ý:
o Đó là những mục tiêu thể hiện một trạng thái lí tưởng,
trong đó sản lượng đạt được ở mức toàn dụng nhân
công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán quốc tế thăng
bằng và tỷ giá hối đoái là cố định. Trên thực tế, các chính sách Kinh tế vĩ mô chỉ có
thể tối thiểu hoá sai lệch giữa thực tiễn so với ý niệm mà con người mơ tưởng.
o Các mục tiêu trên thường bổ sung cho nhau và trong chừng mực nhất định, chúng
hướng vào việc đảm bảo sự tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có thể xuất hiện các xung đột hoặc các mâu thuẫn
cục bộ. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi
phải chấp nhận một sự “hy sinh” nhất định trong một thời kì ngắn hạn.
o Về mặt dài hạn, thứ tự ưu tiên trên đây cũng khác nhau giữa các quốc gia. Ở các
nước đang phát triển, tăng trưởng thường giữ vị trí ưu tiên số một. Tuy nhiên, một số
nước đã thành công trong việc giải quyết đồng thời các mục tiêu kinh tế nêu trên
trong quá trình phát triển của mình.
o Các nhà kinh tế thường sử dụng hệ số Gini để phản ánh công bằng trong việc phân
phối thu nhập. Giá trị của hệ số Gini thường được xác định bởi công thức:
AGini
A B
= +
A
B
Dân số cộng dồn
T
h
u
n
h
ậ
p
cộ
n
g
d
ồ
n
Hình 1.5. Mục tiêu phân phối thu nhập cân bằng
Ở Việt Nam, hệ số Gini là 0,34 năm 1993 và tăng lên mức 0,37 năm 2004.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
14
Chính sách tài khoá
Chính sách thu nhập
1.3.2. Các công cụ kinh tế vĩ mô
Để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính
sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có những cộng cụ riêng biệt. Dưới đây là một số chính
sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà các Chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
thường sử dụng trong lịch sử lâu dài và đa dạng của họ.
1.3.2.1. Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để hướng nền kinh
tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của Chính
phủ và thuế. Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng một cách trực
tiếp tới quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể trực tiếp tác
động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế làm giảm các khoản thu
nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân và từ đó cũng tác
động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế khoá cũng có thể tác động
đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn.
Trong ngắn hạn: 1 năm đến 2 năm, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và
lạm phát, phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Về mặt dài hạn, chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giúp cho
sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
1.3.2.2. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức
sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền tệ
và lãi suất. Khi NHTƯ thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ
tăng hoặc giảm, tác động đến đầu tư tư nhân, do vậy sẽ có ảnh
hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GNP thực tế, về
mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh
hưởng lớn đến GNP tiềm năng về mặt dài hạn.
1.3.2.3. Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp (công cụ) mà
Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để
kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ các công cụ có tính
chất cứng rắn như giá cả, tiền lương, những chỉ dẫn chung để ấn định
tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá
cả và tiền lương,... đến những công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng
dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập, ...
1.3.2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước thị trường mở là nhằm ổn định tỷ giá hối đoái
và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được.
Chính sách tiền tệ
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
15
Chính sách đối ngoại
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các quy định
về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch, và những biện pháp tài chính và tiền tệ khác có tác
động đến hoạt động xuất khẩu.
Trên đây là tập hợp các chính sách và công cụ chính
sách chủ yếu mang sắc thái lý thuyết phù hợp với nền
kinh tế thị trường đã phát triển. Trong thực tế, biểu hiện
và sự vận dụng các chính sách này rất đa dạng, đặc biệt
là các nước có nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên,
đó là đối tượng nghiên cứu của môn học lý thuyết phát
triển. Trong các bài sau, chúng ta sẽ trở lại thảo luận
sâu hơn về cơ chế tác động của chính sách này trong
một nền kinh tế thị trường mang tính chất tiêu biểu.
1.4. Hệ thống kinh tế vĩ mô
Có nhiều cách mô tả hoạt động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống, nền kinh tế
được xem như một hệ thống gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống này – như Paul.A.Samuelson
mô tả – được đặc trưng bởi ba yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô.
• Các yếu tố đầu vào bao gồm:
o Những tác động từ bên ngoài, bao gồm chủ yếu các biến số phi kinh tế như thời tiết,
dân số, chiến tranh, v.v...
o Những tác động của các biến số kinh tế như các chính sách kinh tế, bao gồm các công
cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới các mục tiêu đã
định trước.
• Các yếu tố đầu ra bao gồm: Sản lượng, việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu. Đó là các biến
do hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra.
• Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh tế vĩ mô
(Macroeconomy). Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của các
biến đầu ra. 2 lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung
và tổng cầu.
1.4.1. Sơ đồ hệ thống kinh tế vĩ mô
Sơ đồ hệ thống kinh tế vĩ mô
1.4.2. Các vấn đề cơ bản về tổng cung (AS) và tổng cầu (AD) của nền kinh tế
Tổng cung và tổng cầu là 2 thuật ngữ được các nhà kinh tế sử dụng khá thường xuyên.
Chúng là những nhân tố làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Mô hình tổng cung và
tổng cầu chỉ ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và mức giá chung của nền
kinh tế. Bây giờ, chúng ta sẽ lần lượt xem xét qua các khái niệm cơ bản và các yếu tố tác
động đến tổng cung và tổng cầu.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
16
1.4.2.1. Tổng cung (AS)
• Khái niệm
Tổng cung bao gồm tổng khối lượng các sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản
xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản
xuất đã cho.
Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền
kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát.
Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất, đặc biệt là lao động.
• Đồ thị đường tổng cung AS
Đường tổng cung là đường có hướng dốc lên:
o Đường tổng cung dài hạn là đường song song với trục tung và cắt trục hoành ở mức
sản lượng tiềm năng.
o Đường tổng cung ngắn hạn: Đường tổng cung ban đầu tương đối nằm ngang, khi
vượt qua điểm sản lượng tiềm năng, đường tổng cung sẽ dốc ngược lên.
Mức giá
(P)
0
Y* Sản lượng
(Y)
ASL
ASS
Hình 1.6. Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn
Đường tổng cung trong dài hạn là đường thẳng đứng (ASL) cắt trục hoành tại mức sản
lượng tiềm năng Y*. Đường tổng cung trong ngắn hạn là đường ASS có xu hướng dốc lên.
Điều này nói lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả đầu
ra sẽ khuyến khích các hãng tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu tăng lên. Sở dĩ có các
hành động như vậy vì, trong khoảng thời gian ngắn, đứng trước giá đầu vào cố định, họ có
thể đồng thời tăng sản lượng và tăng giá nhẹ để thu lợi nhuận.
Về mặt dài hạn, chi phí đầu vào đã điều chỉnh thì các hãng không còn động lực để tăng sản
lượng. Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp ứng với sự thay đổi của tổng mức cầu. Đường
cung dài hạn do đó là đường thẳng đứng.
• Những nhân tố ảnh hưởng tới tổng cung
Tổng cung phụ thuộc vào chủ yếu vào giá cả và chi phí. Khi giá cả và chi phí sản xuất thấp,
các doanh nghiệp có thể sản xuất ít hơn sản lượng tiềm năng. Với mức giá cao hơn, thì
ngược lại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp luôn muốn tăng sản lượng của mình để đạt tới mức
sản lượng tiềm năng. Do vậy, ngoài yếu tố giá cả và chi phí, tổng cung còn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố làm tăng sản lượng tiềm năng.
Cụ thể, tổng cung phụ thuộc vào các yếu tố sau:
o Các yếu tố làm thay đổi đồng thời tổng cung ngắn hạn và tổng cung dài hạn:
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
17
Tổng cầu
Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực mà càng đông thì khối lượng sản phẩm và dịch
vụ sản xuất càng lớn. Nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, thành thạo nghề
nghiệp thì năng suất lao động càng cao.
Cơ sở vật chất kỹ thuật, tiến bộ công nghệ:
Máy móc thiết bị, cơ sở vật chất càng nhiều,
càng hiện đại, thì năng suất lao động càng cao và
khối lượng sản phẩm dịch vụ sản xuất càng lớn.
Trình độ công nghệ có ảnh hưởng quan trọng đối
với tổng cung. Việc phát minh các phương pháp
sản xuất mới, hiệu quả hơn, cho phép các xí
nghiệp sản xuất nhiều hơn với cùng một khối
lượng yếu tố sản xuất. Ngay cả khi dân số và cơ
sở vật chất không đổi, tiến bộ kỹ thuật có thể làm
tăng sản lượng và tổng cung.
Vốn con người: Nguồn nguyên liệu: Sự dồi dào, phong phú của nguồn nguyên
liệu có tác động rất đáng kể đối với sản lượng. Việc phát hiện ra các nguồn nguyên
liệu mới góp phần làm giảm chi phí sản xuất và tăng sản lượng. Ngược lại, sự cạn
kiệt các nguồn tài nguyên sẽ có tác động làm giảm sản lượng.
Thời tiết, khí hậu: Thời tiết chắc chắn có ảnh hưởng đối với sản lượng, đặc biệt
trong nông nghiệp. Thời tiết thuận lợi sẽ làm tăng sản lượng, còn thời tiết bất lợi
sẽ làm giảm sản lượng.
Những thay đổi trong thành phần của GDP thực: Khi các vùng và các thành
phần của nền kinh tế phát triển theo cùng một nhịp thì thành phần của GDP thực
ổn định. Ngược lại khi có một vài khu vực tăng trưởng nhanh trong khi một số khu
vực khác lại sa sút thì thành phần của GDP thực thay đổi nhanh chóng. Trong
trường hợp này, nguồn nhân lực sẽ chuyển dịch để thích ứng với sự thay đổi của
cơ cấu kinh tế, làm cho tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng, tổng cung giảm xuống.
Những yếu tố kích thích: Đây là những yếu tố (thường là các chính sách) có tác
dụng khuyến khích hoặc ngăn cản người ta đi đến một hành động nào đó. Những
yếu tố này cũng có thể có ảnh hưởng đối với tổng cung. Một mức thuế quá cao có
thể không khuyến khích dân chúng làm việc, không khuyến khích tiết kiệm hoặc
tích luỹ vốn. Do đó chính sách tăng thuế có tác dụng làm giảm tổng cung.
o Những yếu tố chỉ làm thay đổi tổng cung ngắn hạn:
Tiền lương: Tiền lương có ảnh hưởng đối với tổng cung ngắn hạn vì tiền lương là
một bộ phận quan trọng của chi phí sản xuất. Tiền lương càng cao, phí tổn sản
xuất của các xí nghiệp càng lớn và do đó xí nghiệp sẽ giảm khối lượng sản phẩm
cung ứng đối với mọi mức giá.
Giá của các yếu tố sản xuất khác: Giá của các yếu tố sản xuất khác cũng có tác
động tương tự như tác động của tiền lương đối với tổng cung ngắn hạn. Mọi mức
tăng giá của các yếu tố sản xuất đều làm tăng chi phí sản xuất của xí nghiệp và xí
nghiệp sẽ giảm sản lượng đối với mọi mức giá.
1.4.2.2. Tổng cầu (Agrregate Demand – AD)
• Khái niệm
Là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn mua và có
khả năng mua ở mức giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế khác nhau đã cho.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
18
Tổng khối lượng hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân là tổng giá trị nền kinh tế
quốc dân.
Ví dụ: Theo Tổng cục Thống kê, năm 2008 tổng sản phẩm quốc nội (tổng cầu) của Việt Nam
là 87 tỷ USD.
• Đồ thị đường tổng cầu AD
Đường tổng cầu AD là đường dốc xuống, có độ dốc âm; trục tung biểu thị mức giá chung
(chẳng hạn là chỉ số CPI) ký hiệu là P, còn được gọi là mặt bằng giá; Y là mức sản lượng
(hoặc thu nhập), ta thường dùng GNP thực tế để tính.
Mức giá
(P)
Sản lượng thực tế (Y)
0
AD
Hình 1.7. Đường tổng cầu
Đường tổng cầu là đường dốc xuống về phía phải biểu thị mối quan hệ giữa mức giá chung
và sản lượng thực tế.
Tại sao đường cầu dốc xuống? Trong trường hợp một sản phẩm cá biệt, dạng dốc xuống
của đường cầu sản phẩm là tương đối dễ giải thích. Nếu giá của một loại nước ngọt nào đó
tăng thì khối lượng cầu của loại nước ngọt đó giảm vì người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử
dụng các loại nước ngọt khác. Cũng có thể giải thích tương tự đối với dạng dốc xuống của
đường cầu của tất cả các sản phẩm cùng một loại. Ví dụ: Nếu giá của tất cả các loại nước
ngọt đều tăng, thì khối lượng cầu của mặt hàng nước ngọt giảm vì người tiêu dùng sẽ
chuyển sang tiêu dùng các loại nước giải khát khác hoặc các loại sản phẩm khác.
Nếu giá của tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ đều tăng (mức giá tăng) thì khối lượng chi
tiêu của toàn bộ nền kinh tế có xu hướng tăng lên, tổng cầu tăng lên? Nguyên nhân dẫn đến
điều đó là do khi giá cả giảm, thu nhập thực tế của công chúng tăng lên, tiêu dùng thực tế sẽ
cao hơn, tổng cầu cũng sẽ cao hơn.
1.4.2.3. Những nhân tố làm thay đổi tổng cầu
• Mức giá cả chung trong nền kinh tế quốc dân: Giá cả tăng thì tổng mức cầu giảm và
ngược lại. Khi mức giá chung thay đổi, tổng cầu sẽ không đổi mà xảy ra sự vận động các
điểm dọc theo đường tổng cầu.
• Các nhân tố khác: Các nhân tố này thay đổi sẽ làm cho đường tổng cẩu dịch chuyển
sang vị trí mới.
o Nhân tố lãi suất: Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, khi lãi suất tăng sẽ làm giảm
tổng cầu.
o Lạm phát được dự đoán: Khi tỷ lệ lạm phát được dự đoán tăng, tổng cầu tăng, nếu
các yếu tố khác không đổi.
o Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến tổng cầu vì nó chi phối đồng thời
giá mà người nước ngoài phải trả để mua sản phẩm sản xuất ở trong nước và giá mà
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
19
người trong nước phải trả để mua sản phẩm của nước ngoài. Khi đồng nội tệ tăng giá
so với đồng ngoại tệ, tổng cầu sẽ giảm.
o Lợi nhuận dự đoán: Khi xuất hiện những nhân tố làm tăng mức dự đoán về lợi nhuận,
tổng cầu tăng, vì một tình hình kinh doanh lạc quan hơn sẽ kích thích các doanh
nghiệp tăng đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ. Mặt khác, triển vọng tăng thu nhập
khuyến khích người ta tăng chi tiêu.
o Khối lượng tiền (Mức cung tiền): Một sự thay đổi của mức cung tiền sẽ có sự thay
đổi của lãi suất và tác động tới tổng cầu.
o Thu nhập của người tiêu dùng tăng: Thu nhập của người tiêu dùng tăng, chi tiêu về
hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng, tổng cầu sẽ tăng.
o Cầu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ có tác động trực tiếp tới tổng cầu.
Giả định thuế không đổi, khi Chính phủ tăng chi tiêu cho các công trình xây dựng cầu,
đường thì tổng cầu sẽ tăng,...
o Ngoài ra còn có các nhân tố: Thuế và chi chuyển nhượng; xuất nhập khẩu; dân số,
v.v... cũng có tác động rất lớn đến tổng cầu.
o Đầu tư của của các hãng tư nhân, v.v...
1.4.3. Phân tích biến động của sản lượng, việc làm, và giá cả trong nền kinh tế trên mô
hình AD–AS
1.4.3.1. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế
Nếu đưa hai đồ thị AD và AS vào cùng một hệ trục tọa độ ta sẽ thấy hai đường đó cắt nhau
tại E0. Điểm E0 gọi là điểm cân bằng. Cân bằng tổng cung, tổng cầu còn gọi là cân bằng của
thị trường hàng hoá và dịch vụ của quốc gia.
Đường tổng cung và đường tổng cầu cắt nhau tại E0 xác định mức giá cân bằng P0 và
thu nhập cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng Y*.
Điểm E0 là điểm cân bằng dài hạn của nền kinh tế, tại đó AD = ASL=ASS. Mức giá P0 gọi
là giá cân bằng của nền kinh tế, tại điểm E0, nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng, các hãng
luôn luôn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của nền kinh tế.
Tại trạng thái cân bằng dài hạn, mức sản lượng Y0 bằng mức sản lượng tiềm năng Y*, tại đó
tỷ lệ lạm phát bằng lạm phát dự kiến, giá cả bình ổn, và tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên. Hầu hết các quốc gia đều muốn đạt được trạng thái cân bằng này.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
ASL
ASS
E
0
Y*
AD
O
Hình 1.8. Trạng thái cân bằng của nền kinh tế trong mô hình AS–AD
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
20
1.4.3.2. Sự di chuyển và dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu
Cần phân biệt sự di chuyển tổng cung và tổng cầu và sự dịch chuyển toàn bộ hai đường đó
trong hệ trục:
• Sự di chuyển theo đường AS và AD biểu thị những thay đổi trong tổng mức cung hoặc
tổng mức cầu tuỳ thuộc vào giá cả thay đổi.
• Sự dịch chuyển toàn bộ đường AS và AD biểu thị những thay đổi của tổng cung hoặc
tổng cầu, phụ thuộc vào tác động của những biến số khác ngoài giá cả.
Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái hoặc sang phải chủ yếu tuỳ thuộc vào tác động của
các biến chính sách như thuế, chi tiêu của Chính phủ, lãi suất,...
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái hoặc phải phụ thuộc vào tác động của lao động,
tài nguyên, kỹ thuật và các chi phí đầu vào khác.
Khi nghiên cứu tác động của một yếu tố nào đó đến AD hoặc AS người ta thường cố định
những nhân tố khác, làm cho việc phân tích trở nên dễ dàng hơn.
Ví dụ: Sự tác động của tổng cung, tổng cầu đến sản lượng cân bằng của nền kinh tế.
• Trường hợp 1: Giả sử nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp lâm
vào tình trạng làm ăn đình đốn, kinh doanh trì trệ, họ không muốn đầu tư thêm, các hộ
gia đình không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng, do đó tổng cầu của nền kinh tế đạt ở
mức thấp so với sản lượng tiềm năng, người lao động bị đẩy vào tình trạng mất việc, thất
nghiệp gia tăng. Mục tiêu đặt ra của Chính phủ trong trường hợp này là phải giảm thất
nghiệp bằng cách mở rộng tổng cầu như sau:
Khi sản lượng thấp hơn Y*, Chính phủ tăng chi tiêu của chính phủ làm tăng tổng cầu từ
AD0 → AD1. Sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y0 đến Y*, mức giá tăng lên từ
P0 đến P1.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
P
1
P
0
0
Y
0
Y*
ASL
ASS
AD
1
AD
0
E
1
E
0
Hình 1.9. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (a)
o Khi Chính phủ tăng mức chi tiêu, làm cho tổng cầu (AD) tăng từ AD1 đến AD0. Sản
lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y0 lên Y* (sản lượng tiềm năng), giá tăng từ P1
đến P* (mức giá cân bằng của thị trường). Do giá cả thị trường tăng, các doanh nghiệp
đầu tư nhiều hơn để phát triển sản xuất tìm kiếm lợi nhuận, do đó đã tạo ra nhiều việc
làm góp phần làm cho thất nghiệp giảm.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
21
o Khi Chính phủ giảm thuế, với mục đích để khuyến khích tiêu dùng của dân chúng và
đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên làm cho tổng cầu (AD) tăng từ AD0 đến AD1,
giá tăng từ P0 đến P1, sản lượng cân bằng sẽ tăng từ Y0 đến Y*, thất nghiệp giảm.
• Trường hợp 2: Khi nền kinh tế tăng trưởng “quá nóng”, có thể do các cú sốc cầu gây
nên, sản lượng cân bằng của nền kinh tế vượt quá mức sản lượng tiềm năng (Y*),
lạm phát tăng, gây ra những bất lợi cho nền kinh tế nói chung và mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Trong trường hợp này, mục tiêu của Chính
phủ là phải làm giảm lạm phát bằng cách cắt giảm chi tiêu hoặc tăng thuế, nhờ đó mà
mức chi tiêu chung (tổng cầu) giảm, sản lượng cũng giảm và lạm phát chững lại.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
P
0
P
1
0
Y* Y
1
ASL
ASS
E
1
AD
1
AD
0
Hình 1.10. Sự dịch chuyển đường tổng cầu (b)
• Khi sản lượng vượt quá mức Y*, lạm phát cao, Chính phủ có thể giảm chi tiêu G, tổng
cầu dịch chuyển từ AD1→AD0, sản lượng cân bằng giảm xuống Y* và mức giá giảm từ
P1 đến P0.
• Trên đồ thị cho thấy, do tổng cầu của nền kinh tế tăng từ AD0 đến AD1, sản lượng Y1
vượt quá mức sản lượng tiềm năng Y*, do đó giá tăng từ P0 đến P1 và gây ra lạm phát.
Để chống lạm phát, Chính phủ đã sử dụng chính sách tài khoá để can thiệp vào nền
kinh tế bằng cách cắt giảm chi tiêu (G) hoặc tăng thuế (T). Do đó, tổng cầu của nền kinh
tế giảm, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 xuống AD0, điểm cân bằng dịch chuyển từ
E1 xuống E0, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 xuống Y*, giá giảm từ P1 xuống P0,
lạm phát cũng chững lại nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài hạn tại E0.
1.5. Phân tích mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
1.5.1. Chu kỳ kinh tế và khoảng cách sản lượng
Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống đối
với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất nghiệp
và lạm phát.
Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản
lượng tiềm năng. Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt
sản lượng.
Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
22
Hình 1.11. Khoảng cách sản lượng
Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại chu kỳ
kinh tế – nhằm ổn định kinh tế.
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình
tự 3 pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha
phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm 2 pha chính là suy thoái và hưng thịnh
(hay mở rộng).
Suy thoái Phục hồi Hưng thịnh
S
ố
lư
ợ
n
g
Đỉnh
Đỉnh
Thu hẹp Khuếch trương
Thời gian
Đáy
Hình 1.12. Chu kỳ kinh tế
P
h
ụ
c
h
ồ
i
P
h
ụ
c
h
ồ
i
P
h
ụ
c
h
ồ
iS
ả
n
lư
ợ
n
g
Đỉnh
Đỉnh
Đỉnh
Đỉnh
Thời gian
Đáy
Đáy Đáy
G
iảm
sú
t
G
iảm
sú
t
G
iả
m
sú
t
Xu
hư
ớn
g
Hình 1.13. Xu hướng của chu kỳ kinh tế
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
23
Các pha của chu kỳ kinh tế:
• Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định
rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới
gọi là suy thoái.
• Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm
ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
• Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh
tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt
đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh
của chu kỳ kinh tế.
Hình 1.14. Chu kỳ kinh tế của Mỹ giai đoạn 2000 – 2007
Nhìn vào hình 1.12:
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế
đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều
giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu
hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm
thường gặp của suy thoái là:
• Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh
nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo
theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
• Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp
theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
• Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi
nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong
giai đoạn kinh tế suy thoái.
• Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo
khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng
giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
24
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái,
khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng
theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,.v.v.
không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu
hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một
số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn
pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Hiện nay không còn thấy cách
gọi này nữa ở Việt Nam.
Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào
hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo một cách chính
xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy
thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy
thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho
đến thị trường vốn,.v.v. thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
Sản lượng
tiềm năng
Y
0
Y
1
P
P
AD
AD’
AS
0
Hình 1.15. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế
Một sự suy giảm của tổng cầu, đường tổng cầu dịch chuyển từ AD → AD’, mức giá chung
và sản lượng cân bằng đều giảm.
Mức giá
(P)
Sản lượng
(Y)
Sản lượng
tiềm năng
Y
0
Y
1
0
P’
P
AD
AS’
AS
Hình 1.16. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế và biện pháp đối phó
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
25
Khi có một sự suy giảm của tổng cung, đường tổng cung dịch chuyển sang trái từ AS→AS’,
mức giá chung tăng lên từ 'P P→ , thu nhập cân bằng giảm.
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế của
Nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế.
Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất,
chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên,
vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế vĩ mô giống nhau,
nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
• Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo,
khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính
sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính
sách đó sang thắt chặt. Hình 15 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: Tổng cầu
dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho sản lượng giảm từ Y0 xuống Y1 và giá cả giảm
từ P đến P' (lạm phát giảm).
• Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự
can thiệp của Chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy
ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, Chính phủ
không nên can thiệp gì cả. Hình 16 minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung
giảm: Vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS đến AS'
khiến cho sản lượng giảm từ Y0 xuống Y1 nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng).
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
• Lý thuyết tiền tệ: Cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách
tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel
kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này
tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Mỹ 1981 – 1982 khi Cục Dự trữ Liên bang
tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
• Mô hình gia tốc – số nhân: Do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến
động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư
tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
• Lý thuyết chính trị: Đại diện là các nhà kinh tế học như William Nordhaus, Michał
Kalecki,... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế
vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: Với những đại diện như Robert Lucas,
Jr., Robert Barro, Thomas Sargent,... phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận
động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến
các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ
lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức
cân bằng của thị trường lao động.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: Lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu
cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra
những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học
đoạt giải Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,...
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
26
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ ra
đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, khi quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế
công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn
về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân
quan trọng là Chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu biết về
kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, Nhà nước
có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng.
Dự báo chu kỳ kinh tế:
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay đổi
trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản lượng
một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển,... rồi công
thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của
công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức tạp với hàng
chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên phong trong sự
phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải Nobel năm 1969),
Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Chính nhhờ đó, dự báo biến động kinh tế vĩ mô đã
có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có những thay đổi về những
chính sách lớn.
1.5.2. Tăng trưởng và thất nghiệp
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng
đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy, nếu tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có
xu hướng giảm đi và ngược lại.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp được lượng hóa dưới tên gọi
quy luật Okun (Arthur Okun – 1929 – 1979) hay quy luật (2,5 – 1). Quy luật nói lên, nếu
GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm, so với GNP tiềm năng của năm đó, thì tỷ lệ
thất nghiệp sẽ giảm đi đúng 1%. Quy luật này mang tính chất gần đúng và chỉ cho một nhận
định khái quát về mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp ở những nước có thị trường
phát triển.
1.5.3. Tăng trưởng và lạm phát
Các sự kiện lịch sử ở nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao
thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song giữa tăng trưởng và lạm phát có mối
quan hệ như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả? Về vấn đề này, kinh tế vĩ mô chưa
có câu trả lời rõ ràng.
Nhưng điều rõ ràng là muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn thì các chính sách kinh tế
đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một
thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp.
Lý thuyết về mối quan hệ này thì lạm phát được coi là một hiện tượng tất yếu của các nền
kinh tế đang tăng trưởng trong khi phải đối phó với những mất cân bằng mang tính cơ cấu.
Các nhà cơ cấu cho rằng giữa lạm phát có mối quan hệ tỉ lệ thuận, tức là nếu có tăng trưởng
kinh tế tất yếu có lạm phát. Những lỗ lực nhằm kiềm chế lạm phát có xu hướng làm tăng
tỉ lệ thất nghiệp và gây ra tình trạng trì trệ trong sản xuất dẫn tới bất lợi cho tăng trưởng:
Trong thực tế, bất kể một quốc gia nào đều đã trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ
lạm phát tăng với quy mô khác nhau. Tỷ lệ lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hóa chung
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
27
tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của các công nhân không tăng, do đó tiền lương thực tế
của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ phải tổ chức đấu tranh, bãi công đòi tăng
lương, do đó làm cho sản xuất đình trệ đồng thời khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn,
tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Lúc này, nền kinh tế gặp khó khăn, suy thoái dẫn đến thâm
hụt ngân sách tạo điều kiện gây ra lạm phát càng tăng cao.
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là hai mặt song song tồn tại trong nền kinh tế của
bất kỳ một quốc gia nào. Vì bên cạnh những hậu quả mà lạm phát đem lại, thì lạm phát ở
mức vừa phải sẽ tạo động lực thúc đẩy các nước đang phát triển tăng trưởng. Bởi lẽ lạm
phát sẽ làm tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương
sang tăng thu nhập của doanh nghiệp lấy lãi. Nếu giá càng tăng sẽ càng làm tăng khoản tiết
kiệm từ lợi nhuận cao hơn và tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Kết quả đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát có tác động làm phân phối lại thu nhập từ khu vực tư nhân sang khu vực Nhà
nước do vậy có thể làm tăng trưởng kinh tế. Việc dự báo và điều chỉnh hoàn toàn được lạm
phát thì lạm phát sẽ làm tăng nguồn thu cho Nhà nước, mà đây cũng là nguồn đầu tư thực tế
của một quốc gia. Như vậy, nó sẽ làm tăng đầu tư và kết quả cuối cùng là thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng.
Tuy nhiên, khi lạm phát quá cao không có khả năng kiểm soát và có sự điều chỉnh hợp lý
của Chính phủ lại làm mức lãi suất thực tế giảm gây ra sự mất cân bằng trong thị trường
vốn. Dẫn tới cung nguồn vốn đầu tư giảm làm đầu tư tư nhân bị hạn chế. Như vậy, lạm phát
cao đưa đến giảm lãi suất thực dương và thị trường vốn mất cân bằng, kết quả đầu tư và
tăng trưởng kinh tế đều giảm.
Nếu lạm phát cao và biến đổi liên tục sẽ làm đầu tư tư nhân có xu hướng đổ sang đầu tư thu
lợi nhuận bằng các dự án đầu tư ngắn hạn. Lúc này, chất lượng đầu tư không được đảm bảo.
Bên cạnh đó, nguồn đầu tư dài hạn thì thiếu trong khi lượng vốn trong nước dư thừa.
Bảng 1.4: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát Việt Nam
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993
Tốc độ tăng trưởng 2,33 3,78 4,86 8,1 5,3 6,1 8,6 7,9
Tỷ lệ lạm phát 747,4 231,8 393,8 34,7 67,4 67,6 17,6 5,2
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Tốc độ tăng trưởng 9 9,5 9,3 8,8 6,3 4,8 6,8 6,9
Tỷ lệ lạm phát 14,4 12,7 4,5 3,6 6,8 4,4 –1,6 –0,4
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tốc độ tăng trưởng 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5
Tỷ lệ lạm phát –1,6 –0,4 4 4,3 9,4 8,4 6,6 12,63
Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.5.4. Lạm phát và thất nghiệp
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được giải thích bởi mô hình đường Phillips (mối
quan hệ này được phân tích kỹ ở bài 7 trong cuốn giáo trình này). Đường cong Phillips biểu
thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát (đường cong Phillips phiên bản lạm
phát) hoặc giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng GDP (đường cong Phillips phiên
bản GDP). Đường này được đặt theo tên Alban William Phillips, người mà vào năm 1958
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
28
đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm dựa trên dữ liệu của nước Anh từ năm 1861 đến năm
1957 và phát hiện ra tương quan âm giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng của mức tiền lương
danh nghĩa.
Kinh tế Mỹ thập niên 1960 có hiện tượng tỷ lệ lạm phát khá cao mặc dù tốc độ tăng trưởng
GDP cũng cao. Để giải thích hiện tượng đó, các nhà kinh tế của trường phái Kinh tế học
Vĩ mô tổng hợp đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Phillips và dựng nên đường cong
Phillips dốc xuống phía phải trên một đồ thị 2 chiều với trục hoành là mức tỷ lệ thất nghiệp
và trục tung là mức tỷ lệ lạm phát. Đường này là các kết hợp giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất
nghiệp. Dọc theo đường cong Phillips, hễ tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống thì tỷ lệ lạm phát sẽ
tăng lên, và ngược lại.
Từ đó, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ thất nghiệp Chính
phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược
chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nên tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát.
Lạm phát là cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Sau khi lạm phát tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh tế điển hình (hành vi duy lý) sẽ dự tính
lạm phát tiếp tục tăng tốc. Trong khi tiền công danh nghĩa không đổi, lạm phát tăng nghĩa là
tiền công thực tế trả cho họ giảm đi. Họ sẽ giảm cung cấp lao động, thậm chí tự nguyện
|thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên đến mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, trong khi tỷ lệ
lạm phát vẫn giữ ở mức cao.
Nếu Nhà nước vẫn cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, cơ chế như trên
lại xảy ra. Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát
lại bị nâng lên liên tục. Chính sách của Nhà nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn hạn,
còn về dài hạn là thất bại.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
29
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Sau khi nghiên cứu xong bài 1, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau:
• Các nguồn lực trong xã hội đều là những nguồn lực khan hiếm. Kinh tế học là môn khoa học
nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới
hạn của con người một cách tốt nhất. Kinh tế học bao gồm hai bộ phận là Kinh tế học vi mô và
Kinh tế học Vĩ mô.
• Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất
nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của
mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp, cán cân thương mại, các chính sách kinh tế (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính
sách thu nhập,).
• Chi phí cơ hội của một lựa chọn thay thế được định nghĩa như chi phí do đã không lựa chọn cái
thay thế "tốt nhất kế tiếp". Trong kinh tế học, chi phí cơ hội là sự lựa chọn tốt nhất bị bỏ lỡ. Bất
cứ quyết định nào bao gồm trong số nhiều lựa chọn đều có chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là một
trong những điểm khác biệt mấu chốt giữa khái niệm chi phí kinh tế và chi phí kế toán.
• Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) là một tập hợp các phối hợp tối đa số lượng các sản
phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Các điểm nằm
trong đường giới hạn, là những điểm không hiệu quả vì ở đó xã hội bỏ phí các nguồn lực. Những
điểm nằm ngoài đường PPF là những điểm không thể đạt được. Để đạt được các điểm này, cần
phải tìm cách đẩy đường PPF ra ngoài bằng các biện pháp như: Đổi mới công nghệ, thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô,
• Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ yếu:
Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng, công bằng,
các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới 5 mục tiêu: Đạt mức sản lượng cao và tốc độ tăng
trưởng nhanh, tạo ra nhiều công ăn việc làm tốt và tỷ lệ thất nghiệp thấp, ổn định giá cả và kiềm
chế lạm phát, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
và ổn định tỷ giá hối đoái, phân phối công bằng trong thu nhập.
• Các chính sách kinh tế vĩ mô chính thường bao gồm: Chính sách tài khoá, Chính sách tiền tệ,
Chính sách thu nhập, Chính sách kinh tế đối ngoại.
• Tổng cung (AS) bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp sẽ sản xuất
và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho.
Tổng cung liên quan đến khái niệm sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có
thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Đường tổng cung
dài hạn là đường song song với trục tung và cắt trục hoành ở mức sản lượng tiềm năng. Đường
tổng cung ngắn hạn: Đường tổng cung ban đầu tương đối nằm ngang, khi vượt qua điểm sản lượng
tiềm năng, đường tổng cung sẽ dốc ngược lên. Tổng cầu (AD) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch
vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn mua và có khả năng mua ở mức giá cả, thu nhập và các
biến số kinh tế khác nhau đã cho. Đường tổng cầu thường là đường dốc xuống.
• Trạng thái cân bằng của nền kinh tế: Cân bằng tổng cung và tổng cầu còn gọi là cân bằng của thị
trường hàng hoá và dịch vụ của quốc gia. Tại trạng thái cân bằng dài hạn, mức sản lượng Y0 bằng
mức sản lượng tiềm năng Y*, tại đó tỷ lệ lạm phát bằng lạm phát dự kiến, giá cả bình ổn, tỷ lệ thất
nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
30
• Chu kỳ kinh tế là sự dao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng
tiềm năng theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Độ lệch giữa sản
lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng.
Khoảng cách sản lượng = Sản lượng tiềm năng – Sản lượng thực tế
• Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng đã
sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy, tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng
giảm đi. Theo một số kiểm chứng, mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp
được lượng hóa dưới tên gọi quy luật Okun (Arthur Okun – 1929 – 1979) hay quy luật (2,5 – 1).
Quy luật nói lên, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm, so với GNP tiềm năng của năm
đó, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm đi đúng 1%.
• Sự kiện lịch sử nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao thì lạm
phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn, các chính sách
kinh tế đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một
thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn là 2 mặt song song
tồn tại trong nền kinh tế của bất kể một quốc gia nào. Vì bên cạnh những hậu quả mà lạm phát đem
lại, thì lạm phát ở mức vừa phải sẽ tạo động lực thúc đẩy các nước đang phát triển tăng trưởng.
• Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được giải thích bởi mô hình đường Phillips (mối quan
hệ này được phân tích kỹ ở bài 7 trong cuốn giáo trình này). Đường Phillips biểu thị sự đánh đổi
giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
31
CÂU HỎI ÔN TẬP
Trả lời đúng, sai và giải thích ngắn gọn các câu hỏi dưới đây:
1. Mục tiêu hàng đầu của một nước đang phát triển nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có khả năng sản xuất được trong điều
kiện toàn dụng nhân công và không gây lạm phát.
3. Khi tiền công và tiền lương của người lao động tăng thì cả đường AS trong ngắn hạn và đường AD
sẽ dịch chuyển.
4. Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với nhau.
5. Tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ ngược chiều với nhau.
6. Tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với nhau.
Bài 1: Khái quát về Kinh tế học Vĩ mô
32
BÀI TẬP LỚN
1. Phân tích sự thay đổi trạng thái cân bằng của nền kinh tế trong mô hình AS-AD khi tiền công của
người lao động tăng lên.
2. Sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất để giải thích sự khan hiếm nguồn lực và quy luật chi
phí cơ hội ngày càng tăng dần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_1_khai_quat_ve_kinh_te_hoc_vi_mo_0852.pdf