An Giang là tỉnh có thủy vực nước ngọt đa
dạng: sông, kênh, rạch, ruộng ngập lũ và hoạt động
khai thác thủy sản diễn ra chủ yếu trên 3 loại thủy
vực là sông lớn (32,33%), ruộng ngập lũ (29%) và
kênh, rạch (23%) với mùa vụ khai thác chính kéo dài
từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm.
Ngư cụ được sử dụng phổ biến nhất là xuyệt
điện và cào điện (52%), dớn (18%), chài điện (5%),
các ngư cụ còn lại là lưới rê, lộp, câu, đú, đáy, chà
(25%).
Thành phần loài thủy sản của tỉnh An Giang
được khai thác gồm 66 loài, trong đó có 41 loài
thường gặp. Sản lượng khai thác trong những năm
gần đây giảm đáng kể, từ 51.329 tấn vào năm 2005
giảm xuống chỉ còn 38.486 tấn trong năm 2012.
Ba nhóm giải pháp được khuyến cáo để phát
triển ổn định, bền vững nghề khai thác thủy sản nội
địa như sau: Nhóm giải pháp về đào tạo nghề và
công tác khuyến ngư; Nhóm giải pháp về xây dựng
chính sách quản lý; Nhóm giải pháp về cải thiện
chất lượng nước và duy trì diện tích ruộng ngập lũ.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản nội địa tại tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
128 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ
NGUỒN LỢI THỦY SẢN NỘI ĐỊA TẠI TỈNH AN GIANG
STATUS ON EXPLOITATION AND PROTECTION OF INLAND AQUATIC RESOURCES
IN AN GIANG PROVINCE
Lương Thanh Nhựt Linh1, Phạm Quốc Hùng2
Ngày nhận bài: 03/3/2015 ; Ngày phản biện thông qua: 22/4/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015
TÓM TẮT
An Giang là tỉnh có diện tích đất ngập nước trong mùa lũ lớn nhất trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long với
nguồn lợi thủy sản nội địa phong phú. Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động khai thác thủy sản diễn ra chủ yếu trên 3 loại
thủy vực là sông lớn (32,3%), ruộng ngập lũ (29,0%) và kênh, rạch (23,0%) với mùa vụ khai thác chính bắt đầu từ tháng
6 đến hết tháng 8 hàng năm.
Thành phần loài thủy sản được đánh bắt gồm có 67 loài, trong đó có 41 loài thường gặp chiếm tỷ lệ 61,2%; phương
tiện khai thác được sử dụng chủ yếu là xuồng công suất nhỏ (51%).
Ngư cụ khai thác là các loại truyền thống, có cấu tạo đơn giản và sử dụng kết hợp với điện để tăng hiệu quả đánh bắt
như xuyệt điện, cào điện, chài điện (64,4%), dớn (18%), lưới rê (7,3%). Việc sử dụng các loại ngư cụ đánh bắt có tính tận
diệt cao này nguyên nhân chính làm suy giảm nguồn lợi thủy sản của An Giang trong những năm gần đây.
Ba nhóm giải pháp chính đã được đề xuất để duy trì ổn định và phát triển bền vững nghề khai thác thủy sản nội địa
tại An Giang nói riêng và khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Từ khóa: khai thác, thủy sản nội địa, ngư cụ, nguồn lợi
ABSTRACT
An Giang has biggest wetlands area in the fl ood season of Mekong Delta with high diversity of inland aquatic
resources. The result showed that the fi shing activities occurred on three fi shing areas such as main river (32.3%), fi eld
(29.0%) and canal (23,0%). The main fi shing season take place annual from June to August.
The fi shing composition included 67 species in which there were 41 common species as 61.2% and the main fi shing
boat had small power with 51%.
The fi shing gear was traditional, simple construction and combined electricity using (64.4%). Fishing activity of
these gears caused decline of aquatic resources in recent years.
Three solutions were suggested to maintain stable and sustainable development of inland aquatic fi sheries in An
Giang as well as Mekong Delta.
Keywords: Fishing, inland aquatic resources, fi shing gear
1 Lương Thanh Nhựt Linh: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2012 - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
An Giang là tỉnh đầu nguồn của sông Cửu Long
với hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch, ruộng đa dạng,
rất thích hợp cho sự phát triển nghề khai thác thủy
sản nội địa. Đây là một trong những nghề mang lại
thu nhập chính cho người dân, đặc biệt là các hộ
nghèo vùng nông thôn [3]. Vào mùa nước nổi từ
tháng 6 đến tháng 10 hàng năm, các loài cá từ Biển
Hồ Campuchia đổ về tạo cho An Giang nguồn thủy
sản nội địa dồi dào và phong phú về thành phần
loài và sản lượng [2]. Tuy nhiên trong những năm
gần đây, do thiếu các biện pháp quản lý và sử dụng
các hình thức khai thác mang tính hủy diệt cao
như: xung điện, dùng chất nổ cùng với môi trường
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 129
ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng đã làm cho
nguồn lợi thủy sản tại đây suy giảm đáng kể [1].
Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu, đánh giá
một cách đầy đủ, khoa học về hiện trạng khai thác
và đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp để duy trì
ổn định và phát triển bền vững nghề khai thác thủy
sản tại An Giang là hết sức cần thiết.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Trong khoảng thời gian từ tháng 6 tới tháng
12 năm 2013, 220 hộ dân khai thác thủy sản của
các huyện Phú Tân, Tân Châu và thành phố Long
Xuyên được chọn ngẫu nhiên để điều tra về hiện
trạng khai thác thủy sản.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp điều tra
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA)
được sử dụng để thu thập thông tin đánh giá hiện
trạng khai thác và nguồn lợi thủy sản thông qua việc
sử dụng bộ câu hỏi điều tra đã được chuẩn hóa
(phiếu điều tra).
Công thức Yamane được sử dụng để tính số
lượng phiếu điều tra tương ứng.
Trong đó:
n: Số lượng thành viên mẫu cần xác định cho
nghiên cứu điều tra
N: là tổng số mẫu
e: là mức độ chính xác mong muốn.
2.2. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được thu thập và sử dụng khung sinh kế
bền vững làm công cụ phân tích các kết quả nghiên
cứu [4], [5]. Số liệu được tổng hợp và trình bày dưới
dạng giá trị trung bình (TB) trên phần mềm Microsoft
Excell 2010.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Hiện trạng khai thác thủy sản
1.1. Ngư trường và ngư cụ khai thác
Các thủy vực khai thác thủy sản ở tỉnh An Giang
rất đa dạng và phong phú gồm: sông, kênh, rạch,
ruộng ngập lũ. Vào mùa nước nổi nguồn lợi cá từ
Biển Hồ Campuchia đổ về sông rất nhiều chính
là thời điểm các hộ dân tập trung khai thác, trong
đó ngư trường khai thác chủ yếu diễn ra trên các
loại thủy vực: sông lớn chiếm 32,33% và ruộng
ngập lũ chiếm 29%. Các ngư trường còn lại được
người dân khai thác quanh năm và chiếm tỷ lệ thấp
(kênh và rạch chiếm 23%; kênh, rạch và ruộng ngập
lũ chiếm 11,67%; sông, ruộng ngập lũ chiếm 3,67%;
sông, kênh, rạch chiếm 0,33%).
Hình 1. Thủy vực khai thác thủy sản nội địa tại An Giang
Kết quả điều tra cho thấy có 23 loại ngư cụ
được sử dụng trong nghề khai thác thủy sản nội
địa tại An Giang tùy theo quy mô và mức độ đầu tư
của các hộ dân. Trong đó, nhóm ngư cụ mang tính
hủy diệt như xuyệt điện, cào điện và chài điện là các
loại ngư cụ được sử dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ
lệ 56,67% (xuyệt điện: 26%, cào điện: 25,67%, chài
điện: 5%). Kế đến là ngư cụ dớn (chiếm 18%) và
lưới rê cá linh (chiếm 7,33%).
Bảng 1. Các loại ngư cụ sử dụng khai thác
thủy sản tại An Giang
Ngư cụ Số hộ Tỷ lệ (%)
Xuyệt điện 78 26,0
Cào điện (lưới kéo) 77 25,7
Dớn 54 18,0
Lưới rê cá linh 22 7,3
Chài điện 15 5,0
Ngư cụ khác 54 18,0
Việc sử dụng các loại ngư cụ có tính tận diệt
nguồn lợi thủy sản và phá hủy nền đáy cao như
xuyệt điện, cào điện, chài điện hoặc dớn đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường và nguồn lợi
thủy sản tại đây. Để hạn chế sự suy giảm nguồn
lợi do đánh bắt, cần tập trung các biện pháp hạn
chế việc sử dụng các loại ngư cụ bị cấm như: xuyệt
điện, cào điện, dớn và sử dụng các loại lưới có kích
thước hợp lý để khai thác thủy sản.
1.3. Mùa vụ khai thác
Thời gian khai thác thủy sản trong năm phụ
thuộc rất nhiều vào ngư trường và ngư cụ khai
thác, sản lượng và thành phần loài cá khai thác.
Tất cả các hộ dân đều có hoạt động khai thác thủy
sản quanh năm, tuy nhiên, mùa vụ khai thác chính
tập trung nhiều nhất là vào mùa lũ, từ tháng 6 đến
tháng 10 hàng năm. Đây cũng là nét đặc trưng của
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
130 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh
An Giang nói riêng.
Hình 2. Mùa vụ khai thác thủy sản trong năm tại An Giang
An Giang là tỉnh đầu nguồn của sông Cửu Long
nên hàng năm vào mùa mưa lũ có lượng lớn các loài
thủy sản đổ về. Bên cạnh đó, đây cũng là mùa vụ
sinh sản chủ yếu của một số loài cá có phân bố trên
lưu vực sông Cửu Long nên thành phần và số lượng
loài được bổ sung vào các thủy vực tăng lên đáng kể
[2]. Chính vì vậy, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8 tất
cả các hộ ngư dân đều tham gia khai thác thủy sản.
Vào các tháng còn lại, số hộ hoạt động khai thác
thủy sản giảm xuống và chỉ còn khoảng 45% số hộ
khai thác trong những tháng đầu năm.
2. Tần suất và sản lượng khai thác
Kết quả điều tra cho thấy, có sự khác nhau về
tần suất và sản lượng khai thác của các loại ngư cụ
do cấu tạo và kỹ thuật khai thác khác nhau.
Bảng 3. Công suất khai thác của các loại ngư cụ chính
Ngư cụ Sản lượng/mẻ lưới (kg) Số mẻ lưới/ngày Thời gian/mẻ lưới (giờ)
Xuyệt điện 2,69 2,22 2,69
Cào điện (lưới kéo) 2,76 5,64 0,9
Dớn 15,13 1,07 14,76
Lưới rê cá linh 8,71 2,09 7,41
Lưới rê cá bông lau 10,80 1,60 1,20
Đáy cá linh 11,33 2,0 6,0
Tổng số mẻ lưới trong thời gian khai thác (giờ)
ảnh hưởng đến sản lượng khai thác trung bình của
mỗi mẻ lưới. Bảng 3 cho thấy, các loại hình khai
thác có sử dụng điện như xuyệt điện, cào điện có
sản lượng khai thác không nhiều nhưng trong một
ngày có thể khai thác nhiều lần (2 đến 6 lần/ngày).
Các loại ngư cụ khác như Dớn có sản lượng khai
thác là cao nhất (15,13 kg) nhưng do thời gian khai
thác kéo dài, cả ngày chỉ khai thác được một mẻ
lưới do đó tổng công suất khai thác của các ngư
cụ là khá bằng nhau. Đáy cá linh, lưới rê cá bông
lau sản lượng khai thác cũng khá cao 10,80kg -
11,33kg nhưng hai loại ngư cụ này làm theo mùa,
đáy cá linh khai thác vào đầu tháng 8 - 11 dương
lịch, lưới rê cá bông lau khai thác vào đầu tháng
2 - 5 dương lịch.
Sản lượng thủy sản của tỉnh An Giang được
khai thác từ khoảng 66 loài thủy sản, trong đó
có 41 loài thường gặp, một số loài có giá trị kinh
tế cao như: cá lăng (Hemibagrus guttatus), mè
vinh (Barbonymus gonionotus), cá lóc (Channa
maculata), cá bông lau (Pangasius krempfi ), cá linh
(Danio dangila). Sản lượng khai thác thủy sản nội
địa của An Giang trong những năm gần đây có xu
hướng giảm đáng kể, từ 51.329 tấn vào năm 2005
giảm xuống chỉ còn 38.486 tấn trong năm 2012 [1].
Thành phần loài thủy sản khai thác được cũng có
sự giảm sút đáng kể, có một số loài cá rất ít xuất
hiện như: cá hô (Catlocarpio siamensis), cá còm
(Notopterus chitala), cá tra dầu (Pangasianodon
gigas), cá leo (Wallago attu), cá basa (Pangasius
bocourti), tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii). Số lượng của một số loài cá kinh tế
khai thác được ngày càng ít, lượng cá tạp khai thác
được chiếm đa số, loại này chỉ dùng làm nguyên liệu
chế biến thức ăn nuôi thủy sản, nên có giá trị không
cao. Hiện tại, có 2 loài cá du nhập phát tán khá nhiều
trong các thủy vực là cá lau kiếng (Hypostomus
punctatus) và cá chim trắng (Colossoma brachypomum)
chúng có khả năng sinh sản và thích nghi rất cao,
chúng có khả năng cạnh tranh bắt mồi vượt trội so
với các loài cá bản địa. Đây cũng là mối nguy làm
ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản
3. Một số giải pháp phát triển bền vững nghề
khai thác thủy sản nội địa tại An Giang
3.1. Yếu tố ảnh hưởng đến khai thác thủy sản
Hiện nay, nghề khai thác thủy sản ở tỉnh An
Giang vẫn còn ở qui mô nhỏ, tự phát, phương tiện
khai thác thủ công. Tuy nhiên việc khai thác thủy
sản chủ yếu bằng chất nổ, xung điện và sử dụng
kích thước mắt lưới nhỏ hơn so với qui định đã làm
cho nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 131
Hình 3. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến sản lượng
khai thác thủy sản tại An Giang
Việc sử dụng xung điện khai thác cá là một
trong những nguyên nhân chính làm suy giảm
nguồn lợi thủy sản, chiếm 30,67% tổng số các hộ
điều tra. Bên cạnh đó, việc khai thác thủy sản quá
mức và sử dụng ngư cụ cấm làm giảm khả năng
phục hồi nguồn lợi thủy sản tự nhiên cũng là những
nguyên nhân chính dẫn đến nguồn lợi thủy sản ngày
càng cạn kiệt (tỷ lệ suy giảm tương ứng là 25,67%
và 18,67%).
Bên cạnh đó, các nguyên nhân khách quan
cũng gián tiếp tác động tới sản lượng thủy sản khai
thác như: thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, ảnh
hưởng của thuốc bảo vệ thực vật, nước thải sinh
hoạt, nước thải từ các nhà máy chưa qua xử lý và
việc thay đổi dòng chảy ở phía thượng nguồn sông
Mekong. Tất cả các nguyên nhân này dù tác động
ít nhưng trong một khoảng thời gian dài nên đã ảnh
hưởng lớn đến việc suy giảm thành phần các loài
thủy sản hiện có tại đây.
3.2. Một số giải pháp phát triển bền vững nghề về
khai thác thủy sản
Từ kết quả điều tra cho thấy, những lợi ích về
kinh tế, xã hội của nghề khai thác thủy sản nội địa
tại An Giang là rất lớn, song việc phát triển không
phù hợp và thiếu những giải pháp quản lý đã và
đang làm suy giảm nghiệm trọng nguồn lợi thủy
sản tại đây, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
kinh tế xã hội, tình hình an ninh quốc phòng của địa
phương. Vì vậy, để góp phần phát triển ổn định, bền
vững nghề khai thác thủy sản nội địa tại đây thì cần
thiết phải thực hiện một số nhóm giải pháp sau.
Nhóm giải pháp về đào tạo nghề và công tác
khuyên ngư: Lực lượng lao động ở nông thôn tỉnh
An Giang tương đối trẻ, sức khỏe dồi dào nhưng
trình độ học vấn thấp dẫn đến ý thức về bảo vệ
nguồn lợi không cao. Do đó cần tăng cường công
tác tuyên truyền, vận động bảo vệ nguồn lợi thủy
sản đến người dân; kết hợp tổ chức các lớp đào tạo
ngắn hạn về kỹ thuật khai thác, nuôi trồng và bảo vệ
nguồn lợi thủy sản cho người dân.
Nhóm giải pháp về xây dựng chính sách quản
lý: Tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra phát hiện
và xử lý nghiêm các trường hợp sử dụng ngư cụ có
kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, sử dụng xung
điện đánh bắt thủy sản một cách thường xuyên và
có hệ thống. Tổ chức tập huấn thường xuyên và có
hệ thống cho ngư dân về kiến thức luật thủy sản và
các văn bản liên quan, nhằm từng bước nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và quyền lợi của ngư dân
về bảo vệ nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Qua kết quả
khảo sát, mùa vụ khai thác của tỉnh An Giang nên
bắt đầu từ đầu tháng 9 đến tháng 3 hàng năm; Do
đó, từ tháng 4 - 8 cấm khai thác thủy sản, ngoại trừ
cho phép các loại lưới rê khai thác với kích thước
mắt lưới đúng theo qui định.
Nhóm giải pháp về cải thiện chất lượng nước
và duy trì diện tích ruộng ngập lũ: Hiện nay, việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, các hộ nuôi, các
nhà máy chế biến, nước thải sinh hoạt đa phần đều
thải trực tiếp ra sông, kênh, rạch mà chưa qua xử
lý. Để cải thiện chất lượng nước trước hết cần tổ
chức tuyên truyền cho ngư dân, cộng đồng ngư dân
không xả nước và các chất thải bị ô nhiễm chưa qua
xử lý. Ngoài ra, các cấp chính quyền, cơ quan liên
quan nên có chiến lược nhằm duy trì và sử dụng tối
đa diện tích ruộng ngập lũ hàng năm, để tăng vùng
nuôi và nguồn dinh dưỡng cho thủy sản tự nhiên
phát triển. Từ đó, tái tạo lại nguồn lợi thủy sản đã
bị khai thác và bị chết do những nguyên nhân khác.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
An Giang là tỉnh có thủy vực nước ngọt đa
dạng: sông, kênh, rạch, ruộng ngập lũ và hoạt động
khai thác thủy sản diễn ra chủ yếu trên 3 loại thủy
vực là sông lớn (32,33%), ruộng ngập lũ (29%) và
kênh, rạch (23%) với mùa vụ khai thác chính kéo dài
từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm.
Ngư cụ được sử dụng phổ biến nhất là xuyệt
điện và cào điện (52%), dớn (18%), chài điện (5%),
các ngư cụ còn lại là lưới rê, lộp, câu, đú, đáy, chà
(25%).
Thành phần loài thủy sản của tỉnh An Giang
được khai thác gồm 66 loài, trong đó có 41 loài
thường gặp. Sản lượng khai thác trong những năm
gần đây giảm đáng kể, từ 51.329 tấn vào năm 2005
giảm xuống chỉ còn 38.486 tấn trong năm 2012.
Ba nhóm giải pháp được khuyến cáo để phát
triển ổn định, bền vững nghề khai thác thủy sản nội
địa như sau: Nhóm giải pháp về đào tạo nghề và
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
132 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
công tác khuyến ngư; Nhóm giải pháp về xây dựng
chính sách quản lý; Nhóm giải pháp về cải thiện
chất lượng nước và duy trì diện tích ruộng ngập lũ.
2. Kiến nghị
Cần thành lập các khu bảo tồn phù hợp với điều
kiện tự nhiên của tỉnh An Giang, kết hợp thường xuyên
tổ chức các đợt thả cá giống ra tự nhiên nhằm tái
tạo nguồn lợi thủy sản.
Tổ chức mô hình quản lý cộng đồng hay đồng
thuận trong những vùng ngập lũ nhằm nâng cao ý
thức của người dân để khai thác có hiệu quả và bảo
vệ được nguồn lợi tự nhiên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục thống kê An Giang, 2013. Niên giám thống kê tỉnh An Giang, 2012.
2. Phan Đình Phúc, 2009. Báo cáo kết quả “khảo sát, đánh giá hiện trạng nghề khai thác thủy sản nước ngọt tỉnh An Giang”.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2012. Đề án khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh An Giang đến năm 2020.
4. Vương Xuân Tình, Mai Văn Thành (2011), Ứng dụng khung sinh kế bền vững, xác định các phương thức ứng phó với tình
trạng khan hiếm lương thực [Trực tuyến]. Trung tâm Phát triển nông thôn miền Trung, Đại học Nông Lâm Huế. Địa chỉ: http://
www.crdhue.com.vn/modules.php?name=Pages&go=page&pid =56 [Truy cập 25/6/2014].
5. Trường Đại học Cần Thơ, PRA – Đánh giá nông thôn có sự tham gia, [Trực tuyến]. Địa chỉ:
mdi/extension/V_site/Chuyende_kn/Ext doc/PRA/PRA docu.pdf [Truy cập 25/6/2014]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hien_trang_khai_thac_va_bao_ve_nguon_loi_thuy_san_noi_dia_ta.pdf