Hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he tại tỉnh Quảng Nam

Nhà nước và chính quyền địa phương cần có các chính sách hỗ trợ về vốn để người nuôi có điều kiện duy trì, mở rộng sản xuất và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất nuôi và bảo vệ môi trường vùng nuôi. Các cơ quan quản lý ngành Thủy sản các cấp cần có các biện pháp kiểm tra chặt chẽ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thức ăn và các sản phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản khác nhằm bào vệ quyền lợi cho người nuôi tôm, hạn chế rủi ro và thiệt hại cho người nuôi. Cần tăng cường công tác tập huấn, phổ biến các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản, hóa chất và chế phẩm vi sinh cho các chủ hộ kinh doanh nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he tại tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 78 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG HIỆN TRẠNG CUNG ỨNG VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN NUÔI TÔM HE TẠI TỈNH QUẢNG NAM CURRENT STATUS OF PENAEID SHRIMP FEED SUPPLY AND ULTILIZATION IN QUANG NAM PROVINCE Nguyễn Minh Phương1, Lại Văn Hùng2 Ngày nhận bài: 25/10/ 2012; Ngày phản biện thông qua: 04/01/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 TÓM TẮT Nghiên cứu hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he (Penaeidae) được thực hiện trong năm 2010 và 2011 tại Quảng Nam. Tiến hành điều tra bằng phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản (38/42 hộ) và các hộ nuôi tôm he (65/189 hộ). Các thông tin thu thập bao gồm: thông tin về chủ hộ kinh doanh thức ăn, phương thức quản lý, hiện trạng nuôi tôm, sử dụng thức ăn, những khó khăn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm và nuôi tôm,... Kết quả điều tra cho thấy, đa số hộ kinh doanh thức ăn và nuôi tôm có trình độ khá cao. Các chủ hộ kinh doanh thức ăn chủ yếu là các đại lý cấp 1, kinh doanh nhiều mặt hàng thức ăn và thuốc thú y thủy sản. Hầu hết chủ hộ kinh doanh thức ăn có tham gia nuôi tôm he chân trắng (90%). Cả chủ hộ kinh doanh và người nuôi đều được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ công ty thức ăn như thưởng theo doanh số và chiết khấu khi mua hàng. Thức ăn cho tôm he chân trắng có hàm lượng protein 37 - 42%. Các hộ kinh doanh cơ bản đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh theo quy định tuy nhiên nhận thức và thực hiện các văn bản pháp quy còn hạn chế. Hầu hết các hộ nuôi chỉ nuôi tôm he chân trắng với hình thức thâm canh và bán thâm canh. Sau 3 tháng nuôi, hệ số thức ăn là 1,2, năng suất bình quân đạt được 12,1 tấn/ha/năm. Từ khóa: hộ kinh doanh, hộ nuôi tôm, Quảng Nam, sử dụng, tôm he, tôm he chân trắng ABSTRACT The survey on the current status of penaeid shrimp (Penaeidae) feed supply and ultilization was carried out between 2010 and 2011 in Quang Nam province. The methods of Rapid Rural Appraisal (RRA) and Survey Questionaire (SQ) were used to collect information related to shrimp feed dealers (38/42 dealers) and shrimp farmers (65/189 farmers). The collected data included information about dealers, management, shrimp farming, feed ultilization, and diffi culties of dealers and shrimp farmers,... The results showed that most of the dealers and shrimp farmers had high academic standard. Most of the dealers were fi rst class dealers who traded variety of products of shrimp feeds and aquatic veterinary medicines. Most dealers participated in whiteleg shrimp farming which accounted for 90%. Both dealers and shrimp farmers recieved many preferential treatments from feed comnpanies such as rewarding in accordance with sales and discounts when purchasing feeds. The protein contents in the whiteleg shrimp feeds ranged from 37 - 42%. The dealers basically satisfi ed the business requirements according to regulations, however, their awareness and implementation of legal regulations were still very limited. Most of the farmers cultured whiteleg shrimp by intensive and semi-intensive models. After 3 months, the food conversion ratio was 1,2, and the average annual productivity was about 12,1 tons/ha. Keywords: feed dealers, penaeid shrimp, Quang Nam, shrimp farmers, ultilization, whiteleg shrimp 1 Nguyễn Minh Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang 2 PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 79 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi tôm he, với 2 đối tượng nuôi chính là tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) và tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931), ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của ngành Thủy sản. Đồng thời, nó cũng giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhiều ngư dân [12]. Tôm he chân trắng thể hiện được nhiều ưu điểm nổi bật ngay từ khi được di nhập và nuôi thử nghiệm ở nước ta năm 2001 như: sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn, năng suất cao và thích ứng tốt với các yếu tố môi trường [8, 9, 13]. Do vậy, đây là đối tượng đang được nuôi phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có Quảng Nam thay thế cho các diện tích nuôi tôm sú không hiệu quả và các vùng đất cát hoang hóa [3, 6]. Từ năm 2005 đến năm 2011, diện tích nuôi tôm he chân trắng cả nước tăng rất nhanh từ 1.598 ha lên 25.397 ha [1, 12]. Trong nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu chi phí sản xuất, chiếm từ 55 - 65% [7]. Hơn nữa, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mặt trái của kinh tế thị trường và những bất cập trong quản lý giá cả đã đẩy giá thức ăn không ngừng tăng cao gây ra rất nhiều khó khăn cho người nuôi. Sự đa dạng về chủng loại thức ăn nuôi tôm, cùng với sự yếu kém trong quản lý chất lượng từ các cơ quan chức năng và hệ thống văn bản pháp quy chưa phù hợp,... cũng là những nguyên nhân làm cho việc quản lý chất lượng thức ăn kém hiệu quả [5, 10]. Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp các thông tin về hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he tại Quảng Nam. Đây cũng chính là cơ sở để các cơ quan chức năng ngành Thủy sản đưa ra các chính sách nhằm quản lý tốt hơn các hoạt động cung ứng và sử dụng các sản phẩm này. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện thông qua điều tra, thu thập thông tin từ các hộ nuôi tôm he, các hộ kinh doanh thức ăn tôm he tại Quảng Nam trong thời gian 1 năm, từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 6 năm 2011. 2. Phương pháp thu thập số liệu Số liệu thứ cấp được thu thập thông qua các báo cáo tổng kết hàng năm về tình hình nuôi tôm he của các cơ quan quản lý bao gồm: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng Nam, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện Thăng Bình, Núi Thành và thành phố Tam Kỳ. Số liệu thu thập bao gồm: số lượng hộ kinh doanh thức ăn thủy sản, diện tích nuôi, năng suất, sản lượng, hình thức nuôi,... Ngoài ra, các số liệu từ báo cáo tổng kết đề tài, dự án, báo cáo hội thảo, bài báo về hoạt động cung ứng và sử dụng thức ăn thủy sản cũng được tham khảo. Số liệu so cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý nuôi trồng thủy sản các cấp. Tiến hành điều tra theo phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) các hộ kinh doanh thức ăn thủy sản (38/42 hộ) và các hộ nuôi tôm he (65/189 hộ) [15]. Số lượng mẫu điều tra được xác định theo phương pháp chọn mẫu của Yamane (1967) [16]. Số mẫu sau đó được phân bổ một cách ngẫu nhiên về mỗi địa phương thông qua hàm phân bố ngẫu nhiên Rand trong Microsoft Excel 2003. Các câu hỏi điều tra được thiết kế sẵn nhằm tìm hiểu các thông tin về: chủ hộ kinh doanh thức ăn, phương thức quản lý, hiện trạng nuôi tôm, sử dụng thức ăn, những khó khăn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm và chủ hộ nuôi tôm,... 3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp và phân tích trên phần mềm Microsoft Excel 2003. Số liệu được trình bày dưới dạng Trung bình ± Độ lệch chuẩn. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Hoạt động kinh doanh thức ăn nuôi tôm 1.1. Số năm kinh doanh thức ăn tôm của chủ hộ Hình 1. Số năm kinh doanh thức ăn tôm của chủ hộ tại Quảng Nam (n = 38) Nhìn chung, chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm có thời gian hoạt động trong nghề khá lâu trung bình 7,93 ± 2,97 năm, dao động từ 3 - 17 năm. Số hộ kinh doanh thức ăn có 5 - 10 năm kinh nghiệm chiếm đa số với 73,33%. Số hộ có trên 10 năm kinh nghiệm cao hơn (16,67%) số hộ có kinh nghiệm dưới 5 năm (10%). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 80 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 1.2. Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của chủ hộ Kết quả điều tra cho thấy, chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm có trình độ văn hóa và chuyên môn khá cao. Đa số chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 3, chiếm 83,33%. Số hộ có trình độ cấp 2 chỉ chiếm 16,67%, đặc biệt không có chủ hộ chỉ có trình độ cấp 1. Điều đáng chú ý là, tỷ lệ chủ hộ có trình độ chuyên môn cao đẳng và đại học chiếm tới 46,67% và trung cấp chiếm 23,33%. Đây chính là cơ sở cho việc tiếp cận các tiến bộ kỹ thuật trong nghề, các văn bản pháp quy trong hoạt động kinh doanh thức ăn tôm của Nhà nước và địa phương. Tỷ lệ chủ hộ không có trình độ chuyên môn chiếm 30%. Bảng 1. Trình độ văn hóa và chuyên môn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm Trình độ Quảng Nam (%, n = 38) Trình độ văn hóa + Cấp 1 0 + Cấp 2 16,67 + Cấp 3 83,33 Trình độ chuyên môn + Không bằng cấp 30,0 + Trung cấp 23,33 + Cao đẳng và đại học 46,67 1.3. Hệ thống các cấp đại lý kinh doanh Kết quả điều tra cho thấy, tất cả các chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm ở Quảng Nam là các đại lý cấp 1 và cấp 2, trong đó, hầu hết là đại lý cấp 1, chiếm tới 86,67%, số đại lý cấp 2 chỉ chiếm 13,33%. Tại mỗi xã hoặc mỗi huyện, các công ty thức ăn chỉ mở 1 đại lý cấp 1. Từ đó, mỗi đại lý cấp 1 này có thể mở thêm một đại lý cấp 2 để tiện cho việc phân phối sản phẩm. Mỗi đại lý chỉ phụ trách cung ứng thức ăn cho một vùng nuôi tôm nhất định như đã ký kết trong hợp đồng với công ty cung cấp thức ăn và chịu sự giám sát của một giám đốc khu vực. Thông qua sản lượng thức ăn bán hàng quý, hàng năm, giám đốc khu vực sẽ quyết định việc mở rộng hay hạn chế phạm vi kinh doanh của đại lý. Việc mở rộng đại lý cấp 2 và 3 liên quan đến việc chia sẻ lợi nhuận, do đó, các đại lý cấp 1 có xu hướng hạn chế số đại lý cấp 2 và 3. Bảng 2. Hệ thống cấp đại lý của các hộ kinh doanh thức ăn tôm tại Quảng Nam (n = 38) Đại lý kinh doanh Tỷ lệ (%) Cấp 1 86,67 Cấp 2 13,33 1.4. Hoạt động kinh doanh thức ăn nuôi tôm Bảng 3. Thông tin sản phẩm tại các chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm ở Quảng Nam (n = 38) Diễn giải Tỷ lệ (%) Nguồn gốc thức ăn + Nhập khẩu 3,33 + Sản xuất trong nước 96,67 Sản phẩm dùng cho + Tôm he chân trắng 86,67 + Tôm he chân trắng và tôm sú 13,33 Số lượng sản phẩm bán từ + Một công ty 90,00 + Nhiều công ty 10,00 Kết quả điều tra cho thấy, 100% các hộ kinh doanh cả thức ăn, chất bổ sung, thuốc thú y thủy sản, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi trồng thủy sản. Trong số các loại thức ăn được bán, hầu hết được sản xuất trong nước (96,67%), thức ăn ngoại nhập chiếm tỷ lệ rất thấp (3,33%). Số liệu này tương tự với hiện trạng cung ứng thức ăn nuôi tôm tại Việt Nam với 91% trong nước và 9% ngoại nhập [12]. Các chủ hộ chủ yếu kinh doanh thức ăn tôm he chân trắng (86,67%) trong khi rất ít hộ kinh doanh thức ăn tôm sú (13,33%). Điều này là do, trong những năm gần đây, nghề nuôi tôm sú thường xuyên bị thiệt hại do dịch bệnh và môi trường ô nhiễm, trong khi nghề nuôi tôm he chân trắng mang lại hiệu quả cao [1]. Hầu hết các chủ hộ chỉ bán các mặt hàng do một công ty sản xuất do những cam kết kinh doanh được quy định trong hợp đồng (90%), số còn lại kinh doanh thêm một số sản phẩm của các công ty khác (10%). 1.5. Chủ hộ kinh doanh thức ăn có tham gia nuôi tôm Kết quả điều tra cho thấy, đa số các hộ kinh doanh thức ăn tôm tại Quảng Nam có nuôi thương phẩm tôm he chân trắng, chiếm tới 90%. Trong số này, có tới 93,33% số hộ nuôi tôm he chân trắng, còn lại nuôi kết hợp cả tôm sú và tôm he chân trắng (6,67%). Nguyên nhân các hộ kinh doanh thức ăn tôm tham gia nuôi tôm là do chi phí thức ăn rẻ hơn (giá tính theo đại lý cấp 1), nâng cao doanh số bán được nhằm tăng tỷ lệ chiết khấu và tiền thưởng từ công ty. Đồng thời, việc tiêu thụ thức ăn còn giảm nguy cơ thức ăn quá hạn, tránh cho đại lý bị phạt 5 - 10% tổng lượng thức ăn tồn dư, quá hạn. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 81 1.6. Giá thức ăn, dịch vụ hỗ trợ vận chuyển và tư vấn kỹ thuật Trong quá trình kinh doanh, số hộ có dịch vụ vận chuyển thức ăn đến người mua hàng và thực hiện tư vấn kỹ thuật cho người nuôi chiếm lần lượt là 23,33% và 53,33%. Việc tư vấn này do các nhân viên thị trường của các công ty thực hiện, tuy nhiên, rất hạn chế do người nuôi cũng có nhiều kinh nghiệm và chỉ cần tư vấn khi có dịch bệnh xảy ra. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tất cả các hộ kinh doanh đều thực hiện niêm yết giá theo quy định. Tuy nhiên, việc niêm yết giá bán thường chỉ mang tính hình thức, trên thực tế có tới 96,67% số hộ bán thức ăn với giá thấp hơn giá niêm yết, số còn lại bán đúng giá niêm yết (3,33%). Khi thực hiện tăng giá bán, các công ty sản xuất thức ăn thường thông báo trước khoảng 4 - 10 ngày. Năm 2010, các hộ kinh doanh thức ăn tôm tăng giá 4 lần, giá tăng thấp nhất là 300 đ/kg và cao nhất là 1.500 đ/kg. 1.7. Chính sách ưu đãi với chủ hộ kinh doanh và người nuôi tôm Các công ty thức ăn thường đưa ra rất nhiều chính sách ưu đãi cho người bán và người mua. Các hình thức ưu đãi có thể theo tháng, quý, năm trong đó số tiền ưu đãi được trừ trực tiếp vào hóa đơn khi thanh toán cuối đợt. Mức tiền thưởng được áp dụng cho các hộ kinh doanh theo doanh số bán hàng trong quý: nếu sản lượng bán từ 15 - 50 tấn, thưởng 300 đ/kg thức ăn; nếu sản lượng từ 51 - 100 tấn, thưởng 400 đ/kg thức ăn và nếu trên 100 tấn, thưởng 450 đ/kg thức ăn. Ngoài tiền thưởng theo doanh số bán hàng, các công ty còn tiến hành chiết khấu cho các hộ kinh doanh thức ăn với mức trung bình 18%, dao động từ 12 - 22% với đại lý cấp 1 và từ 12 - 14% với các đại lý cấp 2. Với các hộ nuôi tôm, các hộ kinh doanh thức ăn thường áp dụng nhiều hình thức khuyến mãi để kích thích người nuôi. Các hình thức khuyến mãi khá đa dạng có thể là từ quà tặng giá trị thấp (áo phông, mũ, áo mưa, đồng hồ,...) đến giá trị cao (tiền, xe máy, ti vi, chuyến du lịch,...) và thực hiện chiết khấu cho người nuôi. Tỷ lệ chiết khấu tùy thuộc vào tỷ lệ thanh toán trực tiếp của người mua hàng, khoảng 8 - 12% khi trả đủ tiền và 1,5 - 3,0% khi còn nợ tiền. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số người có thể chi trả đủ tiền thức ăn để nhận tỷ lệ chiết khấu trên là rất hạn chế chỉ chiếm 14,7%. 1.8. Chất lượng thức ăn thủy sản Thức ăn cho tôm he thường có hàm lượng protein dao động từ 37 - 42% tùy giai đoạn tôm nuôi, tuy nhiên, khoảng dao động này cao hơn so với tiêu chuẩn đưa ra của các chuyên gia dinh dưỡng (32 - 36%) [14] hay các cơ quan chức năng (32 - 40%) [1]. Sử dụng thức ăn có hàm lượng pro- tein cao giúp tôm sinh trưởng nhanh tuy nhiên lại gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường ao nuôi. Kết quả thăm dò ý kiến người kinh doanh về chất lượng thức ăn cho thấy 73,33% số hộ kinh doanh cho rằng thức ăn có chất lượng tốt, số còn lại cho rằng thức ăn có chất lượng trung bình (26,67%). Ngoài ra, 70% số hộ kinh doanh cho rằng thức ăn hiện nay tốt hơn so với các năm trước. 1.9. Cơ sở vật chất của các hộ kinh doanh thức ăn tôm Đa số các hộ kinh doanh thức ăn tôm có phương tiện vận chuyển thức ăn (xe tải 0,5 0 - 1,5 tấn/xe) đến tận nơi tiêu dùng chiếm 83,33%. Kết quả điều tra về cơ sở vật chất cũng cho thấy, chỉ có 2/3 số các hộ kinh doanh thức ăn tôm có đủ điều kiện kinh doanh thức ăn theo quy định [2]. Trong khi đó, 1/3 số hộ kinh doanh không đạt chuẩn chủ yếu là các đại lý cấp 2, vi phạm các quy định về sắp xếp các sản phẩm, gian hàng không tách biệt với khu sinh hoạt của gia đình, không lưu giữ các hồ sơ về chất lượng sản phẩm,... 1.10. Công tác đào tạo, tập huấn và quản lý Kết quả điều tra cho thấy, 100% số hộ kinh doanh thức ăn chưa được tham gia các lớp tập huấn, phổ biến các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động sản xuất và kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản [2]. Điều này cũng một phần là do công tác phổ biến các văn bản của cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa được quan tâm. Điều đáng chú ý là, có tới 56,67% số hộ kinh doanh thức ăn không được tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Công tác quản lý thủy sản tại Quảng Nam được thực hiện bởi Chi cục Nuôi trồng Thủy sản tương tự như cách quản lý của hầu hết các địa phương trên cả nước. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh thức ăn thủy sản được thực hiện tương đối tốt, định kỳ 1 năm/lần (chiếm 93,33%). Tuy nhiên, công tác tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn còn hạn chế (chỉ có 43,33% số hộ được tập huấn). 2. Tình nuôi tôm và sử dụng thức ăn nuôi tôm 2.1. Thông tin về hộ nuôi tôm Nhìn chung, số hộ nuôi tôm ở Quảng Nam có trình độ văn hóa khá cao. Số chủ hộ có trình độ cấp 3 chiếm 36,67%, trong khi số chủ hộ có trình độ cấp 2 và cấp 1 chiếm tới 43,33 và 13,33%. Tỷ lệ chủ hộ không biết chữ chiếm 6,67%. 2.2. Đối tượng và diện tích nuôi Với những ưu điểm nổi bật về năng suất, khả năng thích ứng tốt với môi trường nuôi, hệ số Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 82 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG chuyển hóa thức ăn (FCR) thấp,... tôm he chân trắng ngày càng được nuôi phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước nói chung và Quảng Nam nói riêng. Kết quả điều tra cho thấy, 100% số hộ nuôi ở Quảng Nam nuôi tôm he chân trắng với 2 hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh. Diện tích nuôi trung bình là 0,89 ha, dao động từ 0,4 - 1,8 ha. 2.3. Năng suất và hệ số chuyển đổi thức ăn Năng suất trung bình của các hộ nuôi tại Quảng Nam đạt 12,1 tấn/ha/năm, dao động từ 7 - 18 tấn/ ha/năm. Đối với hình thức nuôi tôm trên cát, năng suất bình quân thường cao hơn đạt 16 - 22 tấn/ ha/năm. Tất cả các hộ nuôi tôm đều sử dụng thức ăn công nghiệp trong suốt quá trình nuôi với hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trung bình là 1,2, dao động từ 0,9 - 1,3. Hệ số thức ăn ở đây cao hơn so với kết quả báo cáo tại các tỉnh phía Nam dao động từ 1,0 - 1,1 [5]. 2.4. Thời gian nuôi Thời gian nuôi tôm he chân trắng trung bình ở các hộ nuôi là 90,0 ± 5,7 ngày, dao động 70 - 102 ngày tùy thuộc vào khả năng chăm sóc, quản lý, trình độ và kinh nghiệm của người nuôi. Đây chính là một trong những ưu điểm của nghề nuôi tôm he chân trắng so với nghề tôm sú (110 - 130 ngày) [7]. Khi thời gian nuôi ngắn hơn, khả năng quay vòng vốn nhanh hơn và rủi ro do dịch bệnh vì thế cũng ít hơn so với tôm sú. 2.5. Tình hình sử dụng thức ăn Kết quả điều tra cho thấy, 100% số hộ nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi tôm. Trong số này, chỉ có 10% số hộ nuôi thay đổi loại thức ăn sử dụng trong quá trình nuôi. Nguyên nhân thay đổi là do các đại lý thức ăn không cho chủ hộ kéo dài thời gian nợ tiền thêm. Để hoạt động nuôi tôm không bị gián đoạn, các hộ nuôi chuyển sang sử dụng thức ăn của công ty khác để được phép nợ một số lượng thức ăn nhất định. Vấn đề này chỉ gặp ở những hộ nuôi quy mô nhỏ, ít vốn. Trong cơ cấu chi phí sản xuất, thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất với 64,9%, dao động từ 57 - 70%. Kết quả điều tra cũng cho thấy, 100% số hộ nuôi có sử dụng các chất dinh dưỡng bổ sung trong quá trình cho tôm ăn, chủ yếu là các chất khoáng, vitamin, và chế phẩm sinh học,... Kết quả thăm dò về chất lượng thức ăn của người nuôi cho thấy, 36,67% cho rằng thức ăn hiện nay có chất lượng tốt, 23,33% cho rằng chất lượng trung bình và có đến 40% cho rằng chất lượng kém. Kết quả kiểm định mẫu thức ăn của Cục Nuôi trồng Thủy sản (2009) cũng cho thấy, 8/25 mẫu kiểm tra không đạt chuẩn về hàm lượng protein, thường thấp hơn so với công bố từ 1,1 - 5,6% [4]. Tương tự, có tới 66,67% số hộ nuôi cho rằng các chất bổ sung có chất lượng trung bình, trong khi 23,33% cho rằng chất lượng kém và chỉ có 10% cho rằng chất lượng tốt. Việc có quá nhiều loại thức ăn, chế phẩm bổ sung và sự thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý là nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế trên. 2.6. Vấn đề môi trường và dịch bệnh 100% số cơ sở được điều tra cho rằng môi trường nuôi hiện nay ô nhiễm và tình hình dịch bệnh xảy ra nhiều hơn trước. Điều này có nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, những bất cập trong công tác quy hoạch và quản lý vùng nuôi bao gồm hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước trước và sau khi nuôi, tuân thủ các quy định về phòng ngừa dịch bệnh,... được coi là những nguyên nhân chính [13]. 2.7. Tình hình sử dụng vốn Kết quả điều tra cho thấy, chỉ có 26,67% số hộ nuôi có vay vốn ngân hàng để sản xuất. Đây chủ yếu là những hộ nuôi có quy mô lớn, có vật thế chấp ngân hàng nên mới có thể tiếp cận được nguồn vốn này. Các hộ nuôi quy mô nhỏ, thiếu vật thế chấp nên không có vốn sản xuất, hậu quả là thường nợ tiền thức ăn, chuyển đổi thức ăn trong quá trình nuôi. Khi mua thức ăn, các hộ nuôi thường nợ 1,8 tháng, dao động từ 1 - 3 tháng. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Các đại lý kinh doanh thức ăn tôm chủ yếu là đại lý cấp 1, kinh doanh nhiều mặt hàng thức ăn và thuốc thú y thủy sản. Đa số chủ hộ kinh doanh thức ăn có tham gia nuôi tôm he chân trắng (90%). Cả chủ hộ kinh doanh và người nuôi đều được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ công ty thức ăn như thưởng theo doanh số và chiết khấu khi mua hàng. Thức ăn cho tôm he chân trắng có hàng lượng protein 37 - 42%. Các hộ kinh doanh cơ bản đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh theo quy định. Tuy nhiên, tất cả các hộ đều không được phổ biến về các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động kinh doanh thức ăn và thuốc thú y thủy sản. So với chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm, người nuôi tôm có trình độ văn hóa và chuyên môn thấp hơn. Hầu hết các hộ chỉ nuôi tôm he chân trắng, với hai hình thức nuôi bán thâm canh và thâm canh. Sau khoảng 3 tháng nuôi, hệ số thức ăn là 1,2, năng suất bình quân đạt được trên 12,1 tấn/ha/năm. Trong quá trình nuôi, các hộ nuôi thường xuyên sử dụng các chất bổ sung khi phối trộn thức ăn cho tôm. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 83 2. Kiến nghị Nhà nước và chính quyền địa phương cần có các chính sách hỗ trợ về vốn để người nuôi có điều kiện duy trì, mở rộng sản xuất và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất nuôi và bảo vệ môi trường vùng nuôi. Các cơ quan quản lý ngành Thủy sản các cấp cần có các biện pháp kiểm tra chặt chẽ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thức ăn và các sản phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản khác nhằm bào vệ quyền lợi cho người nuôi tôm, hạn chế rủi ro và thiệt hại cho người nuôi. Cần tăng cường công tác tập huấn, phổ biến các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản, hóa chất và chế phẩm vi sinh cho các chủ hộ kinh doanh nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Chỉ thị số 228/CT-BNN-NTTS về việc phát triển nuôi tôm chân trắng, Hà Nội. 2. Bộ Thủ y sả n, 2006. Thông tư số 02/2006/TT-BTS về việ c Hướ ng dẫ n thự c hiệ n Nghị đị nh củ a Chí nh phủ số 59/2005/NĐ-CP về điề u kiệ n sả n xuấ t, kinh doanh mộ t số ngà nh nghề thủ y sả n. Hà Nội. 3. Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Quảng Nam, 2010. Báo cáo Tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2010 và kế hoạch năm 2011, trang 1 - 2. 4. Cục Nuôi trồng Thuỷ sản, 2009. Báo cáo tổng kết hoạt động Nuôi trồng Thủy sản năm 2009, Hà Nội. 5. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Khuyến nông, 2009. Cẩm nang nuôi tôm chân trắng Litopenaeus vannamei (Boone, 1931). 6. Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và Viện Quốc tế và Phát triển Bền vững (IISD), 2003. Mở rộng Nuôi tôm trên cát ở Việt Nam - Thách thức và cơ hội. NXB HAKI, Hà Nội. 7. Tổng cục Thủy sản, 2011. Báo cáo tóm tắt tình hình nuôi tôm nước lợ năm 2010, kế hoạch năm 2011 và một số giải pháp thực hiện, Hà Nội. 8. Lê Thanh Hùng và Ong Mộc Quý, 2011. Hiện trạng sử dụng và quản lý thức ăn nuôi tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Thủy sản Toàn quốc lần thứ IV, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, 151 - 160. 9. Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006. Kỹ thuật nuôi giáp xác, NXB Nông nghiệp, 235 trang. 10. Trần Văn Quỳnh, 2004. Những thông tin về đặc điểm sinh học và nuôi tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở một số nước và Việt Nam. Trung tâm khuyến ngư quốc gia. Hà Nội. 11. Mai Văn Tà i, 2003. Điề u tra đá nh giá hiệ n trạ ng cá c loạ i thuố c, hó a chấ t và chế phẩ m sinh họ c dù ng trong nuôi trồ ng thủ y sả n nhằ m đề xuấ t cá c giả i phá p quả n lý . Việ n Nghiên cứ u Nuôi trồ ng Thủ y sả n I. 12. Bùi Quang Tề, 2006. Bệnh của tôm nuôi và biện pháp phòng trị. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 13. Đào Văn Trí, 2009. Đánh giá và phân tích cơ sở khoa học của phát triển nuôi bền vững tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) ở Việt Nam. Viện nghiên cứu Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Nha Trang. Tiếng Anh 14. Hertrampf J. W and Pieddad-Pascual, 2000. Handbook on Ingredients for Aquaculture Feeds. Dordrecht. Kluwer Academic Publishers. 573 pp. 15. Groves, R., F. Fowler, M. Couper, J. Lepkowski, E. Singer and R. Tourangeau, 2004. Survey Methodology. Wiley Series in Survey Methodology. 16. Yamane T., 1967. Statistics: An introductory Analysis. 2nd edition, Harper & Row, New York, 886-887.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhien_trang_cung_ung_va_su_dung_thuc_an_nuoi_tom_he_tai_tinh.pdf
Tài liệu liên quan