Giống và công tác giống vật nuôi

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIỐNG GIA SÚC 2.1.1 .Điều kiện và nguồn gốc phát triển ngành giống gia súc Giống vật nuôi và cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Sự hình thành, tạo nên và phát triển của giống liên quan đến sự phát triển chung của xã hội. Sự phát triển nầy tùy thuộc vào nhu cầu của xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tạo ra một sản phẩm trong một giai đoạn nhất định. Công tác giống gia súc bắt nguồn từ sự thuần dưỡng và sự chọn lọc gia súc, sự phát triển được tích lũy qua nhiều giai đoạn lịch sử của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Trong giai đoạn đầu người ta giữ số gia súc còn thừa do săn bắt mà không tiêu thụ hết, sau đó người ta tiến hành thuần hóa và cho sanh sản những thú có ích cho con người như: chó là loài được thuần hóa đầu tiên để giúp cho sự săn bắt. Ngựa là con vật được tiến hành chọn lựa giống đầu tiên để đáp ứng yêu cầu cho sự vận chuyển và chinh phạt. Người ta đưa ra một số tiêu chuẩn cho sự chọn lọc, đó là nền móng đầu tiên của công tác giống gia súc.

doc15 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 8965 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giống và công tác giống vật nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG II GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG VẬT NUÔI 2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIỐNG GIA SÚC 2.1.1 .Điều kiện và nguồn gốc phát triển ngành giống gia súc Giống vật nuôi và cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Sự hình thành, tạo nên và phát triển của giống liên quan đến sự phát triển chung của xã hội. Sự phát triển nầy tùy thuộc vào nhu cầu của xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tạo ra một sản phẩm trong một giai đoạn nhất định. Công tác giống gia súc bắt nguồn từ sự thuần dưỡng và sự chọn lọc gia súc, sự phát triển được tích lũy qua nhiều giai đoạn lịch sử của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Trong giai đoạn đầu người ta giữ số gia súc còn thừa do săn bắt mà không tiêu thụ hết, sau đó người ta tiến hành thuần hóa và cho sanh sản những thú có ích cho con người như: chó là loài được thuần hóa đầu tiên để giúp cho sự săn bắt. Ngựa là con vật được tiến hành chọn lựa giống đầu tiên để đáp ứng yêu cầu cho sự vận chuyển và chinh phạt. Người ta đưa ra một số tiêu chuẩn cho sự chọn lọc, đó là nền móng đầu tiên của công tác giống gia súc. 2.1.2. Lịch sử phát triển ngành giống gia súc: Chọn lọc và nhân giống vật nuôi có lịch sử từ khi con người bắt đầu quá trình thuần hoá các con vật đầu tiên, cách đây khoảng 10000 năm. Tuy nhiên, một thời gian dài, con người tiến hành lựa chọn, loại thải vật nuôi, ghép đôi giao phối giữa những con đực và cái hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm. Những công trình chọn lọc, nhân giống vật nuôi đầu tiên được sách vở ngày nay thừa nhận là công trình của nhà chăn nuôi người Anh tên là Robert Bakewell (1725- 1795) trong việc tạo ra các giống bò Longhorn, cừu Leicester và ngựa Shire. Từ thế kỹ 18 các nước Châu Âu bắt đầu làm công tác giống ngựa đầu tiên, có sổ giống ngựa đua, nhân giống ngựa địa phương và ngựa Á Rập ra ngựa thuần Thoroughbed. Sau đó gia phả các loài gia súc khác cũng được hình thành từ các Hội chăn nuôi và cũng từ những Hội nầy đã tập hợp lại và tạo thành những nhóm giống gia súc có đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất tương đối đồng nhất. Trong thời kỳ nầy, Anh là nước đi đầu trong công tác tạo giống. Chỉ trong vòng vài chục năm nước Anh đã tạo ra được 20 giống bò, ngựa, heo, cừu và gà cao sản. Cùng thời gian nầy cả Châu Âu và Châu Á chỉ tạo ra được 7 giống mới (1700-1750). Thế kỹ 19 môn giống trở thành một ngành khoa học nhưng còn rất non trẻ. Năm 1865, Alendel đã công bố các quy luật di truyền và 35 năm sau năm 1900, các quy luật di truyền của Alendel được tái phát hiện bởi Devries, Correns và TS Chermak. Các sự kiện lịch sử này chính thức đánh dấu sự ra đời của nền tảng lý luận khoa học về chọn lọc và nhân giống vật nuôi. Cùng thời gian này, nghiệp đoàn kiểm tra sữa đầu tiên được thành lập ở Đan Mạch, tiếp sau đó người ta đã tiến hành kiểm tra năng suất heo. Đây là một trong các biện pháp kỹ thuật quan trọng để chọn lọc vật nuôi mà cho tới nay vẫn đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đến thế kỹ 20 và nhất là nhưng năm gần đây, khoa học nhân giống và tạo giống vật nuôi đã có những tiến bộ nhảy vọt, giữ một vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi. Sự phát triển của ngành di truyền học và vận dụng các phương pháp thống kê sinh vật học đã góp phần vào việc làm tăng hiệu quả của công tác giống, chẳng những giúp làm tốt công tác chọn lọc mà còn giúp người làm công tác giống dự đoán được trước kết quả tạo giống và nhân giống trong tương lai. Định luật Hardy-weinberg được phát hiện năm 1908 đã mở đầu cho bước phát triển của di truyền học quần thể, tiếp đó là những khởi đầu về di truyền học số lượng của Lush và một số tác giả khác đã tạo ra một hướng mới cho khoa học chọn lọc và nhân giống vật nuôi. Tiếp sau các định luật di truyền cơ bản của Alendel là các lý thuyết về nhiễm sắc thể của Morgan 1910, lý thuyết về mối quan hệ giữa nền và enzym của Beadle và Latum 1941, phát hiện cơ sở vật chất của di truyền là ADN của Avery 1944, phát hiện cấu trúc vòng xoắn ADN của Watson và Cách 1953, phát hiện mã di truyền của Niremberg 1968 đã đặt ra những cơ sở quan trọng trong công tác giống vật nuôi. Năm 1942, bằng các công trình của Hazel, lý thuyết về chỉ số chọn lọc đã hình thành và bước đầu ứng dụng trong chọn lọc vật nuôi. Cũng trong thập kỷ 60-70 phương pháp chọn lọc vật nuôi theo chỉ số với các ưu việt của nó đã được sử dụng rộng rãi trong các chương trình chọn giống ở các nước phát triển mang lại những tiến bộ rõ nét trong việc nâng cao năng suất, cải tiến chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Những tiến bộ về thụ tinh nhân tạo mà khởi đầu là việc sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi bò, cừu ở Nga vào năm 1930, sau đó là những thành công trong việc đông lạnh tinh dịch bò ở Anh vào những năm 1950, cấy truyền phôi vào những năm 1990 đã góp phần tích cực tăng nhanh các tiến bộ di truyền của một số tính trạng năng suất, cũng như mở rộng ảnh hưởng của các con vật giống có giá trị giống cao. Về mặt lý thuyết, trên cơ sở của phương pháp chỉ số chọn lọc kinh điển, ngay từ năm 1948, Henderson đã khởi thảo lý thuyết BLUP. Nhưng phải đến những năm 1970 trở đi, cùng với sự phát triển của máy tính điện tử với dung lượng bộ nhớ lớn, tốc độ tính toán nhanh, phương pháp BLUP mới thực sự được ứng dụng trong chương trình chọn giống vật nuôi ở các nước phát triển, mang lại hiệu quả cao hơn nhiều so với phương pháp chỉ số chọn lọc kinh điển. Cho tới nay hầu như toàn bộ các thành tựu của chọn lọc và nhân giống vật nuôi mà ngành chăn nuôi được thừa hưởng đều là những kết quả nghiên cứu ứng dụng dựa trên cơ sở di truyền học số lượng. Tuy nhiên, một xu hướng thứ hai nhằm phát triển và ứng dụng di truyền học phân tử trong chọn lọc và nhân giống vật nuôi cũng đang được phát triển mạnh trong những năm gần đây. Có thể nói rằng năm 1970 với các phát hiện về enzym giới hạn đã mở đầu cho thời kỳ công nghệ tiên. Trong thập kỷ 80, người ta đã cho ra đời những vật nuôi đầu tiên là sản phẩm của công nghệ cấy ghép gen. Sự kiện nhân bản vô tính cừu Dolly( 2/1997, heo (3/2000) tiếp theo ở chuột, bò… là những đóng góp quan trọng của di truyền học phân tử cho khoa học chọn lọc và nhân giống vật nuôi. Tuy nhiên, phạm vi ứng dụng công nghệ sinh học phân tử còn hạn chế và người ta vẫn còn đang nghi ngờ về những hiểm hoạ mà di truyền học phân tử có thể gây ra cho con người thông qua các sản phẩm biến đổi gen. 2.2. KHÁI NIỆM VỀ GIỐNG VẬT NUÔI: 2.2.1. Khái niệm Để có thể hiểu rõ về giống vật nuôi cần phân biệt các khái niệm: Loài là quần thể lớn được hình thành trong điều kiện tự nhiên, được con người thuần hóa ở một số địa phương khác nhau và dần dần hình thành một số giống. Trong động vật học lấy đơn vị căn bản là loài như: ngựa, bò, chó, gà… Giống là tập hợp những gia súc có cùng loài, có chung nguồn gốc hình thành, có cùng một số đặc điểm di truyền nhất định về tính trạng như tính trạng chất lượng (màu da, sắc lông) và tính trạng số lượng (lượng sữa, lượng trứng…). Những đặc điểm nầy có thể truyền cho đời sau và cho phép phân biệt giống nầy với giống khác. Giống vật nuôi là một tập hợp các vật nuôi có chung một nguồn gốc, được hình thành trong điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội nhất định do quá trình chọn lọc và nhân giống của con người, có số lượng nhất định để có thể là nhân giống trong nội bộ của nó, các giống vật nuôi trong cùng một giống có các đặc điểm về ngoại hình, thể chất, đặc tính sinh lý, sinh hoá và lợi ích kinh tế giống nhau, các đặc điểm di truyền này có thể di truyền qua các thế hệ và cho phép phân biệt giống này với giống khác. Trong thực tế, một nhóm vật nuôi được coi là một giống cần có các điều kiện sau: - Có nguồn gốc, lịch sử hình thành rõ ràng trong điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. - Có số lượng nhất định về cá thể đực và cái sinh sản: Trâu bò vài trăm con, heo vài ngàn con, gia cầm vài chục ngàn con … - Có các đặc điểm riêng biệt của giống, các đặc điểm này giúp phân biệt giống này với giống khác và được di truyền tương đối ổn định cho đời sau. - Được hội đồng giống vật nuôi công nhận. Các giống vật nuôi hiện đang được nuôi rộng rãi ở nước ta gồm các giống được hình thành lâu đời và các giống nhập nội như: trâu Ngố, trâu Gié, bò Vàng Việt Nam, heo Ỉ, heo Móng Cái, heo Lang Hồng, gà Ri, vịt Cỏ… là các giống nội. Trâu Murrha, bò Hà Lan. Bò Holstein Frisian, heo Landrace, gà Kabir, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng… là các giống nhập nội. Một số giống vật nuôi có thể có nguồn gốc, lịch sử hình thành không rõ ràng nhưng vẫn được coi là một giống ví dụ như bò Laisind, ngược lại một số nhóm vật nuôi có số lượng rất lớn nhưng lại không được coi là một phẩm giống vì đặc điểm di truyền đời sau không ổn định. Ví dụ: Đàn lai F1 giữa hai giống Móng Cái và Yorkshire. Dòng là một nhóm vật nuôi trong cùng một giống được xuất phát từ một con đực tổ đầu dòng. Các thế hệ con cháu trong dòng chịu ảnh hưởng nhất định về huyết thống với con trực tổ. Nếu xuất phát từ một con cái tổ người ta gọi là hệ hay dòng mái. Ví dụ: dòng V1, V3 của giống vịt siêu thịt CVsuper Meat được nhập vào nước ta. Dòng V1 là dòng trống có tốc độ sinh trưởng nhanh, khối lượng cơ thể lớn; dòng V3 là dòng mái có khối lượng nhỏ hơn, sinh trưởng chậm hơn, nhưng lại cho sản lượng trứng và tỷ lệ ấp nở cao hơn. Trong thực tế, người ta có những quan niệm khác nhau về dòng: - Dòng huyết thống là nhóm vật nuôi có nguồn gốc tử một con vật tổ tiên, chung không có đặc trưng rõ nét về tính năng sản xuất. - Dòng cận huyết: Bao gồm những vật nuôi có cùng nguồn gốc từ một con tổ tiên thường là đực đầu dòng xuất sắc, có thành tích nổi bật về một vài tính trạng nào đó mà người chăn nuôi muốn duy trì ở đời sau nên người ta sử dụng phương pháp nhân giống cận huyết với Con trực tổ. - Dòng địa phương là các vật nuôi trong cùng một giống nhưng được nuôi ở những địa phương khác nhau về địa lý, mỗi nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định, nên hình thành các nhóm vật nuôi địa phương mang đặc trưng riêng biệt nhất định 2.2.2 Phân loại giống vật nuôi 2.2.2.1. Theo mức độ hoàn thiện về cải tạo giống - Giống nguyên thuỷ: Được hình thành trong điều kiện kinh tế xă hội và trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém. Các giống này thường có tầm vóc nhỏ bé, năng suất thấp, kiêm dụng, thành thục muộn, điều kiện nuôi dưỡng đơn giản, khả năng chịu đựng kham khổ cao, sức kháng bệnh cao thích nghi với điều kiện địa phương hẹp, bảo thủ di truyền cao, biến dị thấp. Hầu hết các giống vật nuôi nội của nước ta thuộc nhóm này như: bò cỏ, dê cỏ, gà ta. Đây là sản phẩm của nền kinh tế tự cung và tự cấp. - Giống quá độ: là các giống nguyên thủy được chọn lọc và chăm sóc nuôi dưỡng ở mức độ cao hơn nên đặc điểm cơ bản là tầm vóc đã được cải tiến, sức sản xuất được nâng cao hơn nhưng vẫn kiêm dụng, thành thục sớm hơn, các đặc tính về sản xuất tương đối thuần nhất, nếu nuôi dưỡng kém sẽ trở lại giống nguyên thuỷ, là sản phẩm của nền kinh tế sản xuất hàng hoá giai đoạn đầu như : bò Sind đỏ, heo Thuộc Nhiêu, gà Tam Hoàng… - Giống gây thành: là giống được hình thành trong điều kiện kinh tế - xă hội phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật cao. Đây là kết quả chọn lọc có ý thức của con người. Đặc điểm cơ bản của các giống gây thành là: sức sản xuất cao, hướng sản xuất chuyên dụng, sớm thành thục, sức chịu đựng kham khổ và kháng bệnh kém, tính bảo thủ di truyền kém, biến dị cao, dễ thay đổi khi điều kiện ngoại cảnh và nuôi dưỡng thay đổi, đ̣i hỏi phải được nuôi dưỡng, chăm sóc ở trình độ cao. Ví dụ: heo Landrace, gà Hubbard, bò sữa Holstein Friesian … 2.2.2.2. Phân loại theo nguồn gốc Những thú giống được tạo ra tại một địa phương hoặc một quốc gia nào thì lấy tên địa phương hoặc quốc gia đó đặt tên cho thú như: bò Hà Lan, heo Móng Cái, heo Thuộc Nhiêu… 2.2.2.3. Phân loại theo hướng sản xuất Đây là hướng phân loại theo chuyên môn hóa của đa số cá thể vật nuôi. Ngày nay người ta đã tạo ra những giống có hướng sản xuất rõ rệt, tùy theo loài vật nuôi có một số hướng chính như sau: Đối với heo: Hướng nạc, hướng mỡ, hướng kiêm dụng. Đối với trâu, bò, dê và cừu: Chuyên sữa, chuyên thịt, kiêm dụng, lấy da, lấy len. Đối với gia cầm: Chuyên trứng, chuyên thịt, kiêm dụng. 2.2.3. Tiêu chuẩn giống vật nuôi: Tiêu chuẩn giống vật nuôi được xây dựng qua công tác điều tra cơ bản, qua tính toán thống kê và qua thực nghiệm chăn nuôi trong các điều kiện nhất định. Thường tiêu chuẩn vật nuôi được công bố từ những nhà sản xuất giống và ở một số quốc gia nuôi các thú nầy cũng có tiêu chuẩn riêng của họ. Tiêu chuẩn vật nuôi bao gồm những nhận xét, mô tả, đánh giá mức độ những đặc điểm tính trạng đạt được bằng số lượng, kích thước, bằng những nhận định so sánh kết quả tính toán có hệ thống. Người làm công tác giống căn cứ vào tiêu chuẩn để khảo sát, giám định và phân cấp chất lượng cho từng cá thể và quần thể để có kết luận là nên chọn làm giống hay loại thải hoặc đề ra hường sử dụng hay dự kiến các kết quả sẽ đạt được. 2.3. SỰ SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT DỤC CỦA VẬT NUÔI 2.3.1 Khái niệm Quá trình hình thành và phát triển của cơ thể động vật nuôi gọi là sinh trưởng và phát dục. Sự sinh trưởng: Là sự biền đổi về khối lượng: từ hợp tử đạt đến đỉnh cao vể khối lượng. Thường phân biệt 3 loại: - Sinh trưởng tích lủy: Trọng lượng mỗi lần cân. - Sinh trưởng tuyệt đối = Wn – W(n –1) tn – t n –1) - Sinh trưởng tương đối = Wn – W(n –1) V Wn Sự phát dục: Là những biến đổi về chức năng, hình thù và tên gọi : từ hợp tử phôi thai thú non thú trưởng thành. Thay đổi chức năng gồm những biến về sinh lý và những sản phẩm mà nó tạo ra. Sinh trưởng và phát dục liên quan đến bộ gene mà hoạt động của nó theo thời điểm và những hoạt động của gene nầy cũng có thể gắn liền với những tác động của ngoại cảnh bên ngoài. 2.3.2. Những quy luật chung về sự sinh trưởng và phát dục 2.3.2.1. Quy luật sinh trưởng và phát dục không đồng đều Về lượng: Ở các lứa tuổi khác nhau thì sự sinh trưởng tuyệt đối và tương đối đều khác nhau. Đối với thú non phát triển chiều cao trước, sau đó phát triển chiều dài và sau cùng phát triển bề dày. Bảng 2.1 Sự phát triển của thai bò THÁNG TRỌNG LƯỢNG (kg) DÀI THÂN (cm) SỐ LẦN TĂNG TRỌNG/THÁNG 0 0,0000005 0,0001 - 1 0,0003 3,5 600,0 2 0,013 8,0 43,3 3 0,150 16,0 11,5 4 0,820 27,0 5,5 5 2,80 37,0 3,4 6 7,00 54,0 2,5 7 16,00 70,0 2,3 8 27,00 82,0 1,7 9 35,00 100,0 1,3 -Về chất: Thành phần hóa học trong cơ thể của thú cũng thay đổi theo quy luật phát triển không đồng đều. Thú lớn và thú non không đồng nhất về chất bên trong, các tỷ lệ thay đổi theo thời gian và môi trường. Thú non thông thường có hàm lượng nước, chất protein và khoáng cao hơn thú lớn, ngược lại thú lớn chất béo cao hơn. Bảng 2.2 Vật chất khô và mỡ của bê THÀNH PHẦN VẬT CHẤT KHÔ (%) TỶ LỆ MỠ (%) Tuổi bê Sơ sinh 25,81 2,80 6 tháng 30,93 7,20 12 tháng 36,25 12,65 Bảng 2.3 Thành phần các chất trong heo sơ sinh và heo xuất chuồng Thành phần Heo sơ sinh (%) Heo xuất thịt (%) Nước 72 45 Vật chất khô 28 55 Protein 23 15 Chất béo 2,5 38 Khóang tổng số 2,5 2 Trong các thời kỳ sinh trưởng khác nhau, khả năng thích nghi của cơ thể với điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, điều kiện dinh dưỡng, chuồng trại, vận động, không vận động cũng không giống nhau. Vận dụng quy luật nầy trong thực tiễn chăn nuôi để phân chia các giai đoạn nuôi dưỡng hợp lý, nhằm tạo điều kiện cho sự sinh trưởng và phát dục theo hướng có lợi nhất. Chia các thời kỳ mang thai ra các giai đoạn để chăm sóc, nuôi dưỡng theo nhu cầu phát triển của bào thai; phân chia các thời kỳ tăng trưởng trong giai đoạn vỗ béo để có những tác động hiệu quả nhất. Việc nuôi dưỡng thú đúng theo các giai đoạn thì sự sinh trưởng và phát dục của vật nuôi ở các thời kỳ khảo sát biểu hiện đúng theo đặc điểm của thú. 2.3.2.2. Quy luật phát triển theo thời kỳ Sự phát triển của vật nuôi có thể chia làm hai thời kỳ lớn: thời kỳ trong bào thai và thời kỳ ngoài thai. Thời kỳ trong bào thai bao gồm: Giai đọan phôi: Hợp tử bám vào niêm mạc tử cung. Giai đọan tiền thai: Xuất hiện mầm các cơ quan. Giai đọan thai: Hình thành và hòan thiện một số cơ quan. Thời kỳ ngoài thai gồm: Giai đọan sơ sinh:Từ lúc đẻ đến cai sữa. Giai đọan thành thục: Từ cai sữa đến trưởng thành về sinh sản. Giai đọan trưởng thành: Từ thành thục, phát triển đến mức tối đa về thể vóc. Cơ, xương phát triển hòan chỉnh. Giai đọan già cổi: Từ lúc thú phát triển hòan chỉnh, trong thời kỳ nầy sức khỏe và năng suất sản xuất bắt đầu giảm dần, trao đổi chất kém, dị hóa lớn hơn đồng hóa, hiệu quả sử dụng thức ăn thấp. Bảng 2.4 Tuổi trưởng thành về tăng trưởng một số loài LOÀI TUỔI THÀNH THỤC TUỔI TRƯỞNG THÀNH VỀ TĂNG TRƯỞNG THỜI GIAN MANG THAI,ẤP Trâu 10-18 tháng 6 năm 310-320 ngày Bò 8-12 tháng 5 năm 280-290 ngày Dê, cừu 7-8 tháng 4 năm 150 ngày Heo 6-8 tháng 2 năm rưởi 114 ngày Chó 6-8 tháng 2 năm rưởi 60-63 ngày Gà 4 tháng 1 năm rưởi 20-22 ngày Vịt 4-6 tháng 1 năm rưởi 27-35 ngày 2.3.2.3. Quy luật phát triển có chu kỳ: Tính chất không đồng đều các hoạt động, lúc mạnh lúc yếu theo một số quy luật nhất định gọi là quy luật phát triển có chu kỳ: như động đực ở thú cái, hay nhịp độ sự tăng trọng….. 2.4. NGOẠI HÌNH VÀ THỂ CHẤT VẬT NUÔI. 2.4.1. Ngoại hình Khái niệm ngoại hình Ngoại hình là hình dáng bên ngoài của vật nuôi, có liên quan đến sức khỏe, hoạt động của các bộ phận bên trong cơ thể cũng như khả năng sản xuất và là hình dáng đặc trưng của một giống gia súc. Ngoại hình của gia súc thay đổi theo loài, giống, hướng sản xuất , phái tính và môi trường. Đánh giá phân loại ngoại hình Ngoại hình được phê xét đánh giá bằng mắt, bằng tay trên cơ thể thú và sau đó nhận xét tổng thể giá trị ngoại hình theo theo một tiêu chuẩn quy định. Phê xét ngoại hình để đánh giá thú là công việc tuy đơn giản nhưng rất công phu, đòi hỏi người phê xét phải nắm vững tiêu chuẩn của giống, có kinh nghiệm thực tiển thông qua rèn luyện hình dung được những đặc điểm ngoại hình lý tưởng của cá thể giống để đối chiếu. Người phê xét phải có những nhận xét về đặc điểm đặc trưng của giống, những nhận xét về các bộ phận có liên quan mật thiết đến tính chất sản xuất chủ yếu của con vật. Phải ghi chép các đặc điểm, đo đếm số lượng kích thước các chiều trên cơ thể vật nuôi và đối chiếu với chỉ tiêu, tiêu chuẩn ngoại hình của giống đó. Bảng 2.5 Tiêu chuẩn giám định ngoại hình của con giống STT Bộ phận (Chỉ tiêu) Điểm Hệ số Điểm x HS 1 Đặc điểm chung của giống 5 2 Đầu, cổ 1 3 Vai, ngực 2 4 Lưng, sườn, bụng 3 5 Mông đùi 3 6 Bốn chân 3 7 Vú và cơ quan sinh dục 3 CỘNG 20 100 Đánh giá các bộ phận có liên quan đến hướng sản xuất bằng cách cho điểm, tùy theo ưu, khuyết điểm được mô tả cho từng giống mà có số điểm khác nhau: điểm tối đa là 5 – tối thiểu là 1. Điểm của từng bộ phận được nhân với hệ số quy định tùy theo mức độ liên quan của bộ phận đó đến tính chất sản xuất của con vật nhiều hay ít. Tùy theo số điểm đạt được người ta phân cấp như sau: Đặc cấp 85 Cấp I 70 Cấp II 60 Cấp III 50 Ngoại cấp 50 2.4.2. Thể chất a. Khái niệm thể chất Thể chất là đặc tính thích nghi của con vật trong những điều kiện sinh sống và di truyền nhất định có liên quan đến sức khoẻ và khả năng sản xuất của con vật. Quá trình hình thành thể chất phải thông qua hai mặt: genotype (di truyền) và phenotype (ngoại cảnh). - Về mặt di truyền: Cần hiểu thể chất của con vật được hình thành do đặc tính di truyền của thế hệ trước thông qua hệ thống đến quy định. - Về mặt ngoại cảnh: Cần hiểu thể chất là kết quả sự hình thành và củng cố thông qua quá trình trao đổi chất của cơ thể trong quá trình hình thành và phát triển. Có nghĩa là cường độ trao đổi chất càng cao, sự hấp thu dinh dưỡng càng nhiều, khả năng tích luỹ các chất để tạo mô xương, cơ càng mạnh thì thể chất càng khoẻ và ngược lại Chính vì vậy mà những biểu hiện ra bên ngoài của một cơ thể có thể chất tốt là sức khoẻ tốt, sức sinh sản và sản xuất cao, ngoài ra nói đến thể chất cũng là nói đến sức mạnh, sức chịu đựng, sự thích nghi của cơ thể trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế nhất định, vì vậy không thể tách rời việc đánh giá thể chất với các điều kiện sinh tồn của con vật. Thể chất là khái niệm tổng hợp những đặc trưng về hình thái, sinh lý của cơ thể vật nuôi, liên quan đến khả năng thích nghi và khả năng sản xuất được hình thành theo đặc tính di truyền từ đời trước. Nói tóm lại, thể chất được hình thành do tác động của ngoại cảnh và tính di truyền b. Đánh giá phân loại thể chất: Đánh giá thể chất là đánh giá chất lượng của cơ thể một cách tổng quát, liên quan đến sức khỏe và sức sản xuất của thú. Có nhiều phương pháp phân loại thể chất như: Phân loại thể chất dựa vào cấu tạo cơ thể: Phần cứng (xương): Xương nhỏ, chắc chắn gọi là thể chất thanh , Xương to lớn, vạm vỡ gọi là thể chất thô. Phần mềm (cơ, mỡ): Phần mềm ít phát triển, mỡ ít, cơ rắn chắc và đàn hồi tốt gọi là thể chất săn. Phần mềm phát triển, nhiều mỡ, cấu trúc cơ mềm, nhão gọi là thể chất sổi. Kết hợp các loại thể chất trên, trong thực tế người ta chia thể chất gia súc thành 4 loại: Thanh săn: Biểu hiện xưong nhỏ nhưng rắn chắc, cơ dài cứng, lớp mỡ dưới da mỏng, khả năng trao đổi chất cao. Đây là thể chất tốt của nhóm ngựa cưỡi, bò sữa cao sản, gà đẻ, thú sinh sản. Thanh sổi: Xương nhỏ, da mỏng, thịt nhiều nhưng hơi nhão, có một ít mỡ, đầu nhẹ. Đây là thể chất tốt cho thú nuôi lấy thịt. Thô săn: Xương lớn, vạm vỡ, cơ săn chắc, da mỏng,mỡ dưới da ít. Đây là thể chất tốt của thú cày kéo. Thô sổi: Xương to, da dày, thịt nhão,thú chậm chạp, trao đổi chất kém. Thể chất nầy không thích hợp với tất cả các hướng sản xuất. Phân loại theo loại hình tiêu hoá và hô hấp: - Loại hình hô hấp: là các gia súc có lồng ngực dài rộng, cổ, mũi phát triển mạnh, do đó trao đổi chất mạnh, sức sản xuất cao như bò sữa cao sản, ngựa đua, gia súc làm việc dẻo dai. - Loại hình tiêu hoá: gia súc có lồng ngực ngắn, tròn và rộng, cổ ngắn, mũi ít phát triển, bụng to, do đó trao đổi chất chậm, con vật ít hoạt động ăn no lại nằm, khả năng tích luỹ mỡ cao, phù hợp nuôi thịt. Phân loại thể chất theo loại hình thần kinh của Páp-lốp: Qua kết quả nghiên cứu hoạt động thần kinh Páp-lốp chia loại hình thần kinh thành 3 loại: hưng phấn, thăng bằng và ức chế. Từ đó chia thể chất có 4 loại: - Thể chất buồn bã: Thuộc loại hình thần kinh yếu. - Thể chất nóng nảy: thuộc loại hình thần kinh không thăng bằng. - Thể chất bình thản: Thuộc loại hình thần kinh thăng bằng, chuyển biến chậm. - Thể chất linh hoạt: Thuộc loại hình thần kinh mạnh, hưng phấn, có tốc độ chuyển biến nhanh. Cho đến nay, cách phân loại thể chất theo cấu tạo cơ thể vẫn được áp dụng rộng rãi hơn cả vì dễ thực hiện. Ngoài ra, người ta còn căn cứ vào số lượng tuyến mồ hôi /1cm2 da để ước đoán sức sản xuất sữa sau này; nghiên cứu cấu tạo lông (lông có gân cứng cặp là thể chất mạnh, lông mềm, gân mảnh thì thể chất yếu), hoặc nghiên cứu về sinh lý, sinh hoá tế bào giúp cho việc đánh giá thể chất hoàn thiện hơn. 2.5. CÁCH CHỌN VÀ NHÂN GIỐNG GIA SÚC 2.5.1. Cách chọn giống Chọn giống là chọn lọc, tách riêng ra trong từng thế hệ gia súc những vật nuôi tốt nhất về kiểu hình (phenotype) và kiểu gen (genotype), có giá trị tốt nhất về sức sản xuất và giá trị làm giống để nhân giống. Chọn giống là dựa trên cơ sở nắm vững những yếu tố hình thành các tính trạng, quan hệ giữa kiểu gen, kiểu hình và môi trường. Những căn cứ căn bản để chọn giống: Nguồn gốc : căn cứ quan trong đầu tiên phải được xem xét là theo gia phả. Tuỳ theo cấp giống mà xem xét lý lịch từ 3 đến 5 thế hệ trước. Để chọn lọc một con vật làm giống. trước hết phải lựa chọn bố, mẹ chung. Người ta thường căn cứ vào giá trị giống của các chỉ tiêu năng suất và ngoại hình để lựa chọn các cặp bố mẹ. Mặc dù con vật mà chúng ta định chọn lọc làm giống chưa ra đời, song có thể ước tính được giá trị giống của nó thông qua các giá trị giống của bố và mẹ nó. Muốn vậy, người ta phải có sổ giống ghi chép đầy đủ các thế hệ tổ tiên của con vật giống. Cá thể : Bước tiếp theo là các khâu kiểm tra đánh giá để chọn lọc bản thân con vật cần kiểm tra đánh giá trong hai giai đoạn: - Giai đoạn hậu bị: Từ khi con vật được nuôi tách mẹ (đối với gia súc) và 4 tuần tuổi (đối với gia cầm) tới khi con vật bắt đầu sinh sản phối giống lần đầu. Việc theo dõi đánh giá trong giai đoạn này tập trung vào các chỉ tiêu sinh trưởng và ngoại hình. - Giai đoạn sinh sản: Đối với con đực, theo dõi đánh giá các chỉ tiêu sinh sản của bản thân chung hoặc các chỉ tiêu năng suất ở đời con của chúng sẽ cung cấp những thông tin cho việc quyết định lựa chọn con đực làm giống hay không. Đánh giá các chỉ liêu sinh sản của con cái nhằm đi đến kết luận có tiếp tục giữ chung làm giống hay không. Người ta thường áp dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá để chọn lọc sau đây: + Chọn lọc hàng loạt : Là phương pháp định kỳ theo dõi, ghi chép các chỉ tiêu năng suất, chất lượng sản phẩm mà vật nuôi đạt được ngay trong điều kiện sản xuất. Căn cứ vào các kết quả theo dõi được mà quyết định tiếp tục sử dụng nữa hay loại thải. Đây là phương pháp chọn lọc đơn giản, không tốn kém, dễ thực hiện. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng sản phẩm của con vật luôn chịu ảnh hưởng của các điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc cũng như một số nhân tố khác. Do vậy, chọn lọc hàng loạt cũng là một phương pháp có độ chính xác kém. + Kiểm tra năng suất (kiểm tra cá thể) : Phương pháp này thường được tiến hành tại các cơ sở chuyên môn hoá được gọi là các trạm hay trung tâm kiểm tra năng suất. Phương pháp này được tiến hành trong giai đoạn hậu bị nhằm chọn lọc những vật nuôi được giữ lại làm giống. Để loại trừ một số ảnh hưởng của mỗi trường, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy hết tiềm năng di truyền của con vật, người ta nuôi chung trong điều kiện tiêu chuẩn về chuồng nuôi, chế độ dinh dưỡng (cho ăn không hạn chế ) . . . Trong quá trình kiểm tra, con vật được theo dõi một số chỉ tiêu nhất định. Các kết quả đạt được về các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá giá trị giống và căn cứ vào giá trị giống để quyết định chọn lọc hay loại thải con vật. Đặc điểm của phương pháp này là đánh giá trực tiếp năng suất của chính con vật tham gia kiểm tra, vì vậy, việc ước tính giá trị giống đảm bảo độ chính xác đối với các tính trạng có hệ số di truyền ở mức cao hoặc trung bình. Do số lượng vật nuôi tham dự kiểm tra năng suất cũng chính là số lượng vật nuôi được đánh giá chọn lọc, nên với một số lượng vật nuôi nhất định được kiểm tra năng suất, phương pháp này đưa lại một tỷ lệ chọn lọc cao. Nhược điểm chủ yếu của phương pháp này là không đánh giá được các chỉ tiêu theo dõi trực tiếp trên bản thân con vật. Ví dụ: sản lượng sữa, tỷ lệ mỡ sữa… Ở bò đực giống, phẩm chất thịt ở heo đực giống... Kiểm tra năng suất đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước, đối với heo các heo đực giống hậu bị được nuôi kiểm tra năng suất từ lúc chung có khối lượng từ 25-30 kg cho tới khi 90- 110Kg. Ba chỉ tiêu theo dõi chính gồm: Tăng trọng trung bình (gr/ngày) trong thời gian nuôi kiểm tra, chi phí thức ăn trung bình cho mỗi kg tăng trọng trong thời gian kiểm tra (kg tă/kg tăng trọng) và độ dày mỡ lưng đo bằng máy siêu âm ở vị trí xương sườn cuối cùng khi kết thúc kiểm tra (mm). Ở nước ta, kiểm tra năng suất heo đực giống và heo nái sinh sản đã trở thành tiêu chuẩn Việt Nam từ năm 1989 và hiện có 3 trạm: Trạm kiểm tra năng suất heo đực giống An Khánh - Hà Tây. Trung tâm heo giống Thụy Phương thuộc viện chăn nuôi Quốc gia và Trung tâm nghiên cứu phát triển chăn nuôi Bình Thắng thuộc Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam. Kiểm tra đời con : Phương pháp này dùng để đánh giá chọn lọc đực giống. Để kiểm tra đời con, chúng ta cho các đực giống tham dự kiểm tra phối giống với một số lượng cái giống nhất định thường là 10 con cái cùng phẩm cấp. Khi những con cái giống này sinh ra đời con. người ta nuôi các con của chúng tại các trạm kiểm tra có các điều kiện tiêu chuẩn về chuồng nuôi, chế độ dinh dưỡng …. giống như đối với kiểm tra năng suất. Đời con được theo dõi những chỉ tiêu nhất định về năng suất. căn cứ vào các chỉ tiêu đạt được ở đời con để đánh giá giá trị giống của con đực và quyết định chọn hay loại thải. 2.5.2. Hệ số di truyền (Heritability coefficient) Tính chất của hệ số di truyền: Hệ số di truyền của một tính trạng là một đại lượng, nó biểu thị khả năng di truyền của tính trạng đó, được xác địng bằng cách tính tỷ lệ của phần di truyền trong việc tạo nên giá trị kiểu hình. Hay có thể nói hệ số di truyền là tỷ lệ của phần do gen quy định trong việc tạo nên giá trị kiểu hình. Thông thường trong chăn nuôi người ta hay sử dụng hệ số di truyền theo nghĩa hẹp: VA hA2 = VP hA2 : Hệ số di truyền. VA : Phương sai giá trị gây giống. VP : Phương sai kiểu hình. Hệ số di truyền được biểu thị bằng số thập phân từ 0 –1 hoặc từ 0% -100%. Đặc điểm di truyền của gia súc phần lớn tuân theo các quy luật di truyền của Mendel. Các tính trạng chất lượng thường do một đôi gen quy định. Không thay đổi qua các thế hệ và ít bị ảnh hưởng của ngoại cảnh. Các tính trạng số lượng do nhiều đôi gen quy định và chịu sự tác động ngoại cảnh với nhiều mức độ khác nhau. Thông thường người ta phân biệt ba loại hiệu ứng gen với ba loại tính trạng qua các mức độ của hệ số di truyền như sau: Hệ số di truyền cao ( h2 0,4) Đối với các tính trạng bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng cộng gộp của các gen là chủ yếu. Trên gia súc là các tính trạng phản ảnh chất lượng sản phẩm như: tỷ lệ nạc của heo,độ dày mỡ lưng của heo, tỷ lệ mỡ sữa của bò, phẩm chất quầy thịt…. Hệ số di truyền trung bình ( 0,2 h2 0,4) Đối với các tính trạng bị ảnh hưởng của các gen có hiệu ứng hỗn hợp giữa các hiệu ứng cộng gộp và không cộng gộp (trội và át gen). Trên gia súc là các tính trạng phản ảnh số lượng sản phẩm như: tốc độ tăng trọng, sản lượng sữa, mức độ tiêu tốn thức ăn….. Hệ số di truyền thấp ( h2 0,2) Đối với các tính trạng bị ảnh hưởng của các gen mà hiệu ứng chủ yếu là không cộng gộp (trội và át gen). Trên gia súc là các tính trạng liên hệ tới khả năng sinh sản như: nhịp đẻ, sản lượng trứng, số heo con sơ sinh, số heo con cai sữa….. Bảng 2.6 Hệ số di truyền một số tính trạng của gia súc Loài Các tính trạng h2 Mức độ h2 Bò sữa Nhịp đẻ 0,10 Thấp Khả năng sinh sản của bò cái 0,08 – 0,10 Thấp Tuổi đẻ lứa đầu 0,34 Trung Bình Sản lượng sữa chu kỳ 0,30 – 0,42 Trung Bình Khả năng tăng trọng 0,40 Trung Bình Tỷ lệ mỡ sữa 0,60 – 0,78 Cao Bò thịt Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 0,08 Thấp Tăng tọng thời kỳ bú sữa 0,12 Thấp Khả năng sinh sản 0,14 – 0,15 Thấp Trọng lựơng bê sơ sinh 0,34 – 0,41 Trung Bình Tiêu tốn thức ăn 0.39 Trung Bình Tỷ lệ thịt 0,71 Cao Diện tích cơ thăn 0,69 – 0,72 Cao Phẩm chất quầy thịt 0,40 – 0,60 Cao Trọng lượng thành thục 0,40 – 0,60 Cao Heo Số heo con trong một lứa đẻ 0,13 Thấp Số heo cai sữa trong một lứa 0,12 Thấp Khả năng sinh sản 0,15 Thấp Tiêu tốn thức ăn O,31 – 0,58 Trung Bình Dài thân 0,59 Cao Độ dày mỡ lưng 0,59 – 0,60 Cao Phẩm chất quầy thịt 0,46 – 0,63 Cao Gà Tỷ lệ ấp nở 0,10 – 0,14 Thấp Sản lượng trứng 0,2 – 0,30 Trung bình Độ dày vỏ trứng 0,30 Trung Bình Trọng lượng 3 tháng tuổi 0,26 – 0,50 Trung Bình Màu vỏ trứng 0,40 – 0,76 Cao Hình dạng trứng 0,60 Cao Trọng lượng lòng trắng 0,66 – 0,68 Cao Trọng lượng trứng 0,60 – 0,74 Cao Nguồn: Nguyễn Văn Thiện ,Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôi (1995) . Đối với tính trạng có hệ số di truyền cao, nếu tác động bằng phương pháp chọn lọc thì sẽ có hiệu quả nhanh hơn, còn tác động bằng phương pháp chăm sóc nuôi dưỡng (ngoại cảnh) thì hiệu quả sẽ không rỏ ràng. Ngược lại, các tính trạng có hệ số di truyền thấp, tác động bằng phương pháp chọn lọc thì hiệu quả sẽ chậm còn tác động bằng phương pháp chăm sóc nuôi dưỡng (ngoại cảnh) thì sẽ có hiệu quả nhanh hơn. 2.6. CÁCH NHÂN GIỐNG Nhân giống là sự thay đổi một quần thể về mặt di truyền của nó một cách có kế hoạch, phù hợp với mục đích yêu cầu đã xác định và cũng phù hợp điều kiện tự nhiên,kinh tế xã hội nơi sẽ phát triển vật nuôi đo. Nhân giống vật nuôi trên thực tế là quá trình điều khiển sinh sản vật nuôi thông qua chọn lọc và ghép đôi giao phối giữa cá thể đực và cá thể cái có năng suất cao, dựa trên cơ sở tạo ưu thế lai. Thông thường có hai cách nhân giống: nhân giống thuần và nhân giống lai. 2.6.1.Nhân giống thuần chủng: - Phương pháp nhân giống thuần chủng là phương pháp chỉ giao phối giữa con đực và con cái trong cùng một phẩm giống. Do vậy, thế hệ con vẫn là giống thuần, nghĩa là chỉ mang đặc tính của giống ban dầu duy nhất. Ví dụ: Heo đực Móng Cái × heo cái Móng Cái →Đàn con thuần giống Móng Cái. Mục đích Giữ ổn định phẩm chất của giống làm giới hạn những biến dị củng cố tính chất di truyền trong phạm vi một phẩm giống để tạo ra tính đồng nhất về ngoại hình, tầm vóc, thể chất và sức sản xuất và tạo đàn cái nền cho công tác lai tạo hoặc nhằm củng có một giống mới được hình thành. Vai trò nhân giống thuần chủng nhằm bảo tồn quỹ gen các vật nuôi đang bị giảm về số lượng cũng như về địa bàn phân bố và có nguy cơ diệt chủng. Điều này đặc biệt quan trọng tới một số giống vật nuôi bản địa do năng suất của chúng thấp. Chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường nên dễ bị người ta lăng quên. Việc bảo tồn nguồn tiến là tiếc làm cân thiết trong đó nhân giống thuần giúp cho nguồn gen được phát triển. Nhân giống thuần cũng góp phần phát triển đàn giống nhập nội từ nơi khác hoặc nước khác về khí số lượng còn ít. Ví dụ, trong thập kỷ 70 chúng ta nhập bò Hà lan từ Cu Ba về và nuôi thích nghi tại Mộc Châu, chúng được nhân giống thuần để tăng số lượng tại đó. Khi thực hiện nhân giống thuần có thể cải tiến được năng suất vật nuôi mức độ cải tiến tuỳ thuộc vào đặc điểm của tính trạng, Lai sai chọn lọc, khoảng cách thế hệ thông thường những tính trạng có hệ số di truyền cao hoặc trung bình sẽ được cải tiến một cách nhanh chóng và chắc chắn hơn so với các tính trạng có hệ sô di truyền thấp. Trong quá trình nhân giống thuần chủng, cần tránh giao phối cận huyết. Những tính trạng có hệ số di truyền thấp thường có mức độ suy hoá cận huyết cao và ngược lại. Thông thường, việc ghi chép quản lý hệ phả kém ghép đôi giao phối không được tổ chức chặt chẽ, quy mô của đàn vật nuôi nhỏ lại tự túc sản xuất con giống để thay thế trong đàn. Sử dụng phương pháp phối giống nhân tạo mà không theo dõi nguồn gốc con đực... đều là những nguyên nhân chủ yếu gây ra giao phối cận huyết. Các tính toán cho thấy, một đàn gia súc chỉ giao phối trong nội bộ, sau 25 thế hệ mặc dù hết sức tránh giao phôi cận huyết. nhưng nếu quy mô là 10 đực và 200 cái thì hệ số cận huyết sẽ là 23,8%. Quy mô 30 đực là 600 cái hệ số cận huyết là 7,9% quy mô 100 đực và 2000 cái sẽ có hệ số cận huyết 2,4%. 2.6.2. Nhân giống lai: Lai giống là ghép đôi giao phối giữa những cá thể đực cái không cùng phẩm giống, thông qua chọn lọc, nuôi dưỡng định hướng tạo ra cá thể lai với mục đích kinh tế hoặc tạo ra giống mới. Công việc lai giống làm cho tính di truyền bảo thủ bị phá vỡ, sự di truyền thay đổi, làm phong phú thêm sự di truyền các tính trạng có lợi, thúc đẩy việc tạo ra những đặc điểm di truyền mới. Trên cơ sở làm tăng sinh lực cơ thể biểu hiện ở ưu thế lai. Bằng những phương pháp lai có hệ thống, dựa trên cơ sở hiểu biết cơ chế và bản chất di truyền, việc lai tạo có thể tiến hành giữa hai hay nhiều giống khác nhau, nhằm cải tạo hoặc tạo ra giống mới nhanh chóng và có hiệu quả. Lai kinh tế Là phương pháp cho giao phối giữa hai hay nhiểu phẩm giống khác nhau để tạo những con lai có ưu thế lai cao dùng thú thương phẩm, không nhằm mục đích sinh sản ra những con vật đê làm giống. - Con lai tiếp thu được những đặc tính tốt của con bố đặc biệt tính trạng nàng suất, thể chất, sức sản xuất. - Con lai tổng hợp được những đặc tính tốt thuốc phẩm giống cả bố lẫn mẹ. thế hiện rõ nhất ở F, tập trung nhiều đặc tính tốt, ưu thế lai cao - Con lai có tính chất biến đổi cao do khả năng biến đổi lớn, tính di truyền không ôn định, sự biến đổi qua các thế hệ không giống nhau, có con mang đặc tính cao, có con trung bình. - Con lai có khi mang đặc điểm của tổ tiên chứ không phải chỉ riêng của bố mẹ chúng. Lai luân chuyển: Là phương pháp lai giữa các phẩm giống khác nhau, trong đó mỗi đời lai người ta lại thay đổi đực giống của các giống đã được sử dụng. Ưu điểm nổi bật của lai luân chuyển là trong quá trình lai tạo đã tạo được đàn cái giống để tự thay thế. Lai tải tiến Phương pháp lai này dùng để củng cố, nâng cao một vài đặc tính tốt sẵn có của một phẩm giống hoặc khi cần sửa chữa khuyết điểm nào đó còn tồn tại trong phẩm giống trong khi về cơ bản giống đó đã đạt yêu cầu Ví dụ: Một giống heo có năng suất cao, chất lượng thịt tốt, thích ứng với điều kiện địa phương nhưng khả năng sinh sản lại kém cần sửa chữa bằng cách cải tiến. Yêu cầu bắt buộc là con lai phải giữ nguyên được đặc tính tốt của phẩm giống được cải tiến. Do đó, phải tính toán chọn lọc kỹ phẩm giống nào dùng để cải tiến. Giống đi cải tiến phải có ngoại hình, thể chất, sức sản xuất tương tự giống được cải tiến nhưng có ưu điểm nổi bật về tính trạng cần được cải tiến. Lai cải tạo Là phương pháp lai dùng một phẩm giống để cải tạo về căn bản một phẩm giống khác, thường là giống địa phương khi giống được cải tiến không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và có sức sản xuất thấp. Do vậy, lai cải tạo thường tạo thành giống mới. Toàn bộ đực lai loại thải chỉ giữ lại những con cái lai tốt nhất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiống và công tác giống vật nuôi.doc
Tài liệu liên quan