1. Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan
Nguyễn Công Lý
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân cách văn hoá lớn, một nhà tư tuởng - triết học lớn, một đại thụ bao trùm bóng mát cả vườn cây văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Ông là người có khả năng “huyền cơ tham tạo hoá” (nắm được cái lẽ huyền vi của tạo hoá) như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có ngợi ca; là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở” như Phan Huy Chú đã xưng tụng. Văn chương của ông “không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà có nhiều vị” ( ) “như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy” mà Vũ Khâm Lân đã nhận định trong bài Phả ký; “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên” như Phan Huy Chú đã bình trong Văn tịch chí ở sách Lịch triều hiến chương loại chí. Ông sống gần trọn thế kỷ XVI, đã chứng kiến những cảnh tranh giành xâu xé giữa các tập đoàn phong kiến bấy giờ, hết Lê - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn. Nếu trừ khoảng 8 năm ông ra làm quan cho nhà Mạc tại triều đình trung ương thì thời gian còn lại ông đều sống ở quê nhà (44 năm trước khi xuất chính và 44 năm sau khi cáo quan về vườn), nhờ thế mà ông có dịp gần gũi nhân dân, thấu hiểu dân tình khốn khổ trong cảnh binh đao. Đây cũng là một trong những yếu tố hình thành tư tưởng thân dân của Tuyết Giang phu tử, với tấm lòng ưu thời mẫn thế, tiên ưu hậu lạc đến già vẫn không nguôi, đúng như Vũ Khâm Lân đã viết: “Tuy ở nhà 44 năm mà không ngày nào quên đời, lòng ưu thời mến tục đều bộc lộ trong thơ” (Phả ký). Ông sống trên đất nhà Mạc, giữa thời chiến tranh tao loạn, vậy mà vẫn đứng vững như cây tùng, cây bách trong giá rét mùa đông; giữa những bão táp biến động của thời thế. Không chỉ thế mà lúc bấy giờ các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn đều nể vì, kính ngưỡng ông; họ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách phái những thủ túc thân cận đến cầu kiến ông, xin những lời mách bảo của ông về thời cuộc. Bao trùm lên cuộc đời ông, đã có nhiều câu chuyện lưu truyền trong dân gian với những giai thoại khá lý thú mà các cụ ngày trước đã từng chép lại trong các sách như Sấm Trạng Trình, Phả ký chẳng hạn. Bài viết nhỏ này sẽ đặt vấn đề bàn lại những gì mà các bậc tiên Nho đã viết xung quanh các mối quan hệ giữa Bạch Vân cư sĩ với Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan.
10 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan
Nguyễn Công Lý
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân cách văn hoá lớn, một nhà tư tuởng - triết học lớn, một đại thụ bao trùm bóng mát cả vườn cây văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Ông là người có khả năng “huyền cơ tham tạo hoá” (nắm được cái lẽ huyền vi của tạo hoá) như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có ngợi ca; là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở” như Phan Huy Chú đã xưng tụng. Văn chương của ông “không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà có nhiều vị” (…) “như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy” mà Vũ Khâm Lân đã nhận định trong bài Phả ký; “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên” như Phan Huy Chú đã bình trong Văn tịch chí ở sách Lịch triều hiến chương loại chí. Ông sống gần trọn thế kỷ XVI, đã chứng kiến những cảnh tranh giành xâu xé giữa các tập đoàn phong kiến bấy giờ, hết Lê - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn. Nếu trừ khoảng 8 năm ông ra làm quan cho nhà Mạc tại triều đình trung ương thì thời gian còn lại ông đều sống ở quê nhà (44 năm trước khi xuất chính và 44 năm sau khi cáo quan về vườn), nhờ thế mà ông có dịp gần gũi nhân dân, thấu hiểu dân tình khốn khổ trong cảnh binh đao. Đây cũng là một trong những yếu tố hình thành tư tưởng thân dân của Tuyết Giang phu tử, với tấm lòng ưu thời mẫn thế, tiên ưu hậu lạc đến già vẫn không nguôi, đúng như Vũ Khâm Lân đã viết: “Tuy ở nhà 44 năm mà không ngày nào quên đời, lòng ưu thời mến tục đều bộc lộ trong thơ” (Phả ký). Ông sống trên đất nhà Mạc, giữa thời chiến tranh tao loạn, vậy mà vẫn đứng vững như cây tùng, cây bách trong giá rét mùa đông; giữa những bão táp biến động của thời thế. Không chỉ thế mà lúc bấy giờ các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn đều nể vì, kính ngưỡng ông; họ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách phái những thủ túc thân cận đến cầu kiến ông, xin những lời mách bảo của ông về thời cuộc. Bao trùm lên cuộc đời ông, đã có nhiều câu chuyện lưu truyền trong dân gian với những giai thoại khá lý thú mà các cụ ngày trước đã từng chép lại trong các sách như Sấm Trạng Trình, Phả ký chẳng hạn. Bài viết nhỏ này sẽ đặt vấn đề bàn lại những gì mà các bậc tiên Nho đã viết xung quanh các mối quan hệ giữa Bạch Vân cư sĩ với Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan.Vấn đề thứ nhất: CÓ PHẢI NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ PHÙNG KHẮC KHOAN LÀ ANH EM CÙNG MẸ KHÁC CHA ? 1. Theo truyền thuyết và giai thoại lưu truyền trong dân gian xưa nay và theo gia phả họ Phùng ở Phùng Xá, Sơn Tây (tức tỉnh Hà Tây cũ, gần đây thuộc Hà Nội) thì Tuyết Giang phu tử không chỉ là thầy dạy học của Phùng Khắc Khoan mà còn là người anh cùng mẹ khác cha với Phùng tiên sinh. Chuyện này kể ra cũng lạ ! Phùng Khắc Khoan (1528-1613) tự là Hoằng Phu, hiệu Nghị Trai, Mai Nham Tử, người ở kẻ Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây. Ông có tài cả văn lẫn võ, thông giỏi nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn học, thuật số v.v.., được nhân dân tôn vinh là Trạng Bùng (thật ra ông không đậu Trạng nguyên, mà chỉ đậu Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng giáp vào năm 1580, lúc 53 tuổi, tại hành tại Vạn Lại, Thanh Hoá, chỉ đứng sau Nguyễn Văn Giai). Khi đi sứ nhà Minh ông đã được vua Minh phong là Trạng nguyên. Ông làm quan trải mấy đời vua của nhà Lê trung hưng (thời Lê-Trịnh còn ở Thanh Hoá cho đến khi đuổi được nhà Mạc, về lại Thăng Long); từng giữ nhiều chức vụ, mà chức vụ cuối đời là Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Hộ, tước Mai Lĩnh hầu rồi Mai Quận công. Khi mất được truy tặng Thái phó.Ai cũng biết rằng truyền thuyết và giai thoại, xét đến cùng tuy ít nhiều có cái cốt lõi sự thật lịch sử, nhưng dù sao cũng vẫn là truyền thuyết, là giai thoại, khó có sức thuyết phục vì thiếu tính khoa học. Nhưng nếu không có nó thì các nhân vật lịch sử của ta ít nhiều sẽ mất đi vẻ uy linh, đẹp đẽ mà người đời qua bao thế hệ từng ngưỡng vọng và thêu dệt nên. Tài liệu xưa nhất hiện còn đã đề cập đến mối quan hệ anh em này giữa Trạng Trình và Trạng Bùng là bản gia phả họ Phùng ở Phùng Xá, Thạch Thất, Sơn Tây, mang tên Ký lục tiên tổ sự tích, hiện để tại nhà thờ Phùng Khắc Khoan ở Phùng Xá. Bản phả ký này do tằng tôn (chắt nội - tức cháu 3 đời, vậy người này gọi cụ Trạng Bùng bằng cố, tức tằng tổ). Điều đó có nghĩa là có thể người chắc nội trên đã theo lời truyền của gia tộc và trong dân gian mà ghi lại ?; và một văn bản nữa có nhan đề là Mai Lĩnh hầu thành mẫu chí truyện (Truyện ông Mai Lĩnh hầu hoàn thành chí nguyện của mẹ). Truyện này do người đời sau chép lại (không rõ người chép), được đóng chung trong sách Danh gia thi truyện tập (Tập thơ và truyện các nhà nổi tiếng), trong đó còn có chép Ngôn chí thi tập của Phùng tiên sinh. Sách Danh gia thi truyện tập được hoàn thành vào tháng giêng năm Giáp Dần (tức 1854) dưới triều vua Tự Đức (1847-1871), ký hiệu VHv.2163. Nội dung truyện ghi lại (xin được lược dịch) như sau: …Khi thân phụ Phùng Khắc Khoan ở Từ Sơn, có gặp một thiếu phụ từ Hải Dương đến (…) lông mày lá liễu, sắc mặt hơi buồn (…) bà đi cùng đường với ông, được chừng một dặm, ông thấy bà nhàn rỗi như đi dạo, bèn trò chuyện, hỏi han. Thấy ông có phúc tướng, bà mới bộc bạch nỗi lòng. Ông rơi lệ cảm động. Hai người kết nghĩa vợ chồng (…) Qua năm sau, sinh được con trai có tướng lạ, mới năm sáu tuổi mà đã có khí vũ của bậc trượng phu. Bà mừng rỡ bảo ông nên dạy cho nó học, nếu trời xanh không phụ, may gặp thời phò được thiên hạ nghiêng đổ thì chí thiếp mãn nguyện…(1). Theo lời dân Phùng Xá mà các nhà nghiên cứu sau này ghi lại thì người thiếu phụ Hải Dương ấy chính là bà họ Nhữ, mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy lời truyền, giai thoại trong dân gian có vài chi tiết hơi khác nếu so với truyện viết về ông như trên. Chẳng hạn, bà cả (đích mẫu) không có con, còn mẹ (sinh mẫu) của Phùng Khắc Khoan là bà hai, sinh được 4 anh em trai, mà Phùng tiên sinh là con thứ hai. Mẹ mất sớm, nên 4 anh em ông được đích mẫu nuôi dưỡng tử tế, thành đạt. Nội dung này có thể hiện trong thơ văn của ông, đặc biệt là bài Quyền tế đích mẫu văn được ông viết để tế tạm khi bà tạ thế (bà đích mẫu thọ trên 90), lúc ông trên đường đi sứ sang Yên Kinh nhà Minh.Từ đó, các nhà nghiên cứu sau này ở thế kỷ XX đã căn cứ vào gia phả họ Phùng và truyện trên để viết về Phùng tiên sinh và khẳng định ông là người em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình, chẳng hạn như:- Trong lời chú thích cuốn Đại Nam Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái viết năm 1870, người phiên âm và chú thích có ghi: Phùng Khắc Khoan người làng Phùng Xá, thuộc tỉnh Sơn Tây (tức gọi là Bùng), là con cùng mẹ khác bố của Nguyễn Bỉnh Khiêm (2).- Nguyễn Ngọc Kim trong Danh nhân đất Việt, có viết: Ông sinh thời Lê mạt, con cùng mẹ khác bố với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (3).- Quang Khánh trong bài Chí hướng và hành vi của Trạng Bùng, đăng trên tờ Văn hoá nguyệt san, cũng khẳng định như thế (4). - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong Giai thoại làng Nho (1963) ở mục từ Phùng Khắc Khoan, có khẳng định mối quan hệ anh em này của hai ông (5).- Lê Bá Sinh trong bài viết Về làng Bùng tìm di tích Trạng, in trong sách Danh nhân quê hương, đã khẳng định như thế (6).- Trần Lê Sáng trong Phùng Khắc Khoan cuộc đời - thơ văn (viết xong 1984), ở chương 2, mục II Gia thế, ông đã dành 20 trang (51-70) viết về Phùng Khắc Khoan. Sau khi nêu những băn khoăn, thắc mắc và nói nhiều năm thực tế điền dã cùng trưng ra nhiều tư liệu dẫn chứng về mối quan hệ (là anh em, không phải là anh em), nêu chủ kiến của ông để phản biện những ý kiến không công nhận mối quan hệ anh em giữa hai cụ Trạng, cuối cùng nhà nghiên cứu tuy không tuyên bố rõ nhưng người đọc vẫn nhận ra là tác giả cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là anh trai cùng mẹ khác cha với Phùng Khắc Khoan: “Dĩ nhiên, những chuyện ấy được kể ra đều có gốc gác, chúng có nét thực, chúng tôi cũng tin, nhưng dù sao vẫn muốn được thuyết minh rõ hơn. Có điều nếu chúng ta tin những truyền thuyết ấy, tại sao chúng ta lại không tin những truyền thuyết khác? Vì mẹ đẻ của Phùng Khắc Khoan, rõ ràng không chỉ nhắc đến trong một vài truyền thuyết mà được nhắc đến trong nhiều truyền thuyết khác ở các nơi xa nhau, thậm chí còn được ghi vào văn bản, tại sao ở trường hợp này, chúng ta lại gạt hết không tin (7).Trong các bộ văn học sử ở ta cũng như trong các bộ giáo trình lịch sử văn học của hai trường ĐHSP HN và ĐHTH HN (nay là ĐHKHXH và NV – ĐHQG HN), tuy các tác giả không đề cập đến mối quan hệ trên, nhưng khi giảng dạy trên giảng đường về Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan, chính tác giả - vị giáo sư lão thành và khả kính của các thế hệ sinh viên Ngữ văn chúng tôi, cũng đã có nêu ra mối quan hệ anh em trên của hai vị Trạng. Trên đây là những gì người xưa và các nhà nghiên cứu ở thế kỷ XX đã khẳng định về mối quan hệ anh em giữa Trạng Trình và Trạng Bùng. Tiếp theo đây là ý kiến của chúng tôi về vấn đề trên.2. Theo thiển ý, dù người xưa có khẳng định như thế nhưng chúng tôi thiết nghĩ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan chỉ có mối quan hệ thầy - trò (sư - đệ), chứ không có mối quan hệ anh em cùng mẹ khác cha.Xin thưa, chúng tôi không phải là người đầu tiên nêu thắc mắc này, cũng như phản bác ý kiến khẳng định mối quan hệ anh em trên. Trước đây, trong sách Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Bùi Duy Tân và Ngọc Liễn, các vị đã nêu ra rồi, có điều các tác giả đã lý giải vấn đề này mà theo tôi là chưa thuyết phục, khi viết: Trong thơ văn, Phùng Khắc Khoan không nói gì về người mẹ đẻ của mình. (…) Nguyễn Bỉnh Khiêm hơn Phùng Khắc Khoan đến 38 tuổi, bà mẹ họ Nhữ khó có thể sinh một đứa con sau cách đứa con trước nhiều năm như thế. (…) Câu chuyện về bà mẹ họ Nhữ và việc gặp gỡ ngẫu nhiên, thú vị giữa Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Bỉnh Khiêmchắc chỉ là huyền thoại, khó tin và có thực (8).Ý kiến trên của nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân và Ngọc Liễn vừa dẫn, ông Trần Lê Sáng trong công trình viết về cuộc đời và thơ văn Phùng Khắc Khoan có phản biện, nhưng theo chúng tôi, những ý kiến phản biện lại của ông Trần cũng vòng vo, không thuyết phục. Đó là chưa nói lập luận có chỗ nhầm lẫn (không chỉ ở chỗ này mà trong công trình trên còn có những sai sót khác, để tránh dông dài, tôi không nêu ra ở đây, hẹn sẽ nói kỹ trong bài viết khác, khi có dịp). Xin trở lại ý vừa trích dẫn trên. Thiết nghĩ, nếu một phụ nữ nào đó lấy chồng từ lúc 13, 14 hay 15 tuổi (người xưa có quan niệm “Nữ thập tam, nam thập lục” mà!) và năm sau sinh con ngay thì 38 năm tiếp vẫn có thể sinh con vì mới có dưới 53 tuổi, cái tuổi vẫn còn có thể sinh đẻ được. Cho nên viết như các tác giả vừa nêu là chưa hết lý lẽ. Người thứ hai là Nguyễn Quân trong cuốn Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã căn cứ vào câu “Bà (tức Nhữ Thị Thục, mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm) vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất” trong bài Phả ký của Vũ Khâm Lân “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” (Phả ký về Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt) mà khẳng định mẹ cụ Trạng trình không phải là mẹ cụ Trạng Bùng (9). Ở đây, Nguyễn Quân, Trần Lê Sáng và một số nhà nghiên cứu khác, trong số đó có cả học giả nước ngoài như Trần Ích Nguyên ở Đại học Trung Chính, Đài Bắc, trong sách Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục tỷ giảo so sánh (10) v.v.. đều đã nhầm bài văn này là của Thuần Phủ Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký. Bởi khi viết sách Công dư tiệp ký vào năm 1755 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, đời vua Lê Hiển Tông (theo lời Tựa), thì cụ Vũ Phương Đề đã chép lại toàn văn bài Phả ký trên của Vũ Khâm Lân vào sách của ông.Vấn đề này, thiển ý của chúng tôi như sau:Một là, cũng như Nguyễn Quân, chúng tôi căn cứ vào bản Phả ký trên của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân cẩn thuật vào mùa đông năm Quý Hợi (1743) có chép trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục, mà sau đó quan Thự Tham chính xứ Sơn Nam là Tiến sĩ Vũ Phương Đề đã sao chép lại nguyên văn bài ký trên vào sách Công dư tiệp ký (Ghi nhanh lúc rỗi việc quan) của ông, để khẳng định rằng, bà Nhữ Thị Thục thân mẫu cụ Trạng Trình sau khi giận chồng không biết dạy con, bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, ít lâu sau thì mất. Trong khi đó, để phản bác lại ý của Nguyễn Quân và của Bùi Duy Tân, ông Trần Lê Sáng có lập luận rằng: “Còn danh hiệu Từ Thục phu nhân của mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì chúng ta cũng đừng vội tin của bà nào, bởi lẽ thân phụ của Nguyễn không chỉ có một bà vợ” (11). Nếu lập luận như thế thì thử hỏi ông Trần Lê Sáng nghĩ gì khi chính cụ Vũ Khâm Lân đã khẳng định trong Phả ký là “Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân”? Cũng nên lưu ý, đây chỉ là hàm vinh phong của vua nhà Mạc khi cụ Trạng Trình ra làm quan cho triều đại này, chứ không có thực quyền, hơn nữa lúc ấy, các cụ đã quy Tiên rồi. Trong bài ký, Vũ Khâm Lân còn cho biết: Ông nội được tập phong là Thiếu bảo Tư Quận công; bà nội là Chinh phu nhân Phạm thị Trinh Huệ; thân sinh được tặng phong Thái bảo Nghiêm Quận công; thân mẫu họ Nhữ được phong là Từ Thục phu nhân (12).Hai là, cũng trong bài ký trên, cụ Ôn Đình hầu còn cho biết vì bà “vốn người thông minh, học rộng văn hay, lại tinh giỏi cả môn tướng số”; “có chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã chờ ngót 20 năm trời, khi gặp ông Văn Định có tướng sinh quý tử, bà mới chịu lấy” (trong bản Phả ký này, Vũ Khâm Lân còn ghi lại chi tiết bà gặp Mạc Đăng Dung ở bến đò Hàn thuộc dòng Tuyết Giang, mà bà đã than tiếc “Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì?” (13), cũng đủ rõ thêm cái chí muốn lớn lao của bà). GS. Bùi Văn Nguyên trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII), xuất bản 1962 và Văn học Việt Nam thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII, xuất bản 1989 đã căn cứ vào lời trên mà cho rằng “cuối cùng bà lấy ông Văn Định, khi bà đã quá lứa, xấp xỉ tuổi 30. Mãi cho đến khi sinh ra Văn Đạt, bà vẫn ôm ấp hoài bão không tưởng của mình, cuối cùng bỏ chồng, bỏ con, đi lang thang, rồi trở về quê hương cha mẹ đẻ ở An Tử thượng”. Nhiều tài liệu cũ, trong đó có nhiều bộ văn học sử đều ghi rằng “cụ Nguyễn Văn Định nhờ nổi tiếng hay chữ, giỏi thơ văn nên quan Thương thư Nhữ Văn Lan gọi đến gã con gái luống tuổi cho” (14).Chúng tôi cũng đồng ý với suy luận của GS. Bùi Văn Nguyên về tuổi tác của bà Thục lúc lấy chồng. Đồng thời xin bổ sung thêm, người xưa đã có tục tảo hôn và quan niệm rằng con gái 13, con trai 16 tuổi là có thể dựng vợ gã chồng, vì đủ trưởng thành về sinh lý (nữ thập tam, nam thập lục). Con gái bấy giờ mà luống tuổi có thể là ngoài 20 hay hơn nữa. Thân mẫu cụNguyễn Bỉnh Khiêm “đã chờ ngót 20 năm trời”, như vậy, nếu làm phép tính giản đơn là: 13,14, hay 15 cộng với ngót 20 sẽ là 30 hoặc trên 30 tuổi. Bà ở với ông Văn Định, đến khi Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh Khiêm) 4 tuổi thì bỏ chồng con ra đi. Vậy khi ấy ít ra lúc này bà cũng đã khoảng 35. Hãy chưa nói chuyện bà bỏ về nhà cha mẹ đẻ, mà nói việc có thể bà đi lang thang lên mạn Từ Sơn rồi gặp nho sinh họ Phùng, thấy người này phúc hậu, có tướng sinh quý tử, bà thổ lộ nỗi niềm rồi hai người gá nghĩa vợ chồng, đưa về Sơn Tây như truyện về Mai Lĩnh hầu (tước của Phùng Khắc Khoan lúc đi sứ lần thứ nhất trở về được vua Lê chúa Trịnh ban cho) đã chép mà ở trên có lược dịch, thì lúc này bà đã 35 hay ngoài 35 tuổi rồi. Giả dụ như khi bà lấy ông Định và lúc sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm thì bà đã 30, và khi bà lấy ông nho sinh họ Phùng để hơn ba chục năm sau sinh ra Phùng Khắc Khoan thì lúc lấy ông nho sinh họ Phùng, ít ra bà cũng đã 35 hay ngoài 35. Mà theo sử sách chính thống ghi Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528, có nghĩa là cụ Trạng Trình lớn hơn cụ Trạng Bùng 37 tuổi. Chẳng lẽ khi sinh ra Phùng Khắc Khoan, bà Nhữ Thị Thục đã ngoài 70 tuổi? Còn nếu cho luống tuổi, qua lứa là ngoài 20 đến 25 chẳng hạn, rồi bà mới lấy chồng và sinh con, thì khi bà sinh ra Phùng Khắc Khoan cũng đã 60 hay ngoài 60 tuổi. Mấy năm nay, chúng tôi hay vẩn vơ tính toán lẩm cẩm như thế. Với cái tuổi này, thể trạng người phụ nữ Việt của chúng ta còn có khả năng sinh đẻ được không? Cho dù có thuốc tiên đi nữa! Vì thế, căn cứ vào bản Phả ký của Vũ Khâm Lân, cùng với suy tính trên, chúng tôi hoàn toàn không đồng ý, không đồng tình với giai thoại, truyền thuyết dân gian đã lưu truyền và người xưa đã viết lại, khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêmvà Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác cha mà những tài liệu xưa nhất hiện được biết là phả ký họ Phùng ở Phùng Xá và truyện Mai Lĩnh hầu thành mẫu chí truyện chép trong sách Danh gia thi truyện tập. Thiết nghĩ, cụ Vũ Khâm Lân thật có lý khi trong bài Phả ký về Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh Khiêm), đã viết rằng bà Thục giận chồng, bỏ về nhà cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất, mà không đá động gì đến chuyện bà Thục “bước đi bước nữa” với ông nho sinh họ Phùng ở Thạch Thất để sinh ra cụ Phùng Khắc Khoan, một nhân vật lỗi lạc đầu thời Lê trung hưng. Và có thể là hồi ấy cụ cũng đã có nghe lời truyền về mối quan hệ đó trong dân gian, chứ không phải là cụ né tránh việc này. Bởi bài Phả ký được cụ Vũ Khâm Lân hoàn thành vào cuối năm Quý Hợi 1743, tức sau khi cụ Trạng Trình đã quy Tiên đúng 158 năm; và cụ Trạng Bùng đã tạ thế đúng 130 năm. Trong bài Phả ký, tác giả có nói đến tận nhà, hỏi người cháu 7 đời của cụ Trạng Trình là Nguyễn Thì Đương để xem tộc phả, nhưng ông này lại đưa ra những trang giấy rách nát, chỉ biên danh tính tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác. Cho nên họ Vũ đành phải “thâu thái ý kiến mọi người rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe trong lúc ngày thường để viết nên bài ký” (15). Như vậy, tuy không viết ra cụ thể nhưng cụ Ôn Đình hầu ngày ấy cũng không tin là giữa cụ Trạng Trình và cụ Trạng Bùng có mối quan hệ anh em cùng mẹ khác cha ! Kết luận vấn đề này của chúng tôi là quan hệ giữa cụ Trạng Trình với cụ Trạng Bùng chỉ là quan hệ Sư - Đệ, chứ không phải là anh em cùng mẹ khác cha.
View more most viewed threads:
Tìm hiểu bài thơ " Nhàn" của Nguyễn Bỉnh...
Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm-Cuộc đời và sự nghiệp thơ...
Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
Về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nguyễn...
Like
Trả lời Trả Lời Với Trích Dẫn Thanks CommentBlog this Post
12-05-2009, 11:29 AM#2
Dĩ Vãng 10
Thành viên
Join Date
May 2009
Bài gởi
1,555
Thanks
0
Thanked 713 Times in 438 Posts
Vấn đề thứ hai: CÓ PHẢI NGUYỄN DỮ LÀ HỌC TRÒ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM ? 1. Từ thế kỷ XIX về trước đã có nhiều sách xưa khẳng định vấn đề này như Đại Việt sử loại tiệp lục (có bài Phả ký đã dẫn) của Vũ Khâm Lân; Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề; Công dư tiệp ký tục biên mà có nhà nghiên cứu nghi vấn tác phẩm này chính là Cát Xuyên tiệp bút củaTrần Tiến?; Tục Công dư tiệp ký của Trần Trợ (Trần Quý Nha) là con trai của Trần Tiến; Toàn Việt thi lục và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án vàPhạm Đình Hổ; Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích; rồi Lịch triều hiến chương loại chí - Mục Nhân vật chí và Văn tịch chí của Phan Huy Chú (16) v.v.. Tất cả đều ghi “Nguyễn Dữ cùng với Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thì Cử, Đinh Thì Trung, Nguyễn Quyện … là những học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Sang thế kỷ XX đến nay, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu; Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, (thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII); Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (thế kỷ X - thế kỷ XVII); Bùi Văn Nguyên với Lịch sử văn học Việt Nam tập 2 và Văn học Việt Nam thế kỷ X - giữa thế kỷ XVIII; Đinh Gia Khánh với Văn học cổ Việt Nam và Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII; Thúc Ngọc Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 1 và Lược truyện các tác gia Việt Nam; Lê Trí Viễn (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam; Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Truyện ngắn; Nguyễn Nam, Phiên dịch học lịch sử - văn hoá Trường hợp Truyền kỳ mạn lục (công trình này có dịch và đăng lại bài viết của M. Tkachov “Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương”); Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học, Bộ mới, các mục từ viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm, về Nguyễn Dữ, về Phùng Khắc Khoan; Trần Lê Sáng, Phùng Khắc Khoan cuộc đời – thơ văn; Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1; Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại ViệtNam (thế kỷ X - cuối thế kỷ XIX) (17). Đó là chưa kể những bài viết trên các báo, tạp chí, các chuyên khảo v.v.. khi đề cập đến Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Dữ cũng đều cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy học của Nguyễn Dữ; và Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục của các học giả ở nước ngoài như ở Nhật bản có Xuyên Bản Bang Vệ “Truyền kỳ mạn lục tiểu khảo”, Nghệ văn nghiên cứu, số 27 (18), tr. 379; ở Trung quốc có La Hoài “Nho học tại Việt Nam”; Trịnh Vĩnh Thường “Hán văn văn học tại An Nam đích hưng thệ”, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán, thiên 4, chương 3 (19); Trần Ích Nguyên “Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục tỷ giảo so sánh”, chương 2, tiết 2, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990 (20); ở Nga có M. Tkachov, Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương (21) v.v.. Tất cả đều dựa vào tư liệu cổ ở ta mà tin theo và viết rằng: Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.Từ nửa đầu thế kỷ XVIII đến nay, những người đời sau đều căn cứ vào bản “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” của Vũ Khâm Lân và Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề là những tài liệu xưa nhất nói về mối quan hệ này mà cho rằng Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm và là bạn học của Phùng Khắc Khoan. Trong bài Phả ký, Vũ Khâm Lân đã viết: “Nói về môn sinh của ông sự thực không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng những người đã có tiếng tăm lừng lẫy thì có những ông như Phùng Khắc Khoan, như Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ và Trường Thì Cử…, đều đã nhờ ơn truyền thụ, số học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là những bậc danh thần thời trung hưng” (22).Thực tế có phải như vậy không? Đứng trước một khối tư liệu có thể nói là lớn và nhiều như trên (mà chúng tôi liệt kê chưa đủ hết) để giải đáp một vấn đề rất nhỏ như tiêu đề đã nêu, thì có nên không? Việc chẻ sợi tóc ra làm tư có đáng hay không? Chúng tôi băn khoăn mãi, nhưng cuối cùng đành phải làm cái việc thật dại dột là đặt lại nghi vấn về vấn đề này. Mặc dù chúng tôi biết rằng mình là hậu sinh lại học thuật, kiến văn nông cạn, mà những tư liệu trên đều là của những danh sĩ lỗi lạc thời phong kiến, hay của những nhà nghiên cứu bậc thầy, của những vị giáo sư lỗi lạc thời hiện đại đã viết ra, thì làm sao mà phản biện cho được! Đức Khổng Tử từng căn dặn đồ đệ: “Tận tín thư bất như vô thư” (Hoàn toàn tin ở sách, thà không có sách còn hơn). Có nghi vấn này là nhờ bắt nguồn từ lời dạy trên của bậc Vạn thế sư biểu.Chúng tôi thiển nghĩ, muốn đặt lại vấn đề đã được khẳng định và sàng lọc qua mấy trăm năm như trên, có lẽ cần trở lại tiểu sử lai lịch của hai cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ. Về cuộc đời và tiểu sử cụ Trạng Trình thì đã rõ. Còn cuộc đời và tiểu sử Nguyễn Dữ hiện vẫn còn là khoảng trống, chưa được lấp đầy vì tư liệu xưa quá ít ỏi, chỉ có dăm ba dòng. 2. Trước hết, cần xác định lại năm sinh của Nguyễn Dữ.Trên cơ sở tư liệu hiện còn, người đọc hôm nay chưa biết gì thêm về Nguyễn Dữ ngoài những thông tin mà các cụ xưa như Hà Thiện Hán trong Lời tựa sách Truyền kỳ mạn lục; Vũ Khâm Lân trong bài Phả ký ở sách Đại Việt sử loại tiệp lục; rồi Vũ Phương Đề, Trần Tiến, Trần Trợ đã viết tiếp trong sách của các vị. Đến Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục và Toàn Việt thi lục; Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển; Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí v.v.. cũng có nhắc đến tiểu sử Nguyễn Dữ dù chỉ rất sơ lược. Lời tựa Truyền kỳ mạn lục của Đại An Hà Thiện Hán viết năm 1547 là tư liệu sớm nhất có ghi chép về Nguyễn Dữ như sau: “Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi thi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội trúng Tam trường, từng được bổ Tri huyện Thanh Tuyền (Toàn). Mới được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý” (23). Lời Tựa trên của Hà Thiện Hán đều có chép trong bản Cựu biên năm 1712 và bản Tân biên năm 1763, năm 1774, tuy còn sơ lược nhưng rất đáng tin cậy, bởi nó được viết lúc Nguyễn Dữ còn sống, và tác giả bài tựa lại là người sống đồng thời vớiNguyễn Dữ. Còn đây là thông tin của cụ Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục: “Ông người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, Hải Dương. Cha là Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496), làm quan Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Dữ lúc còn bé thông minh lanh lợi, xem rộng, nhớ lâu, văn chương có thể nối dõi được gia phong, thi đỗ Hương cống, thi Hội nhiều khoa trúng kỳ đệ tam, được bổ Tri huyện Thanh Tuyền, làm quan mới được một năm, liền lấy cớ là xa nhà, xin từ chức về nhà hầu cha mẹ. Sau vì nguỵ Mạc cướp ngôi vua, ông thề không ra làm quan, sống ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến thành thị. Về phần trứ tác có Truyền kỳ mạn lục 4 quyển, lời lẽ thanh tao tươi đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen” (24). Cần lưu ý là hai thông tin cổ xưa trên của hai bậc tiên Nho danh tiếng không hề nói đến quan hệ thầy – trò, hay mối quan hệ thiết thân nào khác giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ.Xin nêu lại ở đây ý phỏng đoán về năm sinh Nguyễn Dữ của nhà nghiên cứu người Nga M. Tkachov trong bài viết giới thiệu về Truyền kỳ mạn lục ở nước Nga, sau khi biện giải và thiết lập sơ đồ, M. Tkachov đã đi đến ức đoán: “Nguyễn Dữ sinh khoảng 1496” (25). Đây cũng là năm thân phụ ông là Tường Phiêu (Phiếu) đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp, lúc này ông Phiêu ở độ tuổi khoảng ngoài 20 đến 30, vì căn cứ vào sách Đăng khoa lục và sách Lược truyện các tác gia Việt Nam của cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp mà biết. Còn việc Nguyễn Dữ thi đỗ Hương tiến (đúng ra lúc này phải là Hương cống), thi Hội nhiều lần trúng tam trường, có thể có ra làm quan Tri huyện được một năm và từ quan trước hoặc trong năm 1527, lúc nhà Mạc tiếm ngôi vua Lê. Lúc này, có thể Nguyễn Dữ đã ở tuổi ngoài 30 (vì thi Hội nhiều lần, mà triều Lê theo lệ cứ 3 năm mở một khoa, năm trước thi Hương, năm sau thi hội, thi Đình). Những ngày ẩn cư, cụ đã viết và hoàn thành bộ Truyền kỳ mạn lục gồm 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện, cộng 20 truyện (26) từ năm 1527 và trước năm 1547 là năm mà Hà Thiện Hán viết lời tựa, sau đó Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi đã dịch Nôm. Ức đoán suy luận về năm sinh Nguyễn Dữ của nhà nghiên cứu M. Tkachov, theo chúng tôi là có lý. Nếu quả đúng như thế thì Nguyễn Dữ chỉ nhỏ hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm khoảng 5 tuổi. Chúng tôi còn nghĩ rằng, cũng có thể Nguyễn Dữ được sinh ra trước đó vài năm, tức trước khi cụ Nguyễn Tường Phiêu thi đỗ Tiến sĩ dưới đời Hồng Đức Lê Thánh Tông (1496). Vì ngày xưa, các cụ thường lập gia đình sớm, nhiều người có con khi chưa đến 20 tuổi, mà gia đình Nguyễn Dữ là danh gia vọng tộc. Ông còn là con trai cả của cụ Thượng thư Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu (Phiếu) đời Lê sơ.3. Thứ đến, thử so sánh thời điểm hiển vinh, thi đỗ và làm quan của Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ở đây, chúng tôi xin lưu ý thêm, Nguyễn Dữ đỗ Hương tiến (đúng ra phải là Hương cống) và Thi Hội nhiều lần, đã trúng Tam trường dưới thời Lê sơ, cụ thể lúc này là các đời Uy Mục (1505-1509), Tương Dực (1510-1516), Chiêu Tông (1516-1522), Cung Hoàng (1522-1527); có thể ông đã từng làm quan một năm và đã từ quan trước hoặc trong năm 1527 là năm Mạc Đăng Dung tiếm ngôi. Điều đó có nghĩa là Nguyễn Dữ hiển đạt, thành danh trước Nguyễn Bỉnh Khiêm ít ra cũng đến 10 hay hơn 10 năm, và lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là một nho sĩ bình dân, nghèo túng (thơ chữ Hán của cụ có nói nhiều về cảnh bần hàn này). Vì tình thế bức bách, Bạch Vân tiên sinh mãi đến năm 44 tuổi mới đi thi và đỗ đầu kỳ thi Hương và năm sau, lúc 45 tuổi thi Hội rồi thi Đình, đỗ Trạng nguyên năm 1535, bắt đầu nổi danh. Từ đó, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới xuất chính giúp nhà Mạc. Trong khi đó, tại thời điểm này thì Nguyễn Dữ từ lâu đã là một ẩn sĩ nơi quê nhà hoặc nơi núi rừng Thanh Hoá, đang viết dở hoặc đã hoàn thành bộ thiên cổ kỳ bút Truyền kỳ mạn lục! Nếu như các thư tịch cũ cho rằng Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng với Phùng Khắc Khoan, Đinh Thì Trung, Trương Thì Cử, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyện…thì chúng tôi nghĩ là chưa hẳn đúng như thế. Điều chắc chắn là các vị trên là những học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn Nguyễn Dữ thì không. Thư tịch xưa cho biết, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi dâng sớ xin chém đầu 18 lộng thần, trong đó có Phạm Quỳnh là sui gia và Phạm Dao là con rễ, nhưng không được nhà vua chấp nhận nên từ quan về quê dựng am Bạch Vân dạy học, mở quán Trung Tân để chữa bệnh, cứu giúp người khốn khó cơ nhỡ. Chuyện này cụ thực hiện từ năm 1543 về sau. Nhà nghiên cứu Tkachov, trong bài viết của ông, có đưa ra thông tin: Trong số những môn đồ thành đạt hiển vinh của danh sư Nguyễn Bỉnh Khiêm, có lẽ có 2 người ứng thí năm 1538, tức là 5 năm trước khi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan. Thế có nghĩa là ông dạy học trước năm 1538 (27). Ở đây, trong bài viết của mình, Tkachov dù có nêu ra một số chứng lý nhưng rồi ông vẫn tin Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi nghĩ, giả sử, nếu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi đỗ đạt và làm quan cho nhà Mạc (trước 1535) thì đã từng là một thầy đồ nghèo có mở trường dạy học ở quê, thì chưa chắc cụ Thượng thư đã cho Nguyễn Dữ theo học. Bởi lẽ, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân trong gia đình nho sĩ bình dân nghèo. Ông cụ thân sinh là Nguyễn Văn Định tuy học hành thông minh hay chữ nhưng vẫn là bạch diện thư sinh, may mà cụ Thượng thư Nhữ Văn Lan thương tình gã con gái đã luống tuổi cho, thì lúc này về lý lịch nhân thân của gia đình ông có thay đổi đôi chút. Trong khi đó, cụ Nguyễn Dữ lại xuất thân là thế gia vọng tộc, khoa hoạn, thân phụ ông từng đỗ Tiến sĩ đời Hồng Đức vào năm 1596, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ. Và chắc chắn rằng với nhiệm vụ và thân thế này, cụ quan Thượng thư có nhiều bạn bè đỗ đạt, học rộng tài cao, vì lý do nào đó mà họ không làm quan hoặc từ quan về nhà dạy học, lẽ nào cụ Thượng không cho con trai cưng của mình theo học những vị này mà lại cho theo học thầy đồ Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa qua kinh nghiệm trường thi, chưa nổi tiếng và cũng chưa đỗ đạt học vị gì vào lúc này ? Đây là điều mà nhiều năm nay chúng tôi thường thắc mắc. Hơn nữa, căn cứ vào những gì cụ Hà Thiện Hán trong lời Tựa Truyền kỳ mạn lục và cụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục thì có thể suy luận thêm là Nguyễn Dữ có thể đỗ Hương cống trước năm 1520 hay trong năm 1520, chứ khó có thể là sau năm này, vì sau đó cụ còn dự thi Hội nhiều khoa (cứ cho nhiều tức là thi 2 khoa, thì cũng mất đến 6 năm !) mới trúng Tam trường, ra làm quan một năm rồi từ quan trước năm 1527 hoặc trong năm 1527. Tất cả đều diễn ra vào thời Hậu Lê sơ, trước khi họ Mạc cướp ngôi. Như vậy Nguyễn Dữ đã hiển vinh đỗ đạt (tuy chưa phải là đại khoa) và làm quan trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đến hơn 10 năm (Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ thi Hương năm 1534, đỗ thi Hội, thi Đình năm 1535 dưới đời Mạc). Dĩ nhiên, chúng tôi rất biết chuyện thi cử dưới thời phong kiến ở ta rất nhiêu khê và rắc rối nhưng có điều là không kể tuổi tác, sĩ tử từ 14, 15 trở lên, nếu đủ học lực và trình độ, trúng tuyển kỳ khảo hạch ở địa phương thì có đủ điều kiện dự thi Hương; đỗ kỳ thi Hương thì năm sau được vào thi Hội; và trúng cách thi Hội mới vào thi Đình (Điện thí). Nhân đây, chúng tôi xin đính chính lại một chỗ nhầm lẫn của nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng trong bài viết Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục (28), và thắc mắc của Trần Ích Nguyên về học vị của Nguyễn Dữ trong Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục tỷ giảo so sánh (29). Trong bài viết rất công phu và có vài ý mới của Nguyễn Phạm Hùng mà chúng tôi rất thích thú, nhưng tiếc là ở trang 126, mục 3 Những vấn đề đặt ra từ quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài, Nguyễn Phạm Hùng ghi: “Ông đỗ Hương tiến (Cử nhân), thi Hội đỗ Tam trường (Tiến sĩ)…” (xin được in đậm để nhấn mạnh). Chúng tôi nghĩ, học vị đỗ đạt kỳ thi Hương vào đời Trần - Hồ là Hương tiến, người đỗ đầu là Hương nguyên; đời Hậu Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng và triều Nguyễn Gia Long là Hương cống (điểm cao) và Sinh đồ (điểm thấp), đời Nguyễn Minh Mệnh trở đi là Cử nhân (điểm cao) và Tú tài (điểm thấp). Còn thi Hội từ thời Hậu Lê sơ trở về sau không xếp loại, mà chỉ lấy Chánh trúng cách và Thứ (Phó) trúng cách, coi như đó là điều kiện để vào kỳ thi Đình (Điện thí) làm bài Văn sách Đình đối để nhà vua đích thân lấy đỗ xếp loại Tiến sĩ theo ba bảng: Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa); Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (gọi là Hoàng giáp); Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, gọi chung là Tiến sĩ. Đó là thi Đình. Còn kỳ thi Hội, các Cống sĩ phải qua bốn trường. Nguyễn Dữ trong mấy lần thi chỉ đỗ được Tam trường (tức đậu trường 3), rớt Tứ trường (trường bốn) thì làm sao đủ điều kiện để vào dự thi Đình mà lấy học vị Tiến sĩ ? Dĩ nhiên, cũng có vài kỳ thi, do điều kiện nào đó mà triều đình chỉ cho thi Hội rồi xếp loại Tiến sĩ luôn, nhưng trường hợp này rất ít. Anh Nguyễn Phạm Hùng nhầm chỗ này, tuy vậy, việc ấy không làm giảm đi chất lượng bài nghiên cứu của anh. Cũng vậy, ở trang này, đoạn dưới, anh có dẫn lại ý kiến thắc mắc của Trần Ích Nguyên trong công trình so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục ở trang 49, 50 của sách. Do ông Trần và anh Hùng (người thuật lại) chưa hiểu đúng danh hiệu Tam trường nên đã cố công đi tìm tên Nguyễn Dữ trong các sách viết về khoa bảng như Đại Việt lịch triều Đăng khoa lục; Các nhà khoa bảng Việt Nam v.v..hay sách nào đi nữa kể cả Khoa mục chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là sách chép tương đối đầy đủ nhất trong các sách ghi về khoa bảng, thì làm gì có và cũng không bao giờ có tên Nguyễn Dữ đỗ đại khoa ! Bởi ở các công trình này, xưa cũng như nay, nhà sưu tầm nghiên cứu chỉ chép tên những người đỗ đại khoa (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ nếu là đời Lê trung hưng về trước đến Hậu Lê sơ Lê; còn đời Nguyễn thì có thêm học vị Phó bảng nữa). Như trên có nói, kỳ thi Hội chỉ xếp Chánh và Thứ (phó) trúng cách thôi, chứ chưa xếp học vị. Nguyễn Dữ chỉ trúng Tam trường, chưa qua được Tứ trường nên chưa Trúng cách Hội thí. Ngày trước, thi Hương, thi Hội thường phải qua bốn kỳ (bốn trường); trúng trường nhất mới vào trường nhì; trúng trường nhì mới vào trường ba v.v.. cứ thế tiếp tục. Tên gọi Nhất trường, Nhị trường, Tam trường …là để chỉ những sĩ tử đã thi trúng các trường ấy. Còn nếu trúng cả 4 trường thì khảo quan cộng điểm theo ưu, bình, bình thứ, thứ, thứ thứ mà xếp loại học vị thi đỗ; còn liệt là bị hỏng thi. Vì hiểu nhầm như thế mà bài viết đi đến kết luận là “Vì thế việc chép Nguyễn Dữtrúng Tam trường là không chính xác” (30). Chúng tôi nghĩ, tác giả bài tạp chí đã vội vàng rút ra kết luận không chính xác thì có, chứ các cụ Hà Thiện Hán, Vũ Khâm Lân, Vũ Phương Đề, Lê Quý Đôn đã chép đúng và rất chính xác đấy (vì chúng tôi đã kiểm tra lại các trang 49, 50 của sách, ông Trần Ích Nguyên không viết câu kết luận trên). Còn thắc mắc của Trần Ích Nguyên về địa danh huyện Thanh Tuyền không biết chính xác ở đâu, trang 50 của sách, thì xin thưa, huyện này nay chính là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú. 4. Như vậy, theo chúng tôi, thông tin Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là lời các cụ tiên Nho theo truyền thuyết dân gian mà ghi lại chứ các cụ không kiểm chứng, cũng có thể do các cụ nhầm, hoặc vì quá yêu mến và ngưỡng vọng, muốn tôn vinh nhà tư tưởng - hiền triết, nhà thơ đạo lý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà gán cho? Từ đó, các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ở thế kỷ XX và mấy năm đầu thế kỷ XXI lại y cứ mà viết theo. Thiết nghĩ việc này chúng ta nên tỉnh táo, nếu không thì vẫn còn sẽ tiếp tục truyền đạt lại (giảng hoặc viết) những truyền thuyết, giai thoại dân gian, thiếu tính khoa học cho các thế hệ tương lai.Trên cơ sở đó, chúng tôi đi đến kết luận Nguyễn Dữ là người sống cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, lớn hơn hay bằng hoặc nhỏ hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm vài ba tuổi, lại hiển vinh đỗ đạt trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đến hơn 10 năm. Như vậy, ông sinh khoảng trong mười năm cuối thế kỷ XV, và mất tại nơi ẩn cư Thanh Hoá khoảng giữa thế kỷ XVI, xuất thân trong gia đình có truyền thống văn chương khoa cử, thế gia vọng tộc, nên ông không thể là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm như các cụ ngày xưa và các học giả thế kỷ XX đã viết.
s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đôi điều cần bàn lại về mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Dữ - Phùng Khắc Khoan.docx