Đề dẫn hội thảo Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam

4. Kết luận Nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi Phần lớn giá trị xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu khác.221 những giải pháp thiết thực và đồng bộ để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân, gồm cả cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở những nhận diện về tiềm năng tài ch nh còn rất lớn trong dân cư và những “nút thắt” cơ ản trong nền kinh tế giai đoạn 2010-2014, căn cứ vào những điểm còn hạn chế trong cơ chế, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư tư nhân trong thời gian qua, chúng ta có thể chia sẻ về những giải pháp cơ ản góp phần hướng quỹ đầu tư của tư nhân đồng hành với quỹ đầu tư ngày càng eo hẹp hơn của nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu và cải thiện hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, ít nhất trong giai đoạn 2016-2020. Điều cần được nhấn mạnh trong giai đoanh này là lựa chọn và sử dụng chính sách tài khóa như là công cụ chủ đạo. Theo đó, các giải pháp như tăng nợ công thông qua phát hành trái phiếu để có thể gia tăng đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân cũng như k ch cầu toàn bộ nền kinh tế có thể được coi là giải pháp cơ ản đầu tiên và kế tiếp sẽ là những ưu đ i về thuế và tăng lương để tăng quy mô quỹ đầu tư tư nhân. Song song và phối hợp ch t chẽ với sự vận hành chính sách tài khóa, những biện pháp cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách lành mạnh cho khu vực tư nhân cũng ch nh là điều kiện cần và đủ để đầu tư tư nhân tham gia t ch cực hơn vào sự phát triển và ổn nền kinh tế. Do những hạn chế về thời gian và sự thiếu đầy đủ của số liệu thống kê, những luận điểm trong bài viết chắc chắn để ngỏ nhiều câu hỏi. Chúng tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn nhận được những ý kiến chia sẻ và hoàn thiện thêm cho bài viết.

pdf223 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 156 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề dẫn hội thảo Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goài với mức lãi suất thấp hơn. Nh m góp phần khắc phục những bất cập nêu trên, bài viết này trước hết sẽ tập trung phân tích thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân, sau đó dựa trên các dự báo và định hướng cơ bản để đề xuất một số giải pháp khơi thông nguồn vốn tư nhân như là sự phát huy tối đa “nội lực sẵn có” để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới. Key words: Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư tư nhân, hợp tác công – tư, ch nh sách tài khóa, trái phiếu Chính phủ. 1. Đặt vấn đề Đảm bảo nguồn vốn cho phát triển và ổn định của nền kinh tế - xã hội luôn là điều thách thách với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Xét trên cả lý thuyết và thực tế, 100 Theo tính toán của nhóm tác giả tổng hợp từ www.mof.gov.vn, www.molisa.gov.vn, www.gso.gov.vn 204 tổng đầu tư vào nền kinh tế (I) chỉ có thể được hình thành từ nguồn vốn của Nhà nước (Ig) và nguồn vốn của nhân (Ip). Tuy nhiên, ở các nước kinh tế thị trường, vốn đầu tư của khu vực tư nhân được coi là nguồn lực quan trọng nhất bởi lẽ đầu tư tư nhân luôn chiếm tỷ trọng tuyệt đối và đầu tư của nhà nước chủ yếu được sử dụng như là công cụ điều tiết về cơ cấu và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điển hình như các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Singapore, v.v nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu dựa vào nguồn vốn tư nhân, quyết định và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như sự phát triển bền vững về xã hội. Tại Singapore, quốc đảo nhỏ bé ở khu vực Đông Nam Á, tổng nguồn vốn đầu tư của tư nhân hàng năm cũng đ lên đến hàng trăm tỷ USD. M t khác, đầu tư của tư nhân luôn được đánh giá về chất lượng và tính hiệu quả rất cao. Thực tế ở hầu khắp các nước cho thấy rằng các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội như ý tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm, v.v..., do tư nhân đầu tư và quản lý luôn được đánh giá tốt hơn về chất lượng cũng như giản tiện về thủ tục hành chính so với các cơ sở tương tự được đầu tư ằng nguồn vốn và do Nhà nước vận hành. Ở Việt Nam, số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, sự tham gia nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quy mô ngày càng lớn và tỷ trọng lớn nhất kể từ khi thực hiện Đổi mới (1986) đến nay, nhất là giai đoạn 2010-2014. Điều này không chỉ phản ánh nhu cầu đầu tư tìm kiếm lợi nhuận mà còn phản ánh sự sẵn sàng “chung tay hợp tác” của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội vốn là “lĩnh vực độc quyền” của Nhà nước, góp phần giảm tải gánh n ng cho Ngân sách Nhà nước (NSNN). M t khác, thu nhập và đời sống của người dân đ được cải thiện đáng kể trong thời gian qua, do vậy công chúng sẵn sàng tham gia đầu tư để có cơ hội thu nhập cao hơn nữa, đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận chi phí cao hơn để được tiêu dùng và tận hưởng những dịch vụ tiện ích và có chất lượng tốt hơn. Trong giai đoạn sắp tới, để đảm ảo đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng ở mức 7,5%-8% như trong giai đoạn 1990-2001, trong điều kiện chỉ số ICOR của Việt Nam được cho là đang ở mức 5.5101, chúng ta cần lượng vốn đầu tư tăng thêm tối thiểu từ 41,25 đến 44% GDP, tương đương 75,9 đến 80,2 tỷ USD mỗi năm t nh theo GDP năm 2014. Giả thiết thêm rằng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam cũng được ổn định và ở mức cao nhất giai đoạn năm 2009 - 2014 là 11,5 USD/năm thì nhu cầu về lượng vốn đầu tư tăng thêm trong nước vẫn cần đến t nhất ở mức từ 64,8 đến 69,1 tỷ USD mỗi năm. Trong khi NSNN đang khó khăn, tỷ lệ thu NSNN so với GDP đ giảm mạnh từ mức khoảng 26% GDP năm 2011 xuống còn 20% GDP năm 2014 và chi NSNN ngày càng tăng dẫn đến mức thâm hụt 101 Trên thực tế, chỉ số ICOR luôn có xu hướng tăng theo quy luật lợi ích cận biên giảm dần. 205 giai đoạn năm 2007 – 2014 ước khoảng 5,4% GDP102; năm 2015, các chuyên gia nhận định khả năng thâm hụt NSNN sẽ tăng thêm 45 - 64 nghìn tỷ VND, tương ứng tỷ lệ thâm hụt từ 6,0 - 6,5% GDP103. Với tình hình về NSNN như vậy, rõ ràng quy mô đầu tư của Nhà nước sẽ rất hạn chế. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân để thúc đẩy sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Trên cơ sở nhận diện về tình hình thực hiện thu hút nguồn vốn tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua, ài viết tập sẽ trung vào tìm kiếm và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm đáp ứng phát triển kinh tế - x hội ở Việt Nam trong thời gian tới. 2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014 Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân ở Việt Nam bao gồm cả ở trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn trong nước lại có thể phân chia thành nguồn vốn của các cá nhân, hộ gia đình, ch nh là khoản chênh lệch của thu nhập và tiêu dùng hiện tại và lợi nhuận không chia của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn tư nhân từ nước ngoài vào sẽ bao gồm các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp, và nguồn kiều hối. Chúng ta sẽ tìm hiểu về tình hình thu hút các nguồn lực này trong giai đoạn 2010-2014. 2.1. Nguồn lực tài chính trong dân cư - Tiềm năng c n rất lớn Đối với nguồn vốn của dân cư chủ yếu thông qua các phương thức: huy động tiền gửi tiết kiệm của các (ngân hàng thương mại) NHTM, đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu thông qua hoạt động của thị trường chứng khoán. Ở Việt Nam, huy động vốn từ dân cư thông qua tiền gửi tiết kiệm tại các NHTM vẫn là phương thức phổ biến và quan trọng nhất, đồng thời cũng là kênh hình thành nguồn vốn quan trọng cho đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ năm 2006 - 2010, khi mức lãi suất huy động tiết kiệm ở mức cao, có thời điểm đến 18%/năm, các NHTM đ huy động được một lượng tiền gửi tiết kiệm rất lớn. Tuy nhiên, giai đoạn năm 2011 - 2013, m t bằng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm bắt đầu giảm, đ c biệt từ đầu năm 2014, mức cắt giảm từ 0,5 - 1,5%/năm so với cuối năm 2013. Tại thời điểm cuối tháng 9/2014, lãi suất huy động phổ biến ở mức 5 - 6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng và 6 - 7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng, kỳ hạn trên 12 tháng chỉ còn 7,3 - 7,8%/năm. M c dù có tín 102 Bộ tài chính, số liệu tính bao gồm cả trả nợ gốc 103 .html 206 hiệu tăng nhẹ từ tháng 5/2015, nhưng l i suất huy động tiền gửi tiết kiệm của các NHTM cũng chỉ tăng chủ yếu ở các kỳ hạn dài với mức tăng từ 0,3-0,5%/năm104. Có thể thấy rõ là mức lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm đ không thực sự hấp dẫn, chưa kể những lo lắng về lạm phát và sự biến động phức tạp của tỷ giá giữa đồng Việt Nam (VND) và Đô-la Mỹ (USD). Trên thực tế, các NHTM chủ yếu cũng chỉ huy động được vốn ngắn hạn, tỷ trọng vốn trung và dài hạn khá thấp, do vậy hoạt động sử dụng vốn của các NHTM chủ yếu là cho vay ngắn hạn ho c đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Thậm chí, tại nhiều thời điểm, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) còn phải mua bán vốn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao ho c sử dụng vốn vay từ ch nh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Bên cạnh nguồn vốn của dân cư được huy động qua từ tiền gửi tiết kiệm, thu hút đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một kênh khá hấp dẫn đối với những cá nhân và hộ gia đình sẵn sàng ưa th ch ho c chấp nhận mạo hiểm hơn. Trong giai đoạn từ 2005, đ c biệt từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006, có hiệu lực từ 01/01/2007, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đ đạt được những thành công nhất định trong việc huy động và dẫn truyền vốn đầu tư cho nền kinh tế. Quy mô thị trường đ tăng mạnh đến mức 22,7% GDP năm 2006 và tiếp tục tăng đến mức trên 43% năm 2007. Tuy nhiên cũng từ sau năm 2007, chỉ số giá chứng khoán đ sụt giảm liên tục trong năm 2008 làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18% GDP. Sự kém hấp dẫn của thị trường tiếp tục kéo dài trong suốt thời gian năm 2009 - 2013. Trong năm 2014, trước dấu hiệu tích cực của nền kinh tế, thị trường chứng khoán đ dần ổn định và có dấu hiệu tăng tăng trưởng. Tính đến ngày 08/12/2014, chỉ số VN-Index đạt 571,68 điểm tăng 13,3% so với cuối năm 2013, chỉ số HNX-Index đạt 87,17 điểm tăng 28,5% so với cuối năm 2013. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 1.164 nghìn tỷ VND, tăng 90% so với năm 2013. Giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 5.448 tỷ VND trong đó giá trị giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ bình quân mỗi phiên đạt 2.971 tỷ VND, cao gấp 2,2 lần so với năm 2013. M c dù vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chỉ được đánh giá là “vẫn trong giai đoạn sơ khai” với chất lượng và t nh đại diện của các loại chứng khoán niêm yết thấp, phương thức quản lý chưa hiệu quả và mức độ rủi ro vẫn cao. Trong năm 2015, m c dù tín dự áo tăng trưởng GDP sẽ đạt ho c vượt 6,2%, lãi suất ngân hàng duy trì ở mức khá thấp, tăng trưởng tín dụng bắt đầu trở lại, sức cầu nền kinh tế đang dần được phục hồi nhưng thị trường chứng khoán lại có dấu hiệu chững lại bởi các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường vẫn còn hạn chế105. 104 cao-nhat-a97644.html 105 207 Điều đáng nhấn mạnh là trong khi các phương thức huy động vốn từ dân cư một cách chính thức thông qua tiền gửi tiết kiệm của các NHTM hay đầu tư vào thị trường chứng khoán đang g p nhiều khó khăn thì một khối lượng tiền m t rất lớn, nhiều nghìn tỷ VND lại được huy động bằng con đường không chính thức thông qua các hình thức “t n dụng đen”. Khối lượng tiền vốn rất lớn của dân cư đ được triển khai thực hiện ở nhiều địa phương cả các vùng nông thôn đến các thành phố lớn, không được sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống mà đ ị chiếm đoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều hộ gia đình và tạo sự bất ổn định cho nền kinh tế - xã hội. Bên cạnh nguồn vốn tư nhân trong nước đ khai thác được qua hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán, còn một lượng dự trữ rất lớn bằng tiền m t kể cả đồng nội tệ và ngoại tệ, vẫn đang “chôn ch t” trong két sắt của nhiều gia đình giàu có. Không thể xác định được ch nh xác, chưa thể huy động và kiểm soát. Nhu cầu vàng nhập khẩu tính cả vàng thỏi và vàng nữ trang lên đến hàng trăm tấn mỗi năm. Ngoài ra, tỷ trọng thanh toán bằng tiền m t cũng như các hoạt động kinh doanh vàng qua sàn giao dịch ảo ở nước ngoài, v.v... là những bằng chứng cho thấy nguồn lực tài chính dồi dào ở khu vực tư nhân nhưng chưa có các phương thức hiệu quả huy động vào nền kinh tế. Bảng 1: Số lượng vàng nhập khẩu của Việt Nam Đơn vị: tấn Nội dung Năm 2011 2012 2013 2014 Vàng nữ trang 13 12,5 40 12,7 Vàng thỏi 87,8 75,2 70 56,4 Tổng 100,8 97,7 110 69,3 Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới WGC Ngoài tiền m t, tiềm năng nguồn lực tài ch nh dân cư của Việt Nam còn rất lớn nhưng rất l ng ph dưới hình thức dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh. Bảng 1, Hiệp hội vàng thế giới (WGC) cho biết lượng vàng nhập khẩu các loại của Việt Nam giảm qua các năm trong giai đoạn 2011-2014, song đây chỉ là những con số chính thức, “phần nổi”. Thật sự khó khăn để xác định chính xác, tuy nhiên, thời điểm tháng 6/2013, số liệu Hội đồng Vàng thế giới cung cấp dự trữ vàng trong dân ở Việt Nam khoảng 1.072 tấn (số cộng dồn từ các hóa đơn mua án vàng của Việt Nam ở nước ngoài từ năm 2000), xếp vị trí khoảng thứ 5 thế giới về lượng vàng dự trữ106. Như vậy, nếu căn cứ số liệu tiếp theo đến hết năm 2013, năm 2014, số lượng vàng dự trữ trong dân xấp xỉ 1.200 tấn. Hoạt động kinh doanh của các sàn vàng vẫn diễn ra với quy mô nhiều 106 208 tấn bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước. Người dân Việt Nam dự trữ vàng không phải chỉ là sự sùng bái hay thói quen truyền thống mà còn có những lý do về chính sách quản lý, kinh doanh vàng, sự duy trì chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế, thậm chí những động cơ này còn mạnh hơn cả thói quen truyền thống hay những lo lắng về sự mất giá của VND. Cùng với dự trữ vàng cũng là dự trữ ngoại tệ mạnh, chủ yếu là USD. Số liệu thống kê của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2014 cho thấy tình trạng Đô-la hóa (Dollarization) ở Việt Nam đ giảm trong giai đoạn 2010-2014, xuống còn mức thấp, dưới 15% (2014) được đánh giá thông qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong mức cung tiền M2 (FCD/M2). Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng M2 của Việt Nam có mức tăng trung ình trong giai đoạn này là 15,6% năm và như vậy rõ ràng lượng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư vẫn tăng và quy mô là không nhỏ. Hơn nữa, điều mà số liệu thống kê chính thức đều không thể phản ánh đầy đủ đó là lượng tiền m t bằng USD do công chúng nắm giữ dưới dạng tài sản phi tài chính, không nằng trong các tài khoản tiền gửi tiết kiệm hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ. Chỉ khi cần thiết, mới phục vụ cho các giao dịch khác nhau ở mọi quy mô, từ mua bán những hàng hóa tiêu dùng thông thường đến mua án nhà, đất, xe ô-tô, v.v..., từ các thành phố đến các địa phương và vùng iên mậu đều có thể diễn ra trực tiếp bằng ngoại tệ. Điểm chung nhau của việc dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh là người dân Việt Nam sẵn sàng mua vàng và USD mỗi khi giá vàng và tỷ giá USD/VND trong nước tăng, thậm chí ngay cả những thời điểm giá vàng và ngoại tệ trên thị trường quốc tế giảm. Riêng điều này cũng đ làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam diễn biến rất phức tạp, gây khó khăn không nhỏ cho các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và NHNN nói riêng. Xét riêng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư tại các NHTM luôn gây ra trạng thái dư thừa ngoại tệ dẫn đến sự vận động một cách luẩn quẩn của luồng vốn ngoại tệ ra – vào Việt Nam. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam nhiều lần phải chấp nhận mức lãi suất rất cao, từ 6,95% đến 7,125% năm và với những điều kiện khác để huy động từ vài trăm triệu đến 1 tỷ USD từ nước ngoài về thì các NHTM Việt Nam đang huy động ngoại tệ của dân cư trong nước với mức lãi suất dưới 2% năm và sau đó gửi vào các NHTM nước ngoài với quy mô hàng tỷ USD. Câu hỏi đ t ra là tại sao có hiện tượng này và liệu có mâu thuẫn về lợi ích của Nhà nước, nhân dân và các định chế tài chính trung gian. Nguồn vốn tư nhân khác là kiều hối cũng đóng góp phần quan trọng không nhỏ khi được đầu tư cho sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Hiện nay, cộng đồng người Việt ở nước ngoài với khoảng 4 triệu người, sống và làm việc ở hơn 100 quốc gia. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam có xu hướng tăng qua các năm và không đơn thuần nhằm mục đ ch trợ cấp cho thân nhân trong nước. Năm 2008, m c dù khủng 209 hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn đạt mức 7,2 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận được dòng kiều hối với giá trị trên 8 tỷ USD và được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp ở vị tr 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới. Năm 2013, Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất, đạt tới 11 tỷ USD107 và năm 2014 đạt 12 tỷ USD108. Dòng vốn này thật sự đ có những tác động to lớn đối với các cá nhân nhận tiền nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Quy mô kiều hối về Việt Nam có xu hướng tăng xuất phát từ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước, tạo ra những cơ hội đầu tư cho kiều bào ở nước ngoài. Ngoài ra, các chính sách về đầu tư, cho phép mua và đăng ký quyền sử dụng đất, v.v..., chính là những động thái quan trọng thu hút vốn đầu tư từ kiều bào ở nước ngoài. Vấn đề đ t ra là trong thời gian tới cần có những chính sách mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa góp phần duy trì và tăng cường khả năng thu hút kiều hối nhiều hơn nữa trong tương lai. Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2014. 2.2. Thu hút đầu tư của tư nhân thông qua phương thức kết hợp công - tư (PPP) Trong thời gian 2011-2014, ngoài việc gia tăng đầu tư của NSNN, việc thu hút đầu tư tư nhân cùng tham gia phát triển kinh tế - x hội ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế cũng đ được tăng cường khuyến kh ch. Nhiều văn ản pháp lý như: Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc an hành Quy chế th điểm đầu tư theo hình thức kết hợp công – tư (PPP) được an hành và ch nh thức có hiệu lực từ ngày15/1/2011; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban chấp hành Trung 107 h%E1%BB%91i-trong-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-kinh-t%E1%BA%BF---x%C3%A3-h%E1%BB%99i.aspx 108 210 ương về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng ộ nhằm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại năm 2020; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư an hành ngày 14/2/2015 quyết định dỡ ỏ hạn mức vốn Nhà nước đ tăng t nh hấp dẫn của các dự án PPP được thực hiện không chỉ ở mảng hạ tầng mà còn mở rộng sang các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao, v.v... Trên cơ sở đó, khu vực tư nhân đ có cơ hội thực hiện các hoạt động đầu tư ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế: Ở mảng cơ sở hạ tầng, nguồn vốn tư nhân đ tham gia cho các lĩnh vực điện, viễn thông giao thông đường ộ, đường không và cảng iển được thực hiện chủ yếu dưới hình thức sử dụng nguồn vốn tư nhân, nguồn vốn hỗn hợp Nhà nước kết hợp tư nhân (PPP) cho các dự án BOT, BT, BTO, được triển khai ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước. V dụ; Quảng Ninh hiện có 6 dự án đang triển khai theo hình thức đối tác công tư trong đó có 3 dự án Bộ Giao thông Vận tải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các dự án này gồm dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ18 đoạn TP.Uông B – TP.Hạ Long; dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Bắc Ninh – TP.Uông B và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Hạ Long – Mông Dương; dự án cầu Bạch Đằng; dự án cảng hàng không Quảng Ninh; dự án đường cao tốc Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái109. Ở các lĩnh vực y tế, theo số liệu của WHO về Tài khoản y tế quốc gia, năm 2013, Việt Nam đ chi 7,8% GDP hay 80 USD/người cho y tế, trong đó chi từ NSNN chiếm 40%, tư nhân chiếm 60%. Số lượng các phòng khám và ệnh viện tư nhân cũng đang tăng nhanh, cùng với loại hình dịch vụ y tế đa dạng được cung cấp trên cơ sở người ệnh trực tiếp trả tiền. Ngay cả tại các phòng khám và ệnh viện công, các nhà thuốc tư nhân cũng phát triển ùng nổ. Ở ngành giáo dục, số lượng các trường tư đ tăng nhất là các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. T nh ình quân ở tất cả các hệ, số lượng trường tư/tổng số trường học năm sau cao luôn hơn năm trước. Nếu như trong năm 2010, số lượng các trường tư chỉ chiếm tỷ trọng 21% thì đến tháng 6/2015 đ lên đến khoảng 26,3%. Số học sinh đăng ký vào các trường tư cũng gia tăng từ 4,2 triệu năm 2010 lên tới 5,2 triệu năm 2014 tương ứng với mức tăng từ 16% lên 22%/tổng số học sinh đăng ký trong giai đoạn này110. Tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Ch Minh, ngày càng nhiều những t n hiệu đáng mừng của khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục. Hội nghị xúc tiến đầu tư 2014 được Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh tổ chức đ thu hút được nhiều nhà đầu tư cho 20 dự án tại khu đô thị Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh với tổng số vốn lên đến 8.682 tỷ VND. Tất cả các dự án này đều được thực hiện dưới 109 110 Hợp tác với CHLB Đức (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 và tổng hợp số liệu từ www.molisa.gov.vn 211 hình thức đầu tư PPP nhằm phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập, giảng dạy, cư trú, thể dục thể thao vui chơi giải tr cho toàn ộ sinh viên và cán ộ nhà Trường111. Tương tự như lĩnh vực y tế, giáo dục, sự tham gia của các công ty cổ phần trong lĩnh vực ảo hiểm cũng cho thấy sự nỗ lực và sẵn sàng tham gia của tư nhân tương ứng với thị phần hoạt động so với các công ty ảo hiểm Nhà nước từ 14%/năm 2010 lên đến 20,4%/tháng 6/2015. Ngoài ra, năm 2014, chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng đ ước đầu tạo được sự thu hút tư nhân đầu tư. Kết quả là số lượng, quy mô và vốn đầu tư của các dự án của khu vực tư nhân ngày càng lớn như tỉnh Hà Nam có 11 doanh nghiệp, tỉnh Thái Bình đ có những ch nh sách đột phá hỗ trợ cho tư nhân theo phương thức kết quả đầu ra (hỗ trợ 3 triệu VND/m3 công suất của nhà máy) và hiện 17 doanh nghiệp đăng ký đầu tư xây dựng công trình nước sạch với số vốn 1.085 tỷ VND. Trên cả nước hiện nay, toàn quốc hiện có khoảng 15.093 công trình cấp nước tập trung với các mô hình quản lý khác nhau như cộng đồng 48%, trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh 19%, tư nhân 11%, ủy an nhân dân x 12%, doanh nghiệp 5%, hợp tác x 3%, Ban quản lý 2%, v.v Bảng 2: Sự tham gia của khu vực tư nh n với các hoạt động giáo dục, y tế và bảo hiểm ở Việt Nam Đơn vị: % Nội dung Năm 2010 2011 2012 2013 2014 T6/2015 Tỷ lệ trường tư/trường công tham gia hoạt động giáo dục 21 23 23 24 26 26,3 Tỷ lệ ệnh viện tư/ ệnh viện công tham gia cung cấp dịch vụ y tế 9 11 12 13 15 15,1 Thị phần hoạt động của công ty cổ phần ảo hiểm /công ty ảo hiểm Nhà nước 14 15 17 18 20 20,4 Nguồn: Tổng hợp số liệu từ www.moet.gov.vn, www.moh.gov.vn, www.vietstock.vn Sự tham gia của đầu tư tư nhân thực sự đ tạo ra những hỗ trợ t ch cực đối với nền kinh tế, tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn tư nhân chưa đảm ảo khả năng phát triển kinh tế - x hội một cách ền vững, thể hiện ở một số m t khác nhau. Thứ nhất, 111 212 đầu tư của tư nhân chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và tại các đô thị lớn, đảm ảo được mức sinh lợi nhất định và những điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện đầu tư hơn là những “địa chỉ” thực sự cần thu hút. Điển hình về lĩnh vực giao thông, đa số các dự án PPP tập trung vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chủ yếu là đường cao tốc hay các trường học tư nhân tư nhân có xu hướng tập trung vào giáo dục ậc cao như dạy nghề, đào tạo đại học và việc chiêu sinh dựa trên khả năng chi trả học ph chứ không phải trên cơ sở năng lực hay nhu cầu học tập. Thứ hai, chư có cơ chế đảm ảo hiệu quả và t nh ền vững của các dự án cũng như giảm thiểu sự lệ thuộc vào quy mô, thu nhập và năng lực triển khai dự án của tư nhân. Thực tế đ có không ít dự án PPP phải dừng thực hiện ho c kéo dài đ giảm hiệu quả thậm ch thua lỗ do những thay đổi về cơ chế, ch nh sách, sự iến động của giá cả ho c giải ngân của NHTM. Thứ ba, thực hiện dự án không đúng tiến độ và không đảm ảo chất lượng nên công trình dự án xuống cấp, chậm đưa vào sử dụng, ngay cả khi đ hoàn thành, tình trạng thất thoát, l ng ph vốn xảy ra và mức độ nghiêm trọng xu hướng gia tăng đ c iệt với các dự án PPP. Thứ tư, việc tiếp cận và sử dụng vốn vẫn còn g p nhiều khó khăn khi thủ tục hành ch nh chưa được cải cách triệt để, trong khi sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ sở pháp lý lại “vừa thừa”, “vừa thiếu”. Thứ năm, quá trình triển khai các dự án PPP đ ộc lộ nhiều vấn đề ất cập về năng lực quản lý sử dụng vốn và tài sản, chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ, v.v..., từ cả hai ph a Nhà nước và chủ đầu tư tư nhân đ gây ra những hậu quả đáng tiếc cả về tài sản và con người. Có thể thấy rằng những hạn chế trên đây cũng ch nh là “rào cản” đối với việc mở rộng ứng dụng các dự án PPP, thu hút đầu tư tư nhân, tham gia đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển ền vững kinh tế - x hội Việt Nam. 2.3 Tình hình thu hút và triển khai các dự án FDI Các dự án đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài ch nh là đầu tư tư nhân nước ngoài vào Việt Nam. Một cách khái quát, việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014 đ rất thành công và đạt mức trung ình hàng năm là cao nhất, trên 11,5 tỷ USD. Trên thực tế, các doanh nghiệp FDI đ được ghi nhận là đóng góp tới 3 trong 4 “điểm sáng” của nền kinh tế Việt Nam năm 2014. Đến thời điểm hiện nay, có 101 quốc gia có đầu tư tại Việt Nam với 17.768 dự án, tổng vốn đăng ký 252,715 tỷ USD. Đầu tư tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo với 9.600 dự án, vốn đăng ký 141,4 tỷ USD, chiếm 54% số dự án và 56% tổng vốn đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản, xây dựng, dịch vụ lưu trú, v.v..., trong đó Nhật Bản là một trong những quốc gia có mức đầu tư nước ngoài lớn tại Việt Nam112. 112 213 Tuy nhiên, nhiều chuyên gia thuộc các cơ quan quản lý khác nhau dự đoán rằng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam kể cả các dự án mới và tăng thêm vốn cho các dự án đang thực hiện đều có xu hướng giảm. Cụ thể trong trường hợp các nhà đầu tư Nhật Bản, vốn đầu tư đ cắt giảm 65% từ mức 5,87 tỷ USD vào năm 2013 xuống còn 2,05 tỷ USD vào năm 2014113. Những khó khăn chung của nền kinh tế thế giới sẽ làm giảm nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam có thể kể đến bao gồm: kinh tế Nhật Bản tăng chậm; khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và những sự chi phối, ảnh hưởng các nước khu vực Eurozone như CHLB Đức, Pháp; nền kinh tế Mỹ phục hồi chậm; kinh tế Trung Quốc cũng có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, v.v.... Do vậy, số lượng và quy mô các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đ có sự giảm thấp bắt đầu từ năm 2014, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 21,92 tỷ USD, chỉ bằng 98,1% so với năm 2013. M t khác, chất lượng và sự phân bổ các dự án FDI đ cấp phép và thực hiện cũng là vấn đề đáng quan ngại mang tính chủ quan, chưa kể đến các vấn đề về ô nhiễm môi trường và chuyển giá chưa được giải quyết một cách triệt để. Đa số các dự án FDI đến nay vẫn bị đánh giá là có hàm lượng công nghệ khá thấp, chủ yếu là gia công lắp ráp và giá trị gia tăng không lớn, tỷ trọng giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu trong giá thành xuất khẩu rất cao. Nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất ho c chế biến nhưng chưa “sâu” để phát huy tiềm năng thế mạnh của Việt Nam, trong khi nhiều sự án khác hướng vào cung cấp dịch vụ giải trí ho c số t người tiêu dùng thu nhập ở mức rất cao. Nguyên nhân của những hạn chế này lại thuộc về trách nhiệm của các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư. Ngoài ra, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi các thủ tục hành chính cấp phép và quản lý hoạt động các dự án FDI khá phức tạp, thiếu đồng nhất đ thực sự gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí phải thay đổi các quyết định về đầu tư, gây ra những phí tổn và sự lãng phí. 3. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn tư nh n nhằm đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới Về m t định hướng, để có thể giải tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian tới theo chúng tôi, trước hết và quan trọng nhất là phải ổn định kinh tế vĩ mô. Bức tranh kinh tế xã hội năm 2014 và đầu năm 2015 cho thấy GDP tăng trưởng 5,6%-6,2% trong khi lạm phát được duy trì ở mức khá thấp, cán cân thương mại th ng dư khoảng 1 tỷ USD, v.v... là những thành công đáng ghi nhận. Song, trong dài hạn vẫn phải chú trọng đến sự ổn định và bởi lẽ tăng trưởng GDP và xuất khẩu 2011-2014 phần lớn vẫn dựa vào các doanh nghiệp FDI. 113 icp.danang.gov.vn 214 Thứ hai, thu hút đầu tư của tư nhân cần triệt để sử dụng công cụ chính sách tài khóa. Quan sát diễn biến của chỉ số CPI, IPI và m t bằng lãi suất tín dụng trong giai đoạn 2013-2014 và đầu năm 2015 có thể nói là ở mức thấp và tiếp tục có xu hướng giảm nhưng tăng trưởng tín dụng thực vẫn chưa phục hồi, vốn hướng vào khu vực sản xuất vật chất không nhiều chứng tỏ rằng trong giai đoạn này tác động và hiệu quả của chính sách tiền tệ không cao. Ngược lại, như đ đề cập trên đây, việc tăng cường đầu tư công đ và đang mang lại những hiệu ứng rất tích cực trong giai đoạn 2012- 2014 với những gói hỗ trợ lớn cho thấy cơ hội để vận hành ch nh sách đầu tư thu hút (Crowding-in). Để thực hiện tốt việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội, sáu nhóm giải pháp bao gồm: (1) tăng cường phát hành trái phiểu chính phủ để thu hút nguồn vốn trong dân cư; (2) tăng đầu tư và chi tiêu NSNN thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân; (3) tăng lương và thực hiện ưu đ i thuế, cắt giảm một số nghĩa vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân; (4) thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân; (5) Giải phóng nguồn lực thông qua xử lý nợ xấu; (6) Phát triển thị trường ngoại hối để thu tài sản phi tài ch nh trong dân cư, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa, có thể được nghiên cứu và áp dụng. 3.1 Tăng cường thu hút vốn từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính phủ Ở các nước phát triển trên thế giới, việc phát hành trái phiếu chính phủ là việc thường xuyên và được coi là giải pháp tối ưu để ù đắp chi tiêu của NSNN, không dẫn đến lạm phát qua bội chi hay phát hành thêm tiền, đồng thời còn tạo cơ hội cho sự phát triển của thị trường trái phiếu. Hơn nữa, đây là hình thức huy động vốn có lợi ích cho các chủ thể tham gia, đ c biệt là Nhà nước và người dân theo đúng khái niệm hiệu quả Pareto (Pareto efficiency). Lượng tiền nhàn rỗi của dân cư đầu tư vào trái phiếu chính phủ sẽ đảm bảo chi ph cơ hội của chi tiêu NSNN là thấp nhất. Vấn đề là những quan ngại về trần nợ công, đ c biệt là tốc độ gia tăng nợ công tăng ở Việt Nam khá nhanh trong thời gian 2011-2014. Năm 2014 ằng 16% tổng thu ngân sách Nhà nước114 tương ứng khoảng 57% GDP và trên 50% tổng nợ công là nợ công nước ngoài. 114 215 Nguồn: Bộ tài chính M c dù vậy, chúng tôi thấy rằng nợ công Việt Nam vẫn chưa chạm trần, với 2,3 triệu tỷ VND bằng 59,6% GDP nên “room” để gia tăng phát hành trái phiếu chính phủ thực sự vẫn còn. Để tăng khả năng thu hút vốn trong dân cư cũng như tăng khả năng đầu tư của Nhà nước nhằm thu hút đầu tư của tư nhân, theo chúng tôi vẫn cần tăng lượng trái phiếu chính phủ phát hành vào lưu thông. Việc gia tăng phát hành trái phiếu chính phủ trong ngắn hạn có thể gia tăng nợ công và nhanh chóng đạt tới mức giới hạn của trần nợ công. Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng nếu quản lý và sử dụng tốt vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả chi tiêu của NSNN, thì chỉ số nợ công/GDP (trần nợ công) sẽ không những không tăng mà còn giảm, bởi lẽ hiệu quả chi tiêu và đầu tư công sẽ luôn đảm bảo rằng tốc độ tăng của GDP luôn nhanh hơn tốc độ tăng của nợ công 115 . Thực hiện giải pháp này, không những có thể thu hút tiềm năng về vốn trong dân cư mà NSNN sẽ có thêm khả năng đầu tư, kết hợp với những chính sách làm giảm thấp lãi suất sẽ k ch th ch, gia tăng đầu tư của tư nhân. Để thực hiện được giải pháp này, điều quan trọng nhất là áp dụng các biện pháp để đảm bảo rằng nguồn đầu tư vào trái phiếu chính là tiền nhàn rỗi công chúng, không phải của các doanh nghiệp hay các định chế tài chính mà cuối cùng là “Nhà nước cho ch nh Nhà nước vay tiền”. Muốn vậy, ngoài việc xác định lãi suất và thị giá trái phiếu phải được hình thành trên cơ sở thị trường và người dân mua trái phiếu thực sự hoạt động đầu tư tài ch nh và hoàn toàn mang ý nghĩa kinh tế. 3.2 Tăng đầu tư và chi tiêu NSNN để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân và thúc đẩy nhu cầu của khu vực tư nhân, cả nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng Trên cơ sở tăng phát hành trái phiếu, đầu tư của Chính phủ có cơ hội gia tăng, 115 Một VND nợ công được huy động và sử dụng thêm mang lại hơn một VND tăng lên trong GDP do vậy tỷ trọng nợ công/GDP sẽ giảm. 216 trước hướng đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội, đ c biệt ưu tiên cho 5 lĩnh vực chủ đạo: (1) hệ thống giao thông công cộng; (2) cung cấp năng lượng; (3) công nghệ mới và hiện đại cho sản xuất nông nghiệp; (4) hệ thống bệnh viện và dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (5) đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo. Đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội theo các chương trình trên là những khoản đầu tư lớn sẽ có tác động tích cực và rất mạnh đến nền kinh tế - xã hội ngay trong ngắn hạn và cả trong dài hạn. Trước mắt, các khoản chi tiêu đầu tư như vậy sẽ góp phần quan trọng vào giải quyết lượng hàng tồn kho với giá trị lớn bao gồm sắt thép, xi măng và các nguyên vật liệu cho xây dựng. Về lâu dài, sự phát triển những lĩnh vực trên là tất yếu, là điều kiện để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững, đ c biệt trong khi Việt Nam chưa đáp ứng được nhưng tiêu chuẩn tối thiểu về mật độ đường giao thông, thiếu hụt về năng lượng, nông nghiệp là chủ đạo nhưng thâm canh và chuyên canh vẫn còn mang tính chất truyền thống và ở trình độ thấp, quá tải và tình trạng nhiễm trùng của các bệnh viện ở Trung ương và các thành phố lớn, nhu cầu đổi mới và tăng cường chất lượng giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Khi hệ thống hạ tầng cơ sở được phát triển sẽ là động lực to lớn để thu hút đầu tư tư nhân và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, khi hệ thống giao thông được phát triển sẽ thu hút đầu tư của tư nhân ở các khu vực quốc lộ, tỉnh lộ đi qua. Đồng thời k ch th ch tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng nhà ở, nhu cầu vay vốn của các NHTM để xây nhà ở, cơ sở kinh doanh, gia tăng nhu cầu sử dụng ô-tô của công chúng, kích thích nhu cầu đi lại, thăm quan, du lịch và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa sẽ gia tăng. Tương tự như vậy, khi đầu tư xây dựng và hiện đại hóa các bệnh viện, đ c biệt ở các vùng lân cận thành phố lớn và vùng nông thôn sẽ góp phần tăng chi tiêu của dân cư ở các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Đầu tư và hiện đại hóa giáo dục và đào tạo sẽ làm tăng nhu cầu học tập, không chỉ cải thiện nhận thức và thu nhập của người dân mà còn góp phần phát triển hệ thống giáo dục cũng như các dịch vụ đi kèm. Để đảm bảo hiệu quả khi gia tăng đầu tư công và sự tham gia của khu vực tư nhân theo hình thức PPP, hoạt động đầu tư công phải được hoàn thiện về cơ chế quản lý và giám sát theo hướng tăng cường tính kỷ luật và trách nhiệm giải trình. Áp dụng các tiêu ch đánh giá theo kết quả cuối cùng (Result – ased) và cá nhân nhà l nh đạo các cấp phải chịu trách nhiệm về các quyết định phê duyệt và quản lý đầu tư một cách minh bạch và nghiêm túc. 3.3 Tăng lương và thực hiện ưu đãi thuế, cắt giảm một số nghĩa vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân để khuyến khích và gia tăng quỹ đầu tư 217 Trong bối cảnh lạm phát 2013-2014 và 6 tháng đầu năm 2015 được duy trì ở mức thấp, sự phục hồi kinh tế chưa thực sự vững chắc, các doanh nghiệp vẫn còn khó khăn thì việc xem xét thực hiện tăng lương và ch nh sách ưu đ i thuế trong thời điểm này là rất cần thiết, góp phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện giảm giá để tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, Nhà nước cần thể chế hóa việc điều chỉnh thuế và giá cả những m t hàng thiết yếu bằng cách xây dựng và thống nhất quy chế điều chỉnh thuế, điều chỉnh giá xăng dầu, điện, than hướng tới các nguyên tắc thị trường; cần an hành các quy định về các loại ph trên cơ sở luật pháp. M t khác, mọi điều chỉnh trong phạm vi chính sách tài khóa cần đảm bảo sự phối hợp ch t chẽ và đồng bộ với chính sách tiền tệ và các ch nh sách vĩ mô khác, nhằm hạn chế sự mâu thuẫn, hạn chế và triệt tiêu hiệu quả điều tiết của các chính sách kinh tế vĩ mô. 3.4 Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân Đầu tư của khu vực tư nhân không chỉ dựa vào tiết kiệm của dân cư mà phần chiếm tỷ trọng cao hơn là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn của các doanh nghiệp tham gia đầu tư không nhất thiết chỉ là vốn tự có, tự tích lũy, huy động qua thị trường chứng khoán, quan trọng hơn vẫn là nguồn nguồn tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, để gia tăng đầu tư tư nhân, tăng trưởng tín dụng đối với khu vực này cũng có ý nghĩa quyết định. nhân một phần các cá nhân. Để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho khu vực tư nhân, trước hết, các NHTM cần thay đổi tư duy, chuyển hướng sang việc cung cấp các sản phẩm tài chính tổng thể cho hệ thống các doanh nghiệp (cho vay theo chuỗi giá trị) để hỗ trợ được đồng bộ tất cả các của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời cũng cần chủ động hơn nữa trong hỗ trợ doanh nghiệp từ quản lý tài khoản, cung cấp các sản phẩm tài trợ thương mại, v.v.... Có như vậy, doanh nghiệp tư nhân mới nhận thấy hiệu quả tổng thể và mạnh dạn vay vốn tham gia đầu tư. Đây cũng là phương cách giúp cho các NHTM có thể kiểm soát tín dụng một cách hiệu quả nhất mà không cần đến hàng loạt các thủ tục hành chính phức tạp và gia tăng chi ph sử dụng vốn vay như hiện nay. Trong thời gian qua, m c dù lãi suất cho vay được công bố giảm song các doanh nghiệp vay vốn phải chịu các khoản chi phí không nhỏ làm cho tổng chi phí vay vốn rất cao. Cần gắn kết lợi ích của ngân hàng thương mại và của khách hàng, đ c biệt là các doanh nghiệp tư nhân có quan hệ nhiều năm và khó khăn tài ch nh được xác định chỉ là tạm thời. Lý giải cho thực tế đang diễn ra là lãi suất giảm nhưng vốn vẫn không thể đến được nơi cần ch nh là do các điều kiện tín dụng của ngân hàng thương mại quá ch t chẽ và doanh nghiệp không thể đáp ứng. Do vậy, các ngân hàng thương mại cần song hành và nắm bắt được đ c thù kinh doanh của khách hàng để đưa ra các cấu trúc tín dụng phù hợp, tránh dập khuôn dẫn đến việc bỏ qua các khách hàng tốt ho c cho vay vốn đối với các doanh nghiệp không cần ho c không thể sử dụng được. Thứ 218 hai, các ngân hàng thương mại cần mềm dẻo trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân, đ c biệt là các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh tốt, trong một số trường hợp cần áp dụng hình thức cho vay thêm, cho vay mới ngay cả khi doanh nghiệp chưa thể trả được nợ cũ nhưng có cơ hội phát triển. Làm được như vậy, không những các mục tiêu của mỗi NHTM được thực hiện, góp phần đảm bảo tăng trưởng tín dụng trong cả nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân một cách hiệu quả vào nền kinh tế - xã hội. 3.5 Giải phóng nguồn lực của nền kinh tế thông qua xử lý nợ xấu Nợ xấu không chỉ làm ứ đọng một lượng vốn khổng lồ của các NHTM mà còn làm đông kết khối tài sản đảm bảo có giá trị lớn tương đương với vốn đó. Chừng nào nợ xấu chưa được xử lý một cách triệt để, chừng đó nguồn lực tài chính của nền kinh tế còn bị “ách tắc”. Chúng tôi cho rằng cần coi việc xử lý triệt để nợ xấu là biện pháp quan trọng nhất để khơi thông nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Liên quan đến xử lý nợ xấu, chúng tôi vẫn tiếp tục khuyến nghị rằng, nợ xấu cần được giải quyết triệt để thông qua chứng khoán hóa bằng trái phiếu Chính phủ116 để được mua bán một cách rộng rãi trên thị trường. Việc giải quyết nợ xấu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ không những khả thi mà còn đáp ứng những yêu cầu của việc “x hội hóa xử nợ xấu” bởi lẽ tất cả các cá nhân và các tổ chức đơn vị kinh tế, xã hội đều có thể mua trái phiếu và tự nguyện tham gia và hưởng lợi từ phương thức và kết quả xử lý nợ xấu nói trên. 3.6 Phát triển thị trường ngoại hối để thu hút tài sản phi tài chính trong dân cư, đồng thời hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa117 Đầu cơ ngoại tệ và vàng được nhận diện và xác định là những “địa chỉ” giam hãm nguồn lực tài chính lớn nhất và lãng phí nhất ở nước ta. Như đ đề cập, đầu cơ ngoại tệ và vàng xuất phát từ sự mất lòng tin vào Đồng Việt Nam (VND), sự khan hiếm và chênh lệch giá cả, sự sùng bái ngoại tệ và vàng. Tuy nhiên, cả a căn nguyên này có chung nguồn gốc là những hạn chế của hệ thống tài chính, cụ thể là sự kém phát triển của thị trường ngoại hối ở Việt Nam. Do vậy, cần nhanh chóng củng cố và phát triển thị trường ngoại hối đồng thời hạn chế tín dụng ngoại tệ để loại bỏ tình trạng đô-la hóa, vàng hóa ở Việt Nam. Trước hết hoàn thiện cơ chế giá cả, từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo cơ chế thị trường. Lãi suất và tỷ giá luôn luôn là một nhân tố rất quan trọng nhất tác động đến hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính. Lãi suất và tỷ giá 116 GS. TS Nguyễn Văn Nam và các cộng sự (2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Kỷ yếu hội thảo. 117 Như chú th ch 15. 219 nếu được xác định trên cơ sở thị trường sẽ luôn phản ánh đúng nhu cầu cũng như chi phí sử dụng vốn, do vậy có thể phân bổ, sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trong khi chưa thể thả nổi hoàn toàn lãi suất và tỷ giá, chúng ta cũng nên mạnh dạn hơn trong việc xóa bỏ kiểm soát trần lãi suất và neo tỷ giá, từng ước nới dần sự kiểm soát trực tiếp đối với lãi suất và coi đây như một giải pháp để tháo dỡ những khó khăn cản trở sự phát triển của hoạt động ngân hàng, thị trường chứng khoán và hệ thống tài chính nói chung ở nước ta. Song song với giải phóng về lãi suất cần thực hiện giải phóng đối với tỷ giá, cho phép các định chế tài ch nh được thỏa thuận một cách công khai và minh bạch đối với khách hàng giá mua bán ngoại tệ cả hai chiều, đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại tệ ch nh đáng của người dân. Khi không còn “tỷ giá rẻ” trong ngân hàng, khi lãi suất VND là dương và thực sự hấp dẫn, sẽ không còn nhu cầu ngoại tệ ảo, động cơ nắm giữ ngoại tệ dự phòng và kỳ vọng tăng giá sẽ giảm, góp phần giảm áp lực và chi phí can thiệp vào “giá cả” và thị trường của nhà nước. Hai là, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm b ng ngoại tệ, khuyến khích dân cư và các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM. Nhận tiền gửi tiết kiệm ằng ngoại tệ nhằm mục đ ch thu hút ngoại tệ trong dân cư và tăng khả năng cung ngoại tệ cho các NHTM, song vô hình chung lại khuyến kh ch đầu cơ ngoại tệ và đô-la hóa. Nếu công chúng thỏa m n được yêu cầu về khả năng sinh lời qua l i suất, trong khi tỷ giá và sức mua của VND luôn được giữ ổn định thì việc loại ỏ tiết kiệm ằng ngoại tệ rõ ràng là trùng hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và là nhiệm vụ ch nh trị của các cơ quan chức năng của nhà nước như NHNN, Bộ Tài ch nh, v.v Một số người có thể lo ngại việc chấm dứt nhận tiền gửi ằng ngoại tệ sẽ làm thất thoát nguồn ngoại tệ, giảm khả năng cung ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi l i suất và tỷ giá ở Việt Nam được xác định và duy trì một cách thỏa đáng, đảm ảo những nguyên lý về ngang ằng về sức mua (PPP) và ngang ằng về l i suất (IRP) và nếu như lợi tức kỳ vọng của các đồng tiền ở Việt Nam cao hơn thì luồng luồn vốn sẽ đi vào và ngoại tệ sẽ được án cho các NHTM nhiều hơn. Ba là, hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân thông qua việc tái thiết lập chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các NHTM. Khác với công chúng, việc nắm giữa ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân nhằm dự phòng cho nhu cầu sử dụng để nhập khẩu phục vụ hoạt động kinh doanh. Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc là nước được đánh giá rất thành công giải quyết vấn đề tỷ giá và vấn đề mất cân đối về ngoại tệ. Trong các năm từ 1994 đến 1996, Trung quốc đ thực hiện ch nh sách kết hối ngoại tệ 100%, nghiêm cấm việc giữ và sử dụng ngoại tệ. Chỉ đến 2007, dự trữ ngoại hối Trung Quốc đạt 1.528,249 tỷ USD, cán cân v ng lai th ng dư 371,832 tỷ USD, cán cân vốn th ng dư 220 73,454 tỷ USD, khi đó Trung Quốc mới xóa ỏ ch nh sách kết hối ngoại tệ118. Bốn là, hạn chế cho vay b ng ngoại tệ tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ. Việc sàng lọc khách hàng để giảm đối tượng vay vốn bằng ngoại tệ cần được dựa trên cơ sở khả năng tái tạo nguốn vốn bằng ngoại tệ và án cho các NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung quy định về đối tượng cho vay vốn bằng ngoại tệ của NHNN Việt Nam hiện nay đồng thời cũng phù hợp với thực tế ở Việt Nam là “xuất khẩu dựa trên nhập khẩu”119. Sau khi chọn lọc được khách hàng, các NHTM cần xác định hạn mức tín dụng bằng ngoại tệ cho từng khách hàng cụ thể, thậm chí theo các nhu cầu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh và nhập khẩu. Làm được như vậy, các ngân hàng có thể tiết kiệm được nguồn vốn ngoại tệ và loại bỏ được những hành vi kinh doanh trái đạo đức khi mà chúng ta chưa thể xóa bỏ tình trạng hai tỷ giá hai lãi suất hiện nay. Trên cơ sở xác định hạn mức tín dụng ngoại tệ, các ngân hàng thương mại có thể chủ động xây dựng các phương án huy động trong từng thời kỳ để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng đồng thời hạn chế trạng thái ngoại hối âm (short position) thừa vốn và phải điều chuyển vốn gửi ra nước ngoài. Năm là xóa ỏ những cơ sở tạo ra chênh lệch giá vàng giữa thị trường trong nước và giá vàng trên thị trường quốc tế. Đây là điều đ được các nhà quản lý và khoa học đề cập nhiều lần nhưng hiện nay vẫn chưa được giải quyết. Giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng trên thị trường quốc tế, thậm ch có những thời điểm đến hàng triệu VND/Ounce. Chênh lệch giá là động cơ nhập khẩu vàng và dự trữ vàng trong nước. Nếu muốn hạn chế điều này, cần hoàn thiện quy định quản lý xuất nhập khẩu vàng sao cho không tạo ra sự chênh lệch giá vàng. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn chế và xóa ỏ t n dụng ngoại tệ và vàng ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những khó khăn thách thức trước mắt để củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng tiền Việt Nam, một trong những điều kiện cơ ản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Sự phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường tiền tệ nước ta, ao gồm thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, là điều kiện tiền đề cho sự ổn định và phát triển hoạt động hệ thống tài ch nh. Thực ra, những vấn đề về “giải phóng” tỷ giá và l i suất hay i ỏ các quy định gây ra tình trạng hai tỷ giá, hai l i suất được kết hợp với cho sự phép các NHTM thỏa thuận mua án vốn để thỏa m n nhu cầu thanh khoản ch nh là những giải pháp cơ ản củng cố và thúc đẩy sự phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam. 4. Kết luận Nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi 118 Chiến lược tỷ giá và quản lý ngoại hối của Trung Quốc, 2009. 119 Phần lớn giá trị xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu khác. 221 những giải pháp thiết thực và đồng bộ để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân, gồm cả cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở những nhận diện về tiềm năng tài ch nh còn rất lớn trong dân cư và những “nút thắt” cơ ản trong nền kinh tế giai đoạn 2010-2014, căn cứ vào những điểm còn hạn chế trong cơ chế, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư tư nhân trong thời gian qua, chúng ta có thể chia sẻ về những giải pháp cơ ản góp phần hướng quỹ đầu tư của tư nhân đồng hành với quỹ đầu tư ngày càng eo hẹp hơn của nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu và cải thiện hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, ít nhất trong giai đoạn 2016-2020. Điều cần được nhấn mạnh trong giai đoanh này là lựa chọn và sử dụng chính sách tài khóa như là công cụ chủ đạo. Theo đó, các giải pháp như tăng nợ công thông qua phát hành trái phiếu để có thể gia tăng đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân cũng như k ch cầu toàn bộ nền kinh tế có thể được coi là giải pháp cơ ản đầu tiên và kế tiếp sẽ là những ưu đ i về thuế và tăng lương để tăng quy mô quỹ đầu tư tư nhân. Song song và phối hợp ch t chẽ với sự vận hành chính sách tài khóa, những biện pháp cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách lành mạnh cho khu vực tư nhân cũng ch nh là điều kiện cần và đủ để đầu tư tư nhân tham gia t ch cực hơn vào sự phát triển và ổn nền kinh tế. Do những hạn chế về thời gian và sự thiếu đầy đủ của số liệu thống kê, những luận điểm trong bài viết chắc chắn để ngỏ nhiều câu hỏi. Chúng tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn nhận được những ý kiến chia sẻ và hoàn thiện thêm cho bài viết. Tài liệu tham khảo 1. Bộ tài chính (2014), “Số liệu công khai ngân sách Nhà nước”, 2. Đỗ Đức Bình, Phạm Văn Hùng (2013), “Nợ công Việt Nam: Khái quát thực trạng và một số giải pháp hạn chế nợ công đến năm 2020”, Kỷ yếu hội thảo Khủng hoảng nợ công ở Liên minh Châu Âu và những vấn đề gợi mở với Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ngày 25/4/2013. 3. Đỗ Văn Thành (2013), “Các kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2013”, Thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 85 + 86. 4. Đảng cộng sản Việt Nam - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020”, Báo Nhân Dân điện tử ngày 6/6/2012. 5. Nguyễn Văn Nam, Đàm Văn Huệ, Đ ng Ngọc Đức, Nguyễn Đức Hiển (2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện 222 nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia – Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Trương Đình Tuyển (2014), “Kinh tế Việt Nam 2014 và triển vọng 2015”, Diễn đàn kinh tế mùa thu 2014, Tái cơ cấu nền kinh tế: Kỳ vọng chuyển biến mạnh mẽ và cơ bản, 7. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, UNDP, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ninh Bình ngày 27/8/9/2014. 8. UNDP, Ủy ban Kinh tế Quốc Hội (2010), “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy tr đà tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011”, Kỷ yếu hội thảo. 9. UNDP (2011), “Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người”, Báo cáo quốc gia về phát triển con người, Chương trình phát triển Liên hiệp Quốc. 10. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2012), “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá tr nh tái cơ cấu kinh tế”, Nhà xuất bản Tri thức. 11. Behrendt, C. and Hagemejer, K. (2001): “Can low-income countries afford social security?”, in Charlton, R. and McKinnon, R.: Pensions in Development (Aldershot, Ashgate). 12. Mizunoya, S.; Behrendt, C.; Pal, K. and Léger, F., (2006), “Costing of basic social protection benefits for selected Asian countries: First results of a modelling exercise”. Issues in Social Protection, Discussion Paper 17 (Geneva, International Labour Office). 13. Mukul G. Asher (2008), “Social Security Reform Imperatives in Developing Asia”, Indian Economic Journal 2008. 14. www.undp.org 15. www.mof.gov.vn 16. www.molisa.gov.vn 17. www.vnexpress.net 223

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_dan_hoi_thao_danh_gia_20_nam_huy_dong_va_su_dung_oda_cua.pdf