Dấu ấn văn xuôi trong cấu trúc câu thơ việt Đương đại - Nguyễn Thanh Tâm

Ý Nhi đã huy động nhiều động từ, tính từ để miêu tả trực diện đối tượng nhằm đan dệt chân dung và tâm trạng người đàn bà ngồi đan. Không một chút giấu giếm, nhà thơ đã lí giải tường tận về hai thái cực nhẫn nại và vội vã của nhân vật. Đó chính là "chủ tâm cố tính ra sức giằng ra khỏi cách biểu đạt trừu tượng và lao vào cái thực tế sinh động và cụ thể". Từ đó, những lớp tạo hình được tổ chức theo nguyên tắc quan sát, miêu tả cụ thể đã "dàn trận " trong thơ. Tư duy lí luận thường xem xét chỉnh thể nghệ thuật trong tương quan giữa hai lớp hiện thực: lớp hiện thực một là hiện thực ở ngoài đời, lớp hiện thực hai là hiện thực trong tác phẩm (tạm kí hiệu là H1, H2). Từ quan điểm trên chúng tôi cho rằng, cần phải có cái nhìn cắt lớp đối với mảng hiện thực thứ hai. Hay chăng, nên xem H2 là sự kết hợp giữa hiện thực bề nổi (nghĩa đen) tương ứng với H2’1 và hiện thực biểu trưng (nghĩa bóng) tương ứng với H2’2. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy rõ hơn dấu ấn của văn xuôi trong mỗi sinh mệnh thi ca xét về mặt hình thể. Những câu thơ miêu tả chi tiết, trực tiếp đối tượng trong thơ rất gần với văn xuôi ở xu hướng làm mất đi hiện thực biểu trưng của lời văn nghệ thuật. Khi không có mặt H2’2, mọi thông điệp ngôn từ trở nên dễ hiểu chứ không gập khúc, quanh co. Phạm Quốc Ca cho rằng loại câu thơ nói thẳng được chấp nhận có lẽ là do tâm lí đi nhanh đến hiệu quả của đời sống hiện đại. Thiết nghĩ, đó chưa phải là lí do cốt yếu cắt nghĩa cho sự hiện diện của thành phần miêu tả trực tiếp trong thơ mà chúng ta cần tìm hiểu nó trong mục đích muốn cung cấp một góc nhìn hiện thực, một nguồn tin phong phú cho thơ. 3. KẾT LUẬN Sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ở bình diện hình thể cấu trúc câu theo ba khuynh hướng nói trên ít nhiều đã tạo nên độ căng thẩm mĩ mới cho thơ. Thực ra, chức năng của thơ chỉ là khơi gợi những cảm xúc, suy tư, nhưng sự thẩm thấu chất văn xuôi ở cấu trúc bề mặt như thế đã đưa thơ tiếp cận với một chức năng mới, đó là chức năng định danh và biểu đạt. Giữ nguyên trục liên tưởng và thu nạp trục ngang, trục kết hợp của văn xuôi là yêu cầu của tư duy nghệ thuật mới nhằm tạo mối liên thông giữa thơ ca với cuộc đời.

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dấu ấn văn xuôi trong cấu trúc câu thơ việt Đương đại - Nguyễn Thanh Tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 02(18)/2011: tr. 41-48 DẤU ẤN VĂN XUÔI TRONG CẤU TRÚC CÂU THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI NGUYỄN THANH TÂM Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Thực tiễn sáng tạo thi ca sau 1975 cho thấy, dấu ấn văn xuôi đã in vào thơ thông qua việc thiết lập các mô hình cấu trúc mới của ngôn bản nghệ thuật. Sau những cuộc đối thoại, hoặc thầm lặng hoặc ầm ĩ, những lệch chuẩn của thơ đương đại so với thi pháp thơ truyền thống xuất hiện nhiều hơn. Có thể nói, những nét mới xét ở bình diện hình thể câu thơ là dấu hiệu bắt mắt nhất ghi nhận sự có mặt của chất văn xuôi trong cấu trúc thi ca. 1. MỞ ĐẦU Ra đời trong bầu không khí thực sự thoáng đãng, “không bị ràng buộc bởi những cấm kỵ dài dài”, thơ đương đại tạo nên ba dòng chảy: cách tân, đổi mới mạnh mẽ/ lặng lẽ cách tân trên cái nền truyền thống/ vẫn nặng lòng với những khuôn vàng thước ngọc xưa cũ. Tuy nhiên, dẫu đi theo hướng nào thì thơ Việt sau 1975 cũng đang vận động theo đúng tính chất động của thể loại. Không đơn giản là sự lặp lại những quy luật có tính loại hình, thơ đương đại đã mở cửa cho văn xuôi cộng cư trong “cương thổ” của mình. Từ đó, dấu ấn văn xuôi đã hằn lên trên tất cả các cấp độ của kết cấu thơ, trong đó phải kể đến bình diện cấu trúc câu thơ. 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA DẤU ẤN VĂN XUÔI TRONG CẤU TRÚC CÂU THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI 2.1. Khuynh hướng đẩy câu thơ đi theo trục ngang Ginsburg đã từng nói: "Đổi mới trữ tình là việc phá vỡ các mô hình mang tính quy phạm". Xét về mặt hình thể, cấu trúc ngôn từ văn xuôi rất khác biệt so với thơ. Nếu như thơ bị cố định trong những khuôn âm, khuôn luật nhất định thì câu văn xuôi thoát khỏi mọi ràng buộc. Không theo một cấu trúc nhất quán, câu văn xuôi được quyền "co duỗi" một cách tự nhiên mà không nề hà đến ranh giới dòng và câu. Tuy nhiên, xu hướng điển hình vận động trong thơ sau 1975 là sự hình thành những câu thơ tự do phóng túng hình hài. Nói cách khác, thơ đã thoát xác khỏi những ràng buộc của thơ cách luật để mở rộng về dung lượng từ ngữ: Những chiều xa quê tôi mong dòng sông nâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn giụa nước mưa sông (Nguyễn Quang Thiều, Sông Đáy) Chỉ bằng trực quan, người đọc cũng dễ nhận ra sự lệch chuẩn so với thơ truyền thống. Trước đây, người làm thơ chủ yếu dựa vào vần để tạo nhạc tính cho thơ. Tuy nhiên, các NGUYỄN THỊ THANH TÂM 42 nhà thơ sau 1975 tuyên bố đã: "Giã từ câu thơ trơn nhẵn tựa miếng gạch bông". Trong khi thơ truyền thống luôn ổn định về số lượng âm tiết và đều đặn về quãng ngắt hơi thì thơ đương đại lại có những khúc xạ mới. Không còn là những kết cấu luôn hướng tới “dập tắt sự dư thừa thuộc về ngôn ngữ”, câu thơ đương đại đang làm lớn mình bằng cách gia tăng số lượng âm tiết trong những dòng thơ. Những câu thơ như thế đã gợi lại trạng thái cấu trúc câu văn xuôi. Tuy nhiên, đó là sự giãn nở cần thiết để mọi cung bậc của trái tim "mất ngủ" kiểu như Nguyễn Quang Thiều được soi chiếu ở mọi nguồn lạch. Đó cũng chính là con đường "giải phóng câu thơ, tạo dáng lại cho câu thơ tiếng Việt" [2, 133]. Xét về mặt cấu trúc, câu văn xuôi còn khác thơ ở tính đa ngữ trong kết cấu câu. Thơ Việt sau 1975 đã chối bỏ những quy tắc ước lệ vốn đã được mã hoá của thể loại để "văn xuôi hoá câu thơ", tái tạo câu thơ trong tính văn xuôi nhằm chuyển tải hiệu quả tính chất phong phú, phức tạp của vận hội mới, cuộc sống mới. Một số tác giả đã có ý thức làm lỏng hoá những “điều cấm đoán” của lí luận thể loại để sử dụng cấu trúc văn xuôi nhằm bồi đắp cho thơ những khoảng trống thị giác mà thi pháp thể loại không cho phép. Nói cách khác, các tác giả đã cố tình phá luật để tạo sự nới giãn dòng thơ. Về hiện tượng này, Nguyễn Thái Hòa đã nhận định: "Các nhà thơ hầu như không tìm cách nén chữ, vặn lời, không cần phải rút ngắn, kéo dài các tín hiệu, lời nói thế nào cứ đặt nguyên xi như vậy, cốt chuyện cái tự nhiên, không cần gò bó để lấy cái ý, cái tứ của toàn bài" [1, 16]. Với việc để cho câu thơ trải rộng và dềnh dàng ra tưởng như buông thả, thi nhân cũng đồng thời muốn vượt qua nhạc tính bên ngoài để đi vào nhịp điệu bên trong: Và ông đã đánh thức tôi, Ginsberg, tôi ngủ mê như con chó thỉnh thoảng nói mớ, thỉnh thoảng vẫy đuôi, thỉnh thoảng tru lên những giấc mơ uất nghẹn. Và ông đã đánh thức tôi, con cú bìa rừng, giọt sương buổi sớm, tiếng rao đồng nát vọng từ kiếp trước, cơn gió vò xé những trang báo, những bản thảo mệnh yểu, tâng bốc truyền thông, chiếc xe đạp chạy qua ngày nắng gắt (Thanh Thảo, Và ông đã đánh thức tôi, Ginsberg) Với những dòng thơ như thế thì "yếu tố quyền uy" truyền thống của thơ là vần không còn được duy trì. Nói như Nguyễn Phan Cảnh, những tham số thanh học của ngôn ngữ đã không được tổ chức. Nhịp điệu, một "đặc ngữ" sống còn của thơ, đã chuyển dịch và vang âm theo kiểu khác. Thay vào đó là sự xác lập vai trò của ngữ điệu - một thứ nhịp điệu chủ yếu được dạo lên từ chính cảm xúc của con người. Một thời gian rất dài dưới sự thống trị của thơ cách luật, "yếu tố quyền uy" trong thơ là vần. Thơ sau 1975 có xu hướng thiết lập một thế lực mới, đó là uy quyền của ngữ điệu, nhịp điệu trong thơ. Và kì thực, đó nhiều khi không phải là nhịp điệu bên ngoài mà chủ yếu là nhịp điệu bên trong của cảm xúc. Trường ca Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái có những câu thơ làm xót lòng người: Ba mươi năm chị đi tìm mồ anh mà không tìm được Chị có lỗi gì đâu sao anh lại không về DẤU ẤN VĂN XUÔI TRONG CẤU TRÚC CÂU THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI 43 Giỗ tết người ta mua hương hoa viếng người thân trong nghĩa trang liệt sĩ Nén nhang chị thắp trời không Nỗi lòng của người phụ nữ thời hậu chiến nghe ra thật buồn tủi. Nhà thơ đang nói hộ nhân vật, đang phân trần thay chị bằng câu thơ Chị có lỗi gì đâu sao anh lại không về. Trong trường hợp này, xúc cảm chủ quan của nhà thơ đã can thiệp vào cấu trúc câu thơ, làm nên những dòng thơ dài lê thê như chính tiếng thở não ruột của những trái tim giàu lòng trắc ẩn. Đó chính là nhịp điệu sâu lắng bên trong của thơ, một chất thơ rất đẹp của cuộc đời. Với sự du nhập của cấu trúc câu văn xuôi, dòng thơ không còn là những khuôn hình ổn định về số lượng từ ngữ. Những phát ngôn bộn bề âm tiết đã án ngữ trong thơ. Tuy vậy, đó không phải là những "dòng chữ nằm dài chết ươn". Sự giãn nở số lượng từ ngữ để buông phóng tâm tình không đồng nghĩa với sự buông thả, bừa bãi. Những câu thơ phá thể ấy không phải là kết quả của lối viết tự động theo kiểu "tự nhiên nhi nhiên" của những nhà thơ lười lao động nghệ thuật. Với thi sĩ, đó là con đường để khai phóng mạch tâm tình: Có phải ác mộng không một ngày mặt trời rơi xuống thành sông, Anh cùng em bơi trong vị mặn Có phải huyễn hoặc không một ngày từ những đôi mắt hóa đá nàng Tô Thị nàng Vọng Phu òa chảy bao giọt hồi sinh, tình yêu nối gần tất cả Không phải bao giờ khóc cũng là đau khổ... (Vi Thuỳ Linh, Ở lại) Ở một góc độ nào đó, tính kiệm lời của thi ca đã bị phá vỡ từ sự xâm thực của thuộc tính văn xuôi này. Biên độ ngữ nghĩa cũng sẽ giãn ra chứ không căng như khi nhà thơ sáng tác theo một khuôn âm, khuôn luật. Nhờ thế, thi sĩ đã nói được rất nhiều điều, phổ được rất nhiều tâm sự vào thơ. Những câu thơ của Vi Thuỳ Linh đã cắm rễ từ nỗi đau xa xưa, mặc niệm nó và dự cảm cho đời mình. Từ những con chữ nối dài ấy, cảm hứng hồi sinh và niềm tin về chất keo dính của tình yêu cũng đã vỡ òa. 2.2. Khuynh hướng đẩy câu thơ đi theo trục kết hợp của văn xuôi Những ví dụ mà người viết đưa ra ở trên đều là những câu thơ nối dài xóa mất ranh giới giữa câu thơ và dòng thơ. Hiện trạng câu văn xuôi trong thơ, vì thế, dễ nhận diện ngay từ những ấn tượng thị giác ban đầu. Tuy nhiên, có rất nhiều câu thơ đã vượt sang lãnh địa văn xuôi bằng cách khác: Tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến vậy mà chưa được nếm bao giờ hàng quốc cấm nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm NGUYỄN THỊ THANH TÂM 44 mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua (Nguyễn Trọng Tạo, Tin thì tin không tin thì thôi) Dòng thơ ở đây đã có những phân đoạn đứt gãy. Nhưng nếu chúng ta tháo dỡ văn bản ra, xâu chuỗi các dòng thơ ấy lại sẽ có những câu văn xuôi trong cấu trúc trọn vẹn của nó. Nói như Mã Giang Lân, đó là hiện tượng "kéo dài câu thơ bằng lối xuống dòng không viết hoa chữ đầu dòng nhằm tạo ra những câu thơ theo chiều dọc". Phạm Thị Ngọc Liên là nhà thơ nữ có thói quen đưa văn xuôi vào thơ mình bằng con đường này: Có những lúc người ta nắm lấy cuộc sống bằng cả hai tay và hai chân cuộc sống vẫn chuội đi tuột xuống khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết như một màn sương nửa muốn đi qua nửa còn ngoái lại cái tức tưởi của những điều dở dang trên đời lẫn trong sự cô quạnh của đường đi dường như trộn lẫn (Mây trắng) Hiện tượng chia tách câu thơ thành nhiều dòng thơ như Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Thị Ngọc Liên trên đây là sự trá hình khôn ngoan của hình thái câu văn xuôi. Nói cách khác, đó là sự gãy gập của câu văn xuôi thành những phân đoạn từ ngữ nhỏ để tạo nên sự không tương ứng giữa câu thơ và dòng thơ. Điều phối cho sự không tương ứng ấy chính là trục kết hợp của thể loại văn xuôi. Đứng đằng sau, trục kết hợp lặng lẽ cắt câu thơ thành từng mảnh, từng phân mảnh. Quá trình triển khai câu thơ dựa trên quan hệ kế cận, tiếp nối của từ ngữ kiểu như thế chính là biểu hiện của việc hướng thơ đi theo trục kết hợp đặc thù của văn xuôi. Trục lựa chọn để bảo tồn nguyên lí song hành - nguyên lí ban sơ của thi ca không có mặt trong những câu thơ như thế này: Những phận người mang thèm khát, như mưa như triệu triệu hạt đan cài xoá nhoà ranh giới được hạnh phúc một lần oà vỡ từ đâu đó trong thẳm sâu của đất bay lên những ước vọng mây... DẤU ẤN VĂN XUÔI TRONG CẤU TRÚC CÂU THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI 45 (Nguyễn Phan Quế Mai, Ước vọng mây) Những âm tiết cuối cùng giữ chức năng là biên giới ngữ pháp của các dòng thơ không tạo ra những chuỗi âm thanh ”có kích thước đều đặn”. Âm, từ không đứng cùng nhau trong đơn vị dòng thơ mà xô nhau dạt sang những địa phận khác. Câu thơ bị chẻ nhỏ để hữu hình hoá khát vọng nức nở, khó khăn của phận người về một sự thăng hoa, thoát kiếp ra khỏi cuộc đời ngắn ngủi, chênh vênh - như mưa, được là mây sau hành trình hoá thân từ biển cả, sông ngòi, đồng ruộng, từ nước mắt sung sướng và khổ đau. 2.3. Khuynh hướng gia tăng thành phần thuyết minh, miêu tả trong cấu trúc câu thơ "Nếu văn xuôi dùng tiếng nói trực tiếp của đời sống để biểu đạt đời sống với tất cả sự bộn bề, đa dạng để tiếp cận cả chiều sâu lẫn chiều rộng của nó thì thơ là sự chưng cất từ bộn bề đa dạng trực tiếp ấy để gạn lấy cái tinh tuý nhất" (Từ điển Bách khoa Việt Nam). Gương mặt riêng của thơ trong tâm thức con người là thế. Chưng cất tinh tế các vỉa quặng ngôn từ để tạo nên một thế giới thật tinh túy, hàm súc là con đường nghệ thuật của thể loại này. Trong quá trình giải mã thơ theo kí hiệu học, thi pháp học, Hoàng Trinh đã xem "tính gián tiếp trong biểu hiện và phản ánh" là đặc thù quan trọng của thơ. Điều đó bắt nguồn từ tư duy nguyên thuỷ của con người là tư duy tái tạo lại các sự vật và hiện thực lịch sử bằng những huyền thoại, ẩn dụ và biểu tượng. Tuy vậy, chính tác giả cũng thừa nhận: "Dĩ nhiên, trong nhiều bài thơ vẫn có ngôn từ biểu hiện trực tiếp". [3, 94]. Nhận định này phù hợp với thực tiễn sáng tạo thơ sau 1975 - một thực tiễn ghi nhận sự hiện diện của thành phần thuyết minh, miêu tả trong câu thơ. Con đường giải tượng trưng, giải hàm súc thơ hình thành từ thiên hướng đi vào cái chi tiết, cụ thể hoá ấy. Thành phần thuyết minh, miêu tả vốn là đặc điểm của văn xuôi tự sự. Thành phần này có chức năng tái hiện và phân tích các sự vật, hiện tượng để làm giàu khả năng tường giải cho tác phẩm. Giờ đây, thành phần này đã lần lượt ngả bóng vào thơ với tần số không hề nhỏ: “Lần trước tiễn em đi – một chuyến tàu chật chội: người đứng tràn đầu toa, những toa đen nồng mùi mồ hôi và mùi lợn gà, cánh đi buôn ồn ào chất hàng, vài ba kẻ khả nghi lang thang trên sân ga. Anh nhìn theo, lo âu xót xa: dòng nước bất trắc kia đang cuốn đi khuất dần chiếc thuyền giấy mỏng manh trong trắng tình yêu anh” (Bế Kiến Quốc, Trước cửa ga). Thành phần miêu tả án ngữ dày trên những dòng thơ đã tạo nên sự không cân bằng về mặt cấu trúc câu. Tồn tại trong hiện tượng này, thành phần chủ ngữ chỉ là vệt nhỏ còn thành phần vị ngữ lại chiếm phần lớn khoảng không của câu thơ: Hắn là nơi hoàn thiện: của gương đã lành / sâu đã nở / trinh đã mất / cáp đã đứt / cống đã thông là phế thải của giẻ rách / mảnh thuỷ tinh / băng vệ sinh / giày dép lạc mốt là viên đạn bay đi chạm đích / những vòng kinh hồi sinh / dòng sông gặp biển (Mai Văn Phấn, Hắn) NGUYỄN THỊ THANH TÂM 46 Hoài Thanh khi nhìn nhận lại "Một thời đại trong thi ca" đã không ngần ngại khẳng định: "Một đặc tính của văn xuôi là nói nhiều”. Xuất hiện trong thơ như là dấu ấn của chất văn xuôi, thành phần này đã lấp những khoảng lặng của thơ bằng những bức tranh sinh động về hiện thực. Những lúc như thế, thi sĩ trở thành kẻ nhiều lời. Nhưng bên cạnh nhược điểm ấy, chúng ta phải ghi nhận sự phong phú về dung lượng thông tin mà thành phần miêu tả mang đến cho thơ. Dường như, các nhà thơ e ngại rằng sự chắt lọc và tinh giản sẽ làm trôi đi những mảng hiện thực đa dạng và phong phú nên đã tự nguyện... đội lốt nhà văn. Bức tranh về hiện thực khách quan theo đó cứ lồ lộ trên mỗi trang thơ, còn tâm tư nhân vật chỉ là những vệt khuất nhỏ. Đi theo con đường này có Thế giới hiện hữu của Vi Thùy Linh: Hàng triệu người điên lên theo mãnh lực của phần mềm Microsoft Những tâm hồn đang được mã hóa với nhịp điệu sống lập trình Ngày đêm, những nơron thần kinh căng cứng cập nhật dữ liệu Con người không ngây thơ, không nhiều mơ ước và mất dần lãng mạn Màu dollar sắp nhuộm cả da trời. Những câu thơ trên là sự thức nhận rộng rãi về thế giới khách quan. Cái nhìn hướng ngoại giúp nhà thơ quan sát và phát hiện bao điều về thế giới hiện hữu. “Trái đất như cái cối xay rất cũ” quay những vòng nặng nề kéo theo sự thay đổi của thời tiết, khí hậu, cảnh quan, phận người và tính người Những dòng thơ sau đã trả đối tượng về đúng không gian thực của nó, trần trụi trong sự thật đau đáu: Con người tiếp tục ăn thịt nhiều loài và tàn phá môi trường sống mà bất cần tương lai của thế hệ kế tiếp Tham vọng khiến họ loại trừ nhau, ném bom xả đạn vào đồng loại Những tổng thống ngạo nghễ với va - li bấm nút hạt nhân và chất hủy diệt “Mẹ ơi, loài nào độc ác hơn tất cả? Một mai, tôi sẽ phải im lặng trước câu hỏi của con mình” Những câu thơ như thế là sự chuyển vị hiệu quả điểm nhìn của nhà viết văn xuôi vào thơ. Với điểm nhìn này, gương mặt đối tượng khách quan hiện lên trong thơ thật dày dặn, đủ đầy. Thành phần miêu tả trực tiếp tồn tại với tư cách là cái vỏ ôm chứa hình hài một đối tượng ẩn mình khác là con đường rất cổ điển, rất thơ của thể loại đã được quá nhiều nhà lí luận, nhà ngôn ngữ tìm hiểu. Ở đây, người viết chủ yếu quan tâm đến lối miêu tả trực diện sự vật theo nghĩa đen. Đẩy câu thơ đi theo trục kết hợp của văn xuôi để xây dựng những hình tượng trực tiếp (eigentlich) với ý đồ miêu tả thế giới một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng trong những đặc thù cụ thể là con đường không thuận chiều của thi ca. Quả thực, sứ mạng của thơ khác biệt rõ so với văn xuôi, tuy nhiên không vì thế mà thơ không có quyền mượn đôi mắt văn xuôi để quán chiếu thế giới: DẤU ẤN VĂN XUÔI TRONG CẤU TRÚC CÂU THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI 47 Giữa chiều lạnh Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời Vội vã như thể đó là lần sau chót... (Ý Nhi, Người đàn bà ngồi đan) Ý Nhi đã huy động nhiều động từ, tính từ để miêu tả trực diện đối tượng nhằm đan dệt chân dung và tâm trạng người đàn bà ngồi đan. Không một chút giấu giếm, nhà thơ đã lí giải tường tận về hai thái cực nhẫn nại và vội vã của nhân vật. Đó chính là "chủ tâm cố tính ra sức giằng ra khỏi cách biểu đạt trừu tượng và lao vào cái thực tế sinh động và cụ thể". Từ đó, những lớp tạo hình được tổ chức theo nguyên tắc quan sát, miêu tả cụ thể đã "dàn trận " trong thơ. Tư duy lí luận thường xem xét chỉnh thể nghệ thuật trong tương quan giữa hai lớp hiện thực: lớp hiện thực một là hiện thực ở ngoài đời, lớp hiện thực hai là hiện thực trong tác phẩm (tạm kí hiệu là H1, H2). Từ quan điểm trên chúng tôi cho rằng, cần phải có cái nhìn cắt lớp đối với mảng hiện thực thứ hai. Hay chăng, nên xem H2 là sự kết hợp giữa hiện thực bề nổi (nghĩa đen) tương ứng với H2’1 và hiện thực biểu trưng (nghĩa bóng) tương ứng với H2’2. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy rõ hơn dấu ấn của văn xuôi trong mỗi sinh mệnh thi ca xét về mặt hình thể. Những câu thơ miêu tả chi tiết, trực tiếp đối tượng trong thơ rất gần với văn xuôi ở xu hướng làm mất đi hiện thực biểu trưng của lời văn nghệ thuật. Khi không có mặt H2’2, mọi thông điệp ngôn từ trở nên dễ hiểu chứ không gập khúc, quanh co. Phạm Quốc Ca cho rằng loại câu thơ nói thẳng được chấp nhận có lẽ là do tâm lí đi nhanh đến hiệu quả của đời sống hiện đại. Thiết nghĩ, đó chưa phải là lí do cốt yếu cắt nghĩa cho sự hiện diện của thành phần miêu tả trực tiếp trong thơ mà chúng ta cần tìm hiểu nó trong mục đích muốn cung cấp một góc nhìn hiện thực, một nguồn tin phong phú cho thơ. 3. KẾT LUẬN Sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ ở bình diện hình thể cấu trúc câu theo ba khuynh hướng nói trên ít nhiều đã tạo nên độ căng thẩm mĩ mới cho thơ. Thực ra, chức năng của thơ chỉ là khơi gợi những cảm xúc, suy tư, nhưng sự thẩm thấu chất văn xuôi ở cấu trúc bề mặt như thế đã đưa thơ tiếp cận với một chức năng mới, đó là chức năng định danh và biểu đạt. Giữ nguyên trục liên tưởng và thu nạp trục ngang, trục kết hợp của văn xuôi là yêu cầu của tư duy nghệ thuật mới nhằm tạo mối liên thông giữa thơ ca với cuộc đời. NGUYỄN THỊ THANH TÂM 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thái Hòa (1996). Đi tìm cái mới trong biểu đạt thơ Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua. Tạp chí Văn học, số 7, 16-20. [2] Trần Đình Sử (1995). Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo dục, Hà Nội. [3] Hoàng Trinh (1992). Từ kí hiệu học đến thi pháp học. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. Title: THE STAMP OF PROSE IN THE STRUCTURE OF CONTEMPORARY VIETNAMESE VERSES Abstract: Interaction is an internal specific feature of a genre in the course of getting rid of logic traditional art to look for innovation and creativity. The reality of poetic composition after 1975 has shown that the stamp of prose has been imposed on poetry through the establishment of new structural patterns of the artic texts. After quite or hectic conversation, more divergence of contemporary poems in comparison with traditional poetry has come into being. It can be said that the prose patterns in poems are the most eye – catching signal that acknowledges the presence of the quality of prose in poetic structures. ThS. NGUYỄN THANH TÂM Bộ môn Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. ĐT: 0908.898.845. Email: nguyenthanhtamtu@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf15_219_nguyenthanhtam_09_nguyen_thanh_tam_4495_2021003.pdf
Tài liệu liên quan