Cơ cấu đàn bò H’Mông nuôi tại huyện Bảo
Lâm của tỉnh Cao Bằng cho thấy số lượng
bò H’Mông trên 36 tháng tuổi chiếm
48,25%, còn lại 51,75% là bò dưới 36 tháng
tuổi. Tỷ lệ giữa bò đực giống và cái sinh
sản không hợp lý (1:3,2), nguyên nhân là do
mục đích của chăn nuôi bò H’Mông chủ
yếu để cày kéo.
Khối lượng của bò H’Mông nuôi ở huyện
Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng đạt mức độ trung
bình, ở 36 tháng tuổi con đực là 250,23 kg
và con cái là 202,11 kg và có khối lượng
thấp hơn rất nhiều so với bò H’Mông nuôi
tại Hà Giang. Khả năng sinh trưởng thấp
giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi ở con
đực là 406,16 g/con/ngày và con cái là
341,50 g/con/ngày. Nguyên nhân khối
lượng nhỏ và khả năng sinh trưởng thấp có
thể do công tác giống không được quan
tâm, giao phối cận huyết ảnh hưởng lớn đến
tầm vóc của bò Mông.
Khả năng sinh sản của bò cái H’Mông nuôi
tại Bảo Lâm là khá tốt, tuy nhiên tuổi động
dục lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu chậm hơn so
với bò H’Mông nuôi ở tỉnh Hà Giang.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 175 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thực trạng đàn bò H’Mông nuôi trong nông hộ tại huyện Bảo Lâm tỉnh Cao Bằng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
113
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ H’MÔNG NUÔI TRONG NÔNG HỘ
TẠI HUYỆN BẢO LÂM TỈNH CAO BẰNG
Trần Văn Thăng1*, Mai Anh Khoa2,
Nguyễn Thu Phương1, Nguyễn Hưng Quang1,
Trần Huê Viên1, Nguyễn Hữu Trà3, Nguyễn Hữu Cường4
1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên,
3Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, 4Bộ Khoa học và Công nghệ
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành trên đàn bò H’Mông nuôi tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng nhằm
đánh giá thực trạng đàn bò tại đây. Các chỉ tiêu nghiên cứu gồm có: cơ cấu đàn bò H’Mông, khối
lượng và kích thước một số chiều đo, một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của bò cái. Từ kết quả nghiên
cứu là cơ sở khoa học giúp cho công tác chọn lọc, nhân giống và khai thác nguồn gen bò H’Mông
để phát triển đàn bò cả về số lượng và chất lượng. Kết quả khảo sát cho thấy cơ cấu đàn bò
H’Mông chưa thực sự hợp lý, vì số lượng bò H’mông trên 36 tháng tuổi chiếm 48,25%, còn
lại 51,75% là bò dưới 36 tháng tuổi. Tỷ lệ giữa bò đực giống và cái sinh sản là 1:3,2. Bò
H’Mông có khối lượng ở mức độ trung bình, ở 36 tháng tuổi con đực là 250,23 kg và con cái
là 202,11 kg và khối lượng này thấp hơn rất nhiều so với bò H’Mông nuôi tại Hà Giang. Khả
năng sinh trưởng thấp giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi ở con đực là 406,16 g/con/ngày và
con cái là 341,50 g/con/ngày. Khả năng sinh sản của bò cái H’Mông nuôi tại Bảo Lâm là khá
tốt, tuy nhiên tuổi động dục lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu chậm hơn so với bò H’Mông nuôi ở
tỉnh Hà Giang.
Từ khóa: Bò H’Mông; Cơ cấu đàn; Kích thước các chiều đo; Sinh trưởng; Sinh sản
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Bò H’Mông là nhóm giống bò do người
H’Mông sống ở khu vực miền núi phía Bắc
tạo nên từ lâu đời. Giống bò này được phân
bố ở các tỉnh như: Hà Giang, Bắc Kạn, Cao
Bằng, Lai Châu, Sơn La, trong đó tập trung
cao ở địa bàn vùng cao núi đá Hà Giang.
Cùng với người H’Mông, bò H’Mông sinh
sống bán cô lập ở độ cao trên 1000 m so với
mực nước biển, nên chúng ít bị lai tạp với các
giống bò khác. Giống bò H’Mông có ưu thế
thích nghi cao với điều kiện sinh thái khô lạnh
của vùng cao, cũng như với các điều kiện
chăm sóc nuôi dưỡng theo tập quán của người
dân vùng cao. Bò H’Mông có khả năng sản
xuất thịt tốt, được cho là con "bò siêu thịt"
của Việt Nam. Khả năng sản xuất thịt của bò
H'Mông cao hơn hẳn các giống bò địa phương
khác của nước ta, thịt bò H'Mông thơm ngon
và mềm. Bò H’Mông có tỉ lệ thịt xẻ khá cao:
52,12%, tỉ lệ thịt tinh đạt 40,33%, so với bò
Vàng tỉ lệ này là 42% và 33% [5], tuy nhiên
* Tel: 0962 827268, Email: tranvanthang68@yahoo.com
nó vẫn thấp hơn các giống bò chuyên thịt
nhập nội [1].
Cao Bằng là một tỉnh miền núi, nằm ở phía
Đông Bắc Việt Nam có tiềm năng phát triển
chăn nuôi đại gia súc, đặc biệt là giống bò
H’Mông đã được chăn nuôi từ rất lâu đời ở
đây. Chúng được nuôi tập trung chủ yếu ở các
huyện Bảo Lâm, Bảo Lạc, Nguyên Bình và
Trùng Khánh. Tuy nhiên, theo Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cao Bằng
năm 2012 tổng đàn bò là 121.092 con, so với
cùng kỳ năm 2011 giảm 1.481 con (-1,21%).
Nguyên nhân tổng đàn bò của tỉnh giảm mạnh
là do xu thế cơ giới hoá trong sản xuất nông
nghiệp đã làm giảm số lượng bò cày kéo và
do số lượng bò bán và giết mổ tăng. Bên cạnh
đó, chất lượng đàn bò cũng suy giảm do hiện
tượng chọn lọc ngược vì những con bò to béo
được bán cho giết thịt còn những con nhỏ bé
thì để lại làm giống. Do đó vấn đề cần đặt ra
trong thời điểm hiện nay đối với tỉnh Cao
Bằng là chọn lọc, nhân giống và khai thác
nguồn gen bò H’Mông để phát triển đàn bò cả
về số lượng và chất lượng.
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
114
Xuất phát từ những thực tế trên, để có định
hướng và chiến lược phát triển chăn nuôi bò
trong thời gian tới thì việc đánh giá thực trạng
đàn bò để từ đó có biện pháp kỹ thuật cần
thiết nâng cao số lượng và chất lượng đàn bò
là cần thiết và cấp bách.
VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Bò H’Mông được nuôi trong các hộ chăn
nuôi huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng ở các
lứa tuổi.
Địa điểm, thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện bằng
cách điều tra, khảo sát và bố trí theo dõi trong
các hộ chăn nuôi bò H’Mông thịt trên địa bàn
huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
- Thời gian: 1/2011 - 12/2012
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng tình hình chăn nuôi bò
tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng của bò
H’Mông nuôi tại nông hộ.
- Đánh giá khả năng sinh sản của bò H’Mông
nuôi tại nông hộ.
Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu
- Thông tin thứ cấp được thu thập từ các
nguồn báo cáo hoạt động chăn nuôi bò tại các
cơ quan quản lý của huyện trong thời gian
gần đây.
- Thông tin sơ cấp về tình hình chăn nuôi ở
nông hộ được thu thập thông qua điều tra tại
các hộ nông dân nuôi bò H’Mông tại huyện
Bảo Lâm tỉnh Cao Bằng.
- Chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu sinh
trưởng của bò như sau:
+ Xác định khối lượng bê bằng cách cân trực
tiếp. Khối lượng của bò được tính dựa trên số
liệu và kích thước các chiều đo theo công
thức P(kg) = 90 Vòng ngực2 (m) Dài thân
chéo (m) (± 5%)
+ Sinh trưởng tuyệt đối: Biểu hiện sự tăng
khối lượng, kích thước cơ thể trong một đơn
vị thời gian và được tính theo công thức:
W2 -W1
R =
t2 - t1
Trong đó: R: sinh trưởng tuyệt đối (g/ngày)
W1, W2: Khối lượng ban đầu và kết thúc
t1 , t 2: Thời gian ban đầu và thời gian kết thúc
+ Xác định kích thước các chiều đo như vòng
ngực, dài thân chéo, cao vây bằng thước dây
và thước gậy.
+ Khả năng sinh sản của đàn bò cái: Tuổi đẻ lứa
đầu; Khoảng cách hai lứa đẻ được tiến hành
bằng cách theo dõi và điều tra tại nông hộ.
Xử lý số liệu
Tất cả các số liệu được mã hóa, quản lý bằng
phần mềm Microsoft Office Excel và xử lý
bằng phần mềm Minitab 14. Các tham số
thống kê trình bày trong các bảng kết quả bao
gồm: Dung lượng mẫu (n), trung bình cộng
( ), sai số của số trung bình ( ).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Cơ cấu đàn bò H’Mông nuôi tại huyện Bảo
Lâm, tỉnh Cao Bằng
Số liệu ở bảng trên cho thấy trong 1.177 con
bò của huyện có 710 con bò cái, chiếm
60,32% và số bò đực là 467 con, chiếm
39,68%. Như vậy số lượng bò cái gấp 1,52
lần số lượng bò đực. Điều này cho thấy đây là
điều kiện thuận lợi cho sự tăng số lượng đàn
bò. Tuy nhiên, số lượng bò đực dưới 36 tháng
tuổi chiếm 28,22% cao hơn chút ít so với bò
cái trong độ tuổi (25,23%). Kết quả này cho
thấy số lượng bê đực sinh ra chiếm tỷ lệ cao
hơn so với bê cái. Khi so sánh bò cái trên 36
tháng tuổi và bò đực thì thấy bò cái chiếm
36,78%, còn bò đực chỉ chiếm 11,47%. Tỷ lệ
bò đực trong độ tuổi sinh sản so với bò cái
sinh sản của huyện Bảo Lâm là 1: 3,2. Tuy
nhiên, tỷ lệ bò đực giống so với bò cái sinh
sản thích hợp nhất là 1:15 trong chăn nuôi
công nghiệp. Điều này cho thấy một thực tế là
bò H’Mông đực ở đây chủ yếu nuôi để cầy
kéo, không nuôi để làm giống nhưng vẫn
tham gia vào quá trình sinh sản. Đây là một
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
115
trong những nguyên nhân làm cho tầm vóc và
khối lượng của đàn bò sau này giảm sút, điều
này cũng phù hợp với các đánh giá và khuyến
cáo trước đây tại các địa phương khác [2].
Khả năng sinh trưởng của đàn bò H’Mông
nuôi tại Bảo Lâm
Sinh trưởng của bò là một tính trạng quan
trọng chịu sự chi phối của tính di truyền và
điều kiện ngoại cảnh. Hệ số di truyền của tính
trạng h2 = 0,3 - 0,6 [8]. Tính trạng sinh trưởng
được nghiên cứu khá phổ biến, khối lượng,
kích thước các chiều đo trên cơ thể gia súc là
các tính trạng được dùng để đánh giá khả
năng sản xuất và sự phát triển cân đối của cơ
thể con vật. Tính trạng này liên quan tới khả
năng sản xuất thịt của bò và cũng là chỉ tiêu
phản ánh giá trị kinh tế quan trọng của chúng.
Kết quả bảng 2 cho thấy: Khối lượng sơ sinh
con đực đạt 17,34 kg và con cái đạt 16,87 kg,
hơn nhau 2,79%, bò đực đến thời điểm 6
tháng con đực đạt 87,45 kg, con cái đạt 78,34
kg, hơn nhau 11,63%, nhưng đến 12 tháng tỷ
lệ giữa con đực và con cái tăng lên 14,43%.
Nghiên cứu ở Hà Giang cho thấy khối lượng
sơ sinh của bê tại Hà Giang con cái 18,2 kg
và con đực 21,2 kg, khối lượng đến 12 tháng
tuổi con cái đạt 181,5 kg và con đực là 187,0
kg [7]. Như vậy khối lượng của bò ở Bảo
Lâm với bò ở Hà Giang là thấp hơn khá rõ rệt
ở cùng độ tuổi. Đến 36 tháng tuổi, bò đực có
khối lượng 250,23 kg và bò cái có khối lượng
202,11 kg, sự chênh lệch này là rõ rệt
(P<0,05). Kết quả nghiên cứu này chỉ ra bò
H’Mông ở Bảo Lâm có khối lượng nhỏ hơn
khá rõ rệt so với kết quả nghiên cứu ở Hà
Giang [7], khối lượng bò 36 tháng ở Hà
Giang con cái 280,7 kg, con đực 371,5 kg.
Tuy nhiên, một nghiên cứu trước đã cho biết
[5] bò đực H’Mông có khối lượng 400 - 450
kg, bò cái 220 - 250 kg. Như vậy so với kết quả
điều tra trước khối lượng bò H’Mông đã có xu
hướng giảm khối lượng, nguyên nhân có thể do
công tác chọn lọc, chọn phối và quản lý đàn bò
không được quan tâm chú trọng.
Bảng 1. Cơ cấu đàn bò H’Mông nuôi tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng
Địa điểm
(xã)
Số
lượng
bò
(con)
Bò cái (con) Bò đực (con)
Tổng số
<12
tháng
12-36
tháng
>36
tháng
Tổng số
<12
tháng
12-36
tháng
>36
tháng
Thái Học 318 198 40 40 118 120 36 62 22
Thái Sơn 239 143 30 29 84 96 30 36 30
Nam Quang 120 75 12 15 48 45 13 17 15
Tân Việt 134 86 15 17 54 48 16 15 17
Quảng Lâm 137 87 18 17 52 50 15 27 8
Thạch Lâm 127 78 13 16 49 49 12 17 20
Thái Học 102 43 7 9 27 59 8 28 23
Tổng số 1177 710 135 142 433 467 130 202 135
% so với tổng đàn 11,47 12,06 36,78 11,06 17,16 11,47
% theo tính biệt 60,32 39,68
Bảng 2. Khối lượng của bò H’Mông qua các giai đoạn tuổi
Tuổi bò
(tháng)
Bò đực Bò cái So sánh
n
(con)
n
(con)
♂/♀ (kg) (%)
Sơ sinh 63 17,34 1,64a 66 16,87 1,67a 0,47 2,79
6 67 87,45 1,65a 69 78,34 2,45a 9,11 11,63
12 87 135,67 1,56a 30 118,56 3,56a 17,11 14,43
24 44 196,77 2,78a 66 165,08 3,56a 31,69 19,20
36 71 250,23 3,56a 46 202,11 4,57b 48,12 23,81
>36 135 306,73 5,78a 433 230,78 6,78b 75,95 32,91
* Các số trung bình mang chữ cái a, b khác nhau trên cùng một hàng ngang thì khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05)
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
116
Bảng 3: Sinh trưởng tuyệt đối của bò H’Mông nuôi tại Bảo Lâm (gam/con/ngày)
Giai đoạn
(tháng tuổi)
Cái
Đực
SS - 6 341,50 406,16
> 6 - 12 223,44 251,22
>12 - 24 127,45 167,39
>24 - 36 101,45 146,46
>36 - 48 78,54 154,79
Trung bình từ SS - 48 146,5 198,21
Bảng 4: Kích thước một số chiều đo chính của bò H’Mông nuôi tại Bảo Lâm
Tính
biệt
Tuổi
(tháng)
n
(con)
Vòng ngực (cm)
Dài thân chéo (cm)
Cao vây (cm)
Đực
Sơ sinh 63 78,45 3,45 65,33 2,78 72,78 3,23
6 67 98,77 3,65 88,45 2,89 88,45 3,67
12 87 120,89 2,45 95,66 2,92 97,34 3,98
24 44 144,23 3,76 105,57 3,89 100,56 4,78
36 71 148,44 4,70 112,82 4,56 112,23 5,65
>36 135 165,34 4,80 115,62 4,98 117,91 5,89
Cái
Sơ sinh 66 73,56 2,67 63,45 3,78 70,61 2,78
6 69 89,78 2,87 87,23 3,67 82,34 3,45
12 30 118,68 3,89 92,45 3,90 96,32 3,89
24 66 135,24 3,78 98,23 4,67 99,12 4,78
36 46 143,45 4,36 103,12 5,17 102,89 4,65
>36 433 160,71 7,89 112,12 5,23 114,02 4,78
Bảng 5: Khả năng sinh sản của bò cái giống H’Mông huyện Bảo Lâm
Chỉ tiêu n (con)
Tuổi động dục lần đầu (tháng) 212 26,68 10,45
Tuổi đẻ lứa đầu (tháng) 318 36,78 9,46
Động dục lại sau đẻ (tháng) 178 3,58 7,98
Khoảng cách lứa đẻ (tháng) 105 12,79 6,45
Sinh trưởng tuyệt đối của bò H’Mông nuôi tại
Bảo Lâm ở giai đoạn sơ sinh - 6 tháng tuổi
đạt cao nhất từ 341,5 - 406,16 g, sau đó sinh
trưởng tuyệt đối có xu hướng giảm dần đến
giai đoạn 36 - 48 tháng tuổi chỉ còn 78,54 g ở
con cái và 154,79 g ở con đực. Bò đực sinh
trưởng tuyệt đối cao hơn so với bò cái.
Sự thay đổi của sinh trưởng tuyệt đối như trên
hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng
phát triển theo giai đoạn của gia súc. Giai
đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi là giai đoạn
gia súc non có quá trình sinh trưởng, phát
triển mạnh, nguồn thức ăn được cung cấp từ
nguồn sữa mẹ có hàm lượng dinh dưỡng cao.
Đến giai đoạn 6 -12 tháng tuổi, bê được cho
cai sữa, nguồn thu nhận dinh dưỡng qua sữa
mẹ không còn, khả năng tiếp thu chất dinh
dưỡng qua thức ăn còn hạn chế nên việc tăng
khối lượng giảm so với giai đoạn trước đó là
điều không thể tránh khỏi.
Một số kích thước một số chiều đo chính
của bò H’Mông nuôi tại Bảo Lâm
Để đánh giá sự phát triển của cơ thể bò
H’Mông qua các giai đoạn tuổi, chúng tôi tiến
hành xác định kích thước các chiều đo vòng
ngực, dài thân chéo, cao vây. Vòng ngực của
bò H’Mông có sự tăng dần theo tháng tuổi,
tuân theo quy luật sinh trưởng phát triển theo
giai đoạn. Dài thân chéo tương quan thuận
với khối lượng của bò, vì vậy người ta sử
dụng chiều đo dài thân chéo của bò để tính
toán khối lượng của gia súc.
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
117
Kết quả ở bảng 4 cho thấy: Vòng ngực của bò
đực cao hơn bò cái trong tất cả các giai đoạn
phát triển. Theo một số tác giả [6], chiều đo
vòng ngực có tương quan chặt chẽ với khối
lượng của bò (r > 0,85), do vậy trong thực tế
thường sử dụng chiều đo vòng ngực để xây
dựng công thức tính khối lượng cho bò thịt.
Kích thước vòng ngực không những chỉ phụ
thuộc vào chất lượng giống mà yếu tố chăm
sóc nuôi dưỡng cũng có tác động rất lớn. Ở
bò nuôi theo dõi với chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng tốt, ổn định, vòng ngực lớn hơn bò
nuôi trong nông hộ [3]. Nghiên cứu trên đàn
bò Brahman nuôi trong nông hộ ở Bình Định
[9] cho kết quả trung bình kích thước các
chiều đo: lúc 6 tháng tuổi vòng ngực 116,8
cm; lúc 12 tháng tuổi vòng ngực 131,7cm. So
với các kết quả trên thì kết quả nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn rõ rệt. Như vậy, việc
đánh giá một số chỉ tiêu về hình thể của bò
H’Mông: Cao vây, vòng ngực và so sánh
với bò Brahman, là giống bò sản xuất thịt cho
năng suất cao. Chúng tôi nhận thấy bò
H’Mông có các số đo hình thể không thua
kém nhiều so với giống bò Brahman.
Một số chỉ tiêu sinh lý sinh sản của bò cái
giống H’Mông ở các lứa tuổi
Bò vàng Việt Nam nói chung, bò H’Mông
nói riêng có khả năng sinh sản tốt. Thường 18
- 24 tháng tuổi bò đã động dục và có khả năng
phối giống [4]. Kết quả khảo sát khả năng
sinh sản của bò cái giống H’Mông tại Bảo
Lâm, Cao Bằng được thể hiện tại bảng sau.
Tuổi đẻ lứa đầu có tác động tốt đến nâng cao
năng xuất của bò khi vào thời kỳ sinh sản, bò
H’Mông nuôi tại Bảo Lâm có tuổi động dục
lần đầu là 26,68 tháng, tuổi đẻ lứa đầu là
36,78 tháng. So với kết nghiên cứu trước đó
[12] thì bò H’Mông nuôi tại Bảo Lâm có tuổi
đẻ lứa đầu chậm hơn chút ít. Động dục lại sau
đẻ cho phép rút ngắn khoảng cách lứa đẻ, thời
gian động dục lại sau đẻ của bò H’Mông nuôi
tại Bảo Lâm là 3,58 tháng, so với kết quả
nghiên cứu của một số tác giả khác [10] về bò
vàng Việt nam thời gian động dục lại sau đẻ
là 4,27 tháng. Như vậy bò H’Mông nuôi ở
Bảo Lâm có thời gian động dục lại sau đẻ
sớm hơn và điều này có thể được giải thích là
do điều kiện vùng cao có nguồn thức ăn dồi
dào nên góp phần rút ngắn khoảng cách lứa
đẻ chỉ còn 12,79 tháng.
KẾT LUẬN
Cơ cấu đàn bò H’Mông nuôi tại huyện Bảo
Lâm của tỉnh Cao Bằng cho thấy số lượng
bò H’Mông trên 36 tháng tuổi chiếm
48,25%, còn lại 51,75% là bò dưới 36 tháng
tuổi. Tỷ lệ giữa bò đực giống và cái sinh
sản không hợp lý (1:3,2), nguyên nhân là do
mục đích của chăn nuôi bò H’Mông chủ
yếu để cày kéo.
Khối lượng của bò H’Mông nuôi ở huyện
Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng đạt mức độ trung
bình, ở 36 tháng tuổi con đực là 250,23 kg
và con cái là 202,11 kg và có khối lượng
thấp hơn rất nhiều so với bò H’Mông nuôi
tại Hà Giang. Khả năng sinh trưởng thấp
giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi ở con
đực là 406,16 g/con/ngày và con cái là
341,50 g/con/ngày. Nguyên nhân khối
lượng nhỏ và khả năng sinh trưởng thấp có
thể do công tác giống không được quan
tâm, giao phối cận huyết ảnh hưởng lớn đến
tầm vóc của bò Mông.
Khả năng sinh sản của bò cái H’Mông nuôi
tại Bảo Lâm là khá tốt, tuy nhiên tuổi động
dục lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu chậm hơn so
với bò H’Mông nuôi ở tỉnh Hà Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Cải (2006), “Kết quả nghiên cứu
nhân thuần giống bò thịt Drought Master nhập
nội nuôi tại một số tỉnh phía nam”, Tạp chí
Chăn nuôi, số 1.
2. Nguyễn Kim Đường (2008), “Một số vấn đề hiện
trạng chăn nuôi bò ở Nghệ An”. Tạp chí Khoa học,
Công nghệ Chăn nuôi. Số 13, trang 12-19.
3. Phạm Thế Huệ (1997), Nghiên cứu một số tính
trạng năng suất chủ yếu của bò Địa phương và bò
lai F1 (Red Sindhi × bò Địa phương) tại Đăk Lăk,
Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp.
4. Lê Quang Nghiệp (1984), Một số Đặc điểm
chung về sinh trưởng, cày kéo, cho thịt của bò
Trần Văn Thăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 113 - 118
118
vàng Thanh Hóa và kết quả lai với bò Zebu, Luận
án Phó Tiến sỹ Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Niêm, Đỗ Hữu Hoan, Lưu Công
Khánh và Đỗ Xuân Cốn, (2001), “Đặc điểm sinh
học, khả năng sản xuất và phát triển chăn nuôi bò
vàng Hà Giang tại các tỉnh miền núi phía Bắc”,
Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1999-2000, Nhà
xuất bản Hà nội, Tr. 92 – 105.
7. Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương,
và Nguyễn Quốc Đạt (1995), “Kết quả lai kinh tế
bò thịt các tỉnh phía Nam” Nuôi bò thịt và những
kết quả bước đầu nghiên cứu bước đầu ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Nguyễn Đàm Thuyên (2012), Nghiên cứu một
số đặc điểm sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt
của bò H'Mông nuôi tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà
Giang, Luận văn Thạc sĩ khoa học nông nghiệp,
Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
9. Nguyễn Xuân Trạch (2007), Giáo trình chăn nuôi
trâu bò, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
10. Hoàng Văn Trường (2001), “Kết quả nghiên
cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản của bò lai
Brahman nuôi tai tỉnh Bình Định”, Báo cáo khoa
học Chăn nuôi Thú y. TP Hồ Chí Minh 10 -
12/4/2001.
11. Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Quốc Đạt,
Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Thanh Bình
(2008), “Một số chỉ tiêu sinh sản của bò Brahman
và Drought Master ngoại nhập 3 lứa Đầu nuôi tại
thành phố Hồ Chí Minh và khả năng sinh trưởng
của bê sinh ra từ chúng”. Tạp chí Khoa học Công
nghệ chăn nuôi, Viện chăn nuôi. Số 15, tr. 16-23.
12. Trần Xuân Vũ (2012), Nghiên cứu một số đặc
điểm sinh sản của bò H’Mông nuôi tại huyện
Đồng Văn tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ khoa
học nông nghiệp, Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
SUMMARY
EVALUATION ON CURRENT H’MONG CATTLE HERD REARING AT
HOUSEHOLD IN BAO LAM DISTRICT, CAO BANG PROVINCE
Tran Van Thang1*, Mai Anh Khoa2,
Nguyen Thu Phuong1, Nguyen Hung Quang1,
Tran Hue Vien1, Nguyen Huu Tra3, Nguyen Huu Cuong4
1College of Agriculture and Forestry – TNU, 2Thai Nguyen University,
3Research and development centers of mountainous livestock,
4Ministry of Science and Technology
The study was carried out on the H’Mong cattle herds rearing at households in Bao Lam district,
Cao Bang province to evaluate the current status, growth, body indexes and some reproductivities.
The research indices included: H’Mong cattle herd structure, body weight, body size indices and
some reproductive indicators of female cattle. The results of this study are the scientific base for
selection, reproduction and exploitation the genetic source of H’Mong cattle in order to develop
the cattle herd in both quantity and quality. The results showed that the structure of the herd is not
really reasonable because the number of H’Mong cattle over 36 months of age was 48.25% while
that under 36 months of age was 51.75%. The rate of bull/reproductive female was higher than
requirement. Body weight of H’Mong male and female cattle at 36 months of age was 250.23 kg
and 202.11 kg, respectively and this body weight was lower than that in H’Mong cattle in Ha
Giang province. The absolute growth of H’Mong cattle from newborn to 6 months of age in male
and female was 406.16 and 341.50 g/head/day, respectively. Reproductive ability of H’Mong
cattle rearing at Bao Lam was relative good but the age of first in heat and first give birth were
lower than that in H’Mong female cattle rearing in Ha Giang province.
Key words: H’Mong cattle; Herd structure; Body size indices; Growth; Reproduction
Ngày nhận bài:12/3/2014; Ngày phản biện:27/3/2014; Ngày duyệt đăng: 20/8/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Trần Văn Tường – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0962 827268, Email: tranvanthang68@yahoo.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_thuc_trang_dan_bo_hmong_nuoi_trong_nong_ho_tai_huye.pdf