Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu

Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả.

pdf39 trang | Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2591 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. • Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một bên giao thiết bị cho khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu... • Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ ( như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản phẩm). • Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một bên cung cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật đó chế tạo ra. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một bên khác (gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo... 10/37 Giao dịch tái xuất. Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Xuất khẩu theo nghị định thư. Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận. 11/37 Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh doanh phải nắm bắt được các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả trên thị trường giúp họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá... từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất cho sản phẩm của mình. Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành động “ chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”. • Có hai loại thông tin cần thu thập trong nghiên cứu thị trường: - Thông tin sơ cấp (primary information): là những thông tin thu thập mang tính chất trực tiếp từ thị trường đó. Đối với loại thông tin này người ta thường áp dụng phương pháp nghiên cứu tại thị trường (Field study): đây là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên thị trường. Nói cách khác, đó là cách thu thập thông tin từ trực quan, qua các quan hệ giao tiếp với thương nhân và với người tiêu dùng. Biện pháp cụ thể: điều tra, phỏng vấn, quan sát, thực nghiệm. Như vậy, xét về tính phức tạp và mức độ chi phí, nghiên cứu tại thị trường là một hoạt động tốn kém và không phải ai cũng đủ trình độ để làm được. Tuy vậy, phương pháp nghiên cứu này cho kết quả khá chính xác. Vì vậy, trước hết cần sơ bộ xử lý các thông tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra những thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau 12/37 đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát. + Thông tin thứ cấp (Secondary information): Đối với loại thông tin này người ta sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn (Desk study). Về cơ bản nghiên cứu tại bàn bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản và tìm những nguồn đó. Chìa khoá thành công của nghiên cứu tại bàn là phát hiện ra các nguồn thông tin và triệt để khai thác những nguồn thông tin đó. Ngày nay, trong thời đại tin học, thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả... rất phong phú. Có thể lấy được thông tin từ các nguồn như: qua hệ thống Internet, qua các cơ quan xúc tiến thương mại, các cơ quan thống kê, qua các sách báo thương mại được xuất bản, qua quan hệ với thương nhân... Trong đó, số liệu thông kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Đó là những số liệu thống kê về sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu, dự trữ tồn kho, giá cả... Nó giúp cho người nghiên cứu có một cái nhìn bao quát về dung lượng thị trường và xu hướng phát triển. Nghiên cứu tại bàn, có thể nói là phương pháp phổ thông nhất về nghiên cứu thị trường, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu tại bàn cũng cần phải bổ sung bằng nghiên cứu tại thị trường. • Nội dung thông tin cần thu thập khi nghiên cứu thị trường: nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá và một số yếu tố khác. • Nghiên cứu tình hình cung- cầu hàng hoá: Nghiên cứu tình hình cung cầu hàng hoá cần nắm được các vấn đề sau: • Số lượng các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng đó trên thị trường và khả năng cung ứng của từng doanh nghiệp đó. • Nghiên cứu chu kỳ đưa hàng ra thị trường của từng doanh nghiệp cung ứng đó. • Sảnphẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường (mặt hàng đang ở pha nào của chu kỳ sống) Về mặt tiêu thụ nhà kinh doanh phải biết mặt hàng định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của nó trên thị trường. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một mặt hàng bao gồm 4 giai đoạn (gđ) sau đây: Giai đoạn triển khai: đây là giai đoạn đầu tiên trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong giai đoạn này về cơ bản chưa có sản phẩm cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp chưa được người tiêu dùng biết đến, doanh nghiệp cần nỗ lực làm cho khách hàng biết đến sản phẩm của mình. 13/37 Giai đoạn tăng trưởng: đây là giai đoạn phát triển của sản phẩm, trong giai đoạn này sản phẩm được người tiêu dùng biết đến và được thị trường chấp nhận, cần đẩy nhanh quá trình đưa sản phẩm có tính độc đáo của mình vào thị trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng phạm vi lựa chọn sản phẩm. Giai đoạn bão hoà: trong giai đoạn này doanh thu tiêu thụ vẫn tăng nhưng tăng chậm và có xu hướng giảm. Giai đoạn này có sự cạnh tranh kịch liệt giữa các đối thủ vào thị trường và một hình ảnh mà doanh nghiệp cần thấy rõ là sự tràn ngập hàng hoá trên thị trường. Giai đoạn suy thoái: đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của sản phẩm. Trong giai đoạn này thị trường đã bão hoà về sản phẩm, doanh số bán ra của sản phẩm giảm đi rất nhiều. Để tránh khả năng bị loại khỏi thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp cải tiến, đổi mới mẫu mã kỹ thuật, hoặc thay thế bằng sản phẩm mới. Từ sự phân tích như trên ta nhận thấy, việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn triển khai và tăng trưởng gặp thuận lợi lớn nhất. Tuy vậy, có khi mặt hàng đã ở giai đoạn suy thoái nhưng nhờ thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (như quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá...) người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu. Tóm lại, có nắm vững mặt hàng ta đang dự định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống thì mới có thể xác định những biện pháp cần thiết để làm tăng doanh số bán hàng và tăng lợi nhuận. Cấu trúc của cung, nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị trường. Nếu sự cạnh tranh đã gay gắt, điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp phải rút lui, nó có thể giữ vị trí thế thủ chờ đợi giai đoạn chuyển sang tấn công Nghiên cứu những sản phẩm khác cùng đáp ứng nhu cầu còn phải xác định xem sự cạnh tranh ấy tồn tại được bằng cách nào, tỷ lệ hoa hồng thường được chấp nhận là bao nhiêu, hậu quả của cạnh tranh như thế nào, nó sẽ diễn biến ra sao... và khả năng phản ứng của nó trước một đối thủ mới. Phân tích tình hình cầu: Từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Người tiêu dùng hiện nay là những ai, họ được phân nhóm như thế nào, nhóm xã hội, nghề nghiệp, tuổi, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, cách sống... . Thống kê số lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng hoá. . Sức mua trung bình của một doanh nghiệp, một khách hàng. . Nhịp độ mua hàng của họ (chu kỳ mua lặp lại). 14/37 . Sản phẩm của hãng đang ở thế hệ nào. . Lý do mua hàng của khách hàng là gì? . Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? Cần xác định sự tăng dân số, nhất là sự tăng của bộ phận xác định và tiến hành phân tích sự tăng mức sống. Nếu không có yêu cầu mua vào thời điểm phân tích thì phải xác định xem có yêu cầu không và khi nào. • Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu: Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một nhân tố cấu thành thị trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau, giá cả thị trường lại càng trở lên phức tạp, trong đó giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp bao gồm giá vốn hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tùy theo các bước thực hiện và sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu giá cả của từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó như: nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng loạn của các công ty siêu quốc gia, nhân tố cạnh tranh, nhân tố cung cầu, nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ và một số nhân tố khác như: chính sách của chình phủ, tình hình an ninh chính trị của các quốc gial... Từ đó mới có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá. Rõ ràng việc nghiên cứu và tính toánh một cách chính xác giá cả của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh TMQT. • Nghiên cứu các loại hình kinh doanh khác trên thị trường như điều kiện vận tải, tốc độ, phương tiện vận tải như thế nào, chi phí vận tải ra sao, bảo hiểm, vận chuyển... • Nghiên cứu một số yếu tố khác liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị trường như: quan hệ chính trị, văn hoá: làm việc với ai phải hiểu văn hoá của người đó, đồng thời có cái nhìn khách quan về nền văn háo của họ, không thể so bì với văn hoá của ta mà cho rằng nền văn hoá của họ không tốt, kinh doanh TMQT cần luôn hiểu “ không có một nền văn hoá nào là tốt hay xấu mà chỉ có sự khác biệt”. Nghiên cứu chính sách, thể chế của quốc gia khác đặc biệt là yếu tố về luật, thể chế tài chính. Nghiên cứu yếu tố tự nhiên của từng đoạn thị trường: vị trí địa lý, khí hậu... Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị kinh doanh lựa chọn thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được: 15/37 Tiêu chuẩn chung: • Về chính trị: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối với hoạt động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính trị và sự ổn định của chính thể. • Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số... • Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người, tỷ lệ tăng GDP... • Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển. Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: • Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch... • Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái Tiêu chuẩn về thương mại: • Phần của sản xuất nội địa • Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường • Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn. Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh trong lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng (hay lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về: • Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và tư cách pháp nhân. • Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật. • Năng lực con người và năng lực quản lý của họ • Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó • Uy tín của họ trong kinh doanh Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. 16/37 Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong TMQT nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh TMQT một cách có hiệu quả nhất. 17/37 Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trườn, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau: • Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh. • Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan. • Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào... • Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều biện pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua...) và cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý...) • Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu: chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi, chỉ tiêu điểm hoà vốn. Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực hiện phương án, tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng đã chọn. Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước chính như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng. • Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi, nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên hiểu lầm về nhu cầu của mình. Vả lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời và các công việc hành chính văn thư khác. Điều này cũng dễ gây nên tốn thời gian và chi phí. • Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra. Trước khi chào hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hoá đó trên thế giới, mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của đối phương và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa ra đơn chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do. 18/37 Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi cho một đối tác, trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì không được gửi cho các đối tác khác. Nếu người nhận chào hàng cố định chấp nhận mua coi như chào hàng được ký. Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được gửi cho nhiều người và không ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận chào hàng tự do đồng ý mua nhưng người bán vẫn có thể không thực hiện lời chào hàng đó. Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ có nhu cầu và ta đưa ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi, trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua, chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi hàng của đối phương (chào hàng thụ động). Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua. • Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ người mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp nào mà đã biết rõ về chất lượng hàng, mức giá cả, khả năng giao hàng của họ. Người bán cần nắm được điều này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tăng hiệu quả kinh doanh. 19/37 Ký kết hợp đồng xuất khẩu Ký kết hợp đồng xuất khẩu Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng ngoại thương: là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nươc khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng. Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng TMQT, theo điều 81 của Luật Thương mại Việt Nam, hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: • Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý. • Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật. • Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định.Theo điều 50 của Luật Thương mại Việt Nam, những điều khoản sau buộc phải có trong hợp đồng bao gồm: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác trong hợp đồng. • Hình thức của hợp đồng phải là văn bản. • Nội dung chủ yếu của một hợp đồng TMQT thường bao gồm những nội dung sau: . Số hợp đồng . Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng . Tên và địa chỉ của các đương sự . Những định nghĩa dùng trong hợp đồng . Cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng . Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng: điều khoản thương phẩm, điều khoản tài chính, điều khoản vận tải, điều khoản pháp lý... 20/37 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu- với tư cách là một bên ký kết- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau: Kiểm tra L/C. Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ thì bước đầu tiên đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần phải làm đó là đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung và điều kiện ghi trong hợp đồng, nếu phù hợp người xuất khẩu mới tiến hành làm những công việc thực hiện hợp đồng còn chưa phù hợp phải yêu cầu bên nhập khẩu sửa đổi bổ sung bằng văn bản. Xin giấy phép xuất khẩu. Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng xuất khẩu và xuất khẩu những mặt hàng nhà nước không hạn chế. • Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch và bằng luật pháp, hàng hoá là đối tượng quản lý có 3 mức: • Những danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu: Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trong trường hợp đặc biệt, việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể. • Hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại: Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan cụ thể hoá danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại theo mã số của danh 21/37 mục biểu thuết xuất, biểu thuế nhập khẩu (nếu có). Việc điều chỉnh danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại, bao gồm cả lộ trình bãi bỏ loại giấy phép này, do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Việc ký hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này chỉ được thực hiện sau khi đã có giấy phép của Bộ Thương mại. • Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành: Việc điều chỉnh bổ sung danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành và nguyên tắc áp dụng do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành và Bộ trưởng Bộ Thương mại, các bộ ngành quản lý chuyên ngành hướng dẫn thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá trong danh mục này. • Thủ tục cấp giấy phép: Khi đối tượng hợp đồng trong phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: • Bản sao hợp đồng xuất/nhập • Phải có bản giải trình với mặt hàng cấm xuất/nhập • Đơn xin cấp giấy phép Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện ngoài bản sao giấy tờ, đơn xin phép phải có bản sao hạn ngạch. Sau khi hoàn tất thủ tục gửi đến cơ quan cấp giấy phép (Bộ Thương mại), sau đó Bộ Thương mại gửi hồ sơ đến các bộ quản lý chuyên ngành. Thời gian cấp giấy phép: • Riêng mặt hàng cấm xuất/nhập thì không quy định thời gian • Với mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện thì giao cho nhân viên quản lý thụ lý hồ sơ, sau 3 ngày phải trả lời với những hồ sơ xin phép cần bổ sung, cần sửa đổi hoặc những hồ sơ không cấp giấy phép • Đối với những hồ sơ hợp lệ cấp giấy phép sau 7 ngày. Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã ký với nước ngoài và/hoặc L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C). Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm 3 khâu chủ yếu: thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì và kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu. 22/37 • Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Việc mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn. Trong khi đó sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản, là một nền sản xuất manh mún, phân tán; nguồn hàng để xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ cấp (nguyên vật liệu qua sơ chế, hàng bán thành phẩm), hàng thủ công mĩ nghệ, hàng nông lâm, thổ, thuỷ sản. Vì vậy trong rất nhiều trường hợp muốn làm thành lô hàng xuât khẩu chủ hàng xuất khẩu phải tiến hành thu gom tập trung từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ trong nhân dân, từ các cơ sở thương mại... (gọi tắt là các chân hàng). Cơ sở để thực hiện thu gom hàng xuất khẩu là hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu với các chân hàng. Những loại hợp đồng kinh tế thường được sử dụng để huy động hàng xuất khẩu có thể là: hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu, hợp đồng gia công, hợp đồng đổi hàng, hợp đồng uỷ thác thu mua hàng xuất khẩu, hợp đồng liên doanh liên kết xuất khẩu... • Bao bì đóng gói hàng xuất khẩu: Trong buôn bán quốc tế, tuy không ít mặt hàng để trần hoặc để rời, nhưng đại bộ phận hàng hoá đòi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong qúa trình vận chuyển và bảo quản. Tổ chức đóng gói, bao bì là khâu quan trọng của việc chuẩn bị hàng hoá bởi những tác dụng to lớn sau: • Bao bì đóng gói bảo đảm được phẩm chất hàng hoá trong quá trình vận chuyển, tránh được rủi ro mất mát. • Tạo điều kiện thuận lợi cho bốc xếp, di chuyển, vận chuyển và giao nhận hàng hoá. • Tạo điều kiện cho việc nhận biết phân loại hàng hoá. • Gây ấn tượng và làm cho người mua thích thú hàng hoá. Trong kinh doanh TMQT người ta thường dùng các loại bao bì như: hòm, bao, kiện hay bì, thùng... đây là bao bì bên ngoài, ngoài ra còn có loại bao bì bên trong và bao bì trực tiếp. Nói chung tuỳ thuộc đặc điểm và tính chất của hàng hoá cần bao gói, vào những điều đã thoả thuận trong hợp đồng mà lựa chọn loại bao bì thích hợp. Ngoài ra cần phải xét đến những nhân tố: điều kiện khí hậu môi trường, điều kiện vận tải, bốc xếp hàng, điều kiện luật pháp thuế quan, chi phí vận chuyển. • Kẻ kýmã hiệu hàng xuất khẩu: Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. 23/37 Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu (kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng xuất khẩu). Một nguyên tắc cơ bản trong mọi khâu, mọi công việc đều cần có kiểm tra, kiểm nghiệm để có thể hạn chế và loại trừ những lỗi sai trong quá trình thực hiện. Trong kinh doanh xuất khẩu cũng vậy, trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì... (tức kiểm nghiệm) hoặc nếu hàng hoá xuất khẩu là động vật, thực vật phải kiểm tra về khả năng lây lan bệnh tật (tức là kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật). Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu. Trong đó việc kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành có vai trò quyết định và có tác dụng triệt để nhất. Còn việc kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế. Thuê tàu, lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau đây: những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Tàu biển được sử dụng để chuyên chở hàng hoá có thể là tàu chợ, tàu chuyến hoặc tàu định hạn. Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn hơn. Trong buôn bán quốc tế, phương thức chuyên chở hàng hoá bằng đường biển là phương thức vận tải được sử dụng nhiều nhất, chiếm đến 80% khối lượng vận chuyển trong chuyên chở quốc tế. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng một số phương thức khác như: vận tải đường bộ, vận tải đường sắt, vận tải đường sông, vận tải hàng không. Ngoài ra còn còn có hình thức vận tải đường ống, vận tải đa phương thức. Mua bảo hiểm. Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có hai loại: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Hợp đồng bảo hiểm bao: đơn vị mua bảo hiểm ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hang xuống tàu xong, chủ hàng chỉ gửi đến công ty bảo hiểm (Bảo Việt) một thông báo bằng văn bản gọi là “giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Hình thức hợp đồng bảo hiểm này thường áp dụng đối với các tổ chức buôn bán ngoại thương hoặc doanh nghiệp buôn bán hàng xuất khẩu thường xuyên nhiều lần trong một năm. 24/37 Hợp đồng bảo hiểm chuyến: khi mua bảo hiểm chuyến chủ hàng gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là “giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở giấy yêu cầu này, chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán ký hợp đồng bảo hiểm. Hình thức này thường áp dụng với các đợt mua bán riêng lẻ. Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm, có 3 điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng (điều kiện B), bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C). Ngoài ra, còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt khác như bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động. Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước, để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ sai sót giả mạo, để thống kê số lượng về hàng xuất nhập khẩu. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau: • Khai báo hải quan: chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. • Xuất trình hàng hoá: hàng hoá phải được sắp xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát. Thông thường đối với hàng khối lượng ít, người ta vận chuyển hàng hoá tới kho của hải quan để kiểm lượng, làm thủ tục hải quan và nộp thuế (nếu có) đối với hàng xuất khẩu. Còn đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có khối lượng lớn việc kiểm tra giấy tờ hàng hoá có thể diễn ra ở các nơi sau: ◦ Tại nơi đóng gói bao kiện ◦ Tại nơi giao nhận hàng cuối cùng ◦ Tại cửa khẩu. • Thực hiện các quyết định của hải quan. Giao hàng xuất khẩu. Phần lớn số hàng xuất khẩu ở nước ta được vận chuyển bằng đường biển, đường sắt và bằng container. • Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các công việc sau đây: ◦ Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở. ◦ Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ sếp hàng. ◦ Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. ◦ Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. 25/37 ◦ Lấy biên lai thuyền phó (Mate,s Receipt) và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng (Clean on board B/L) và phải chuyển nhượng được (negotiable). Vận đơn cần được chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. • Nếu hàng được chuyên chở bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng hóa và khối lượng hàng hóa. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp, niêm phong cặp chì và làm các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt. Vận đơn đường sắt chuyển về phòng kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. • Nếu hàng được chở bằng container thì giao theo hai phương thức: hàng đủ một container và hàng chưa đủ một container. Hàng chiếm đủ một container (Full container load- FCL), thì chủ hàng đăng ký thuê container, chịu chi phí chuyển container rỗng từ bãi về cơ sở của mình, đóng hàng vào container và giao đến ga container để giao cho người vận tải. Hàng chưa đủ một container (Lessthan container load- LCL), thì chủ hàng phải làm đăng ký hàng chuyên chở xuất trình cho vận tải. Sau khi được chấp nhận chở hàng, chủ hàng đưa hàng đến ga container và giao cho người vận tải. Cơ quan vận tải chịu trách nhiệm đóng hàng vào container và bốc lên tàu. Làm thủ tục thanh toán. Có thề nói thanh toán là khâu trọng tâm và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh TMQT. Có 2 phương thức thanh toán chủ yếu sau: • Thanh toán bằng thư tín dụng Thanh toán tiền hàng bằng L/C là một phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý, thuận tiện an toàn, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, người xuất khẩu phải yêu cầu người nhập khẩu mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được thông báo đã mở L/C của người nhập khẩu, người xuất khẩu phải đối chiếu L/C với nội dung hợp đồng mua bán xem co phù hợp không, nếu phù hợp thì tiến hành giao hàng, còn nếu thấy còn có chỗ chưa hợp lý thì yêu cầu bên nhập khẩu phải sửa đổi, bổ xung. Đến thời hạn giao hàng, cùng với việc giao hàng người xuất khẩu phải lập bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với nội dung trong L/C để yêu cầu bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho mình. • Thanh toán bằng phương thức nhờ thu Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu, thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và phải xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng thu tiền hộ. Chứng từ thanh toán cần được 26/37 lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. 27/37 Đánh giá hiệu quả xuất khẩu Đánh giá hiệu quả xuất khẩu Việc đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu sẽ cho phép doanh nghiệp xác định được doanh thu tiêu thụ, lỗ lãi trong kinh doanh và kết quả kinh doanh. Đánh giá hiệu quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu sau: • Chỉ tiêu tổng hợp Hqdth = Tsd/ Tsx Trong đó: Tsd: thu nhập quốc dân có thể sử dụng được. Tsx: thu nhập quốc dân được sản xuất ra. Chỉ tiêu này cho biết thu nhập quốc dân của một quốc gia tăng giảm như thế nào trong thời kỳ tính toán khi có TMQT. Nếu tương quan lớn hơn 1 TMQT đã làm tăng thu nhập quốc dân, và ngược lại nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì thu nhập quốc dân giảm. • Chỉ tiêu lợi nhuận LN = TR - TC Trong đó: TR: lợi nhuận TR: Tổng doanh thu TC: Tổng chi phí • Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu Dx = (Tx/cx) * 100% Trong đó: Dx: Doanh lợi xuất khẩu 28/37 Tx: Thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính ra tiền Việt Nam Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu. -Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu. Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu = Tổng chi phí (VND)/ Doanh thu xuất khẩu (USD) (TSNTXK) Điểm hoà vốn là điểm mà TSNTXK = TGHĐ ( Tỷ giá hối đoái) Nếu TSNTXK > TGHĐ : không nên xuất khẩu Trong buôn bán quốc tế, với mọi trường hợp đều không thể dùng các thủ thuật gian dối. Muốn nâng cao lợi nhuận phải cố gắng từng bước, cải tiến hoạt động thương mại, phải nẵm vững và tiến hành theo quy trình, không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn. Nếu không tôn trọng nguyên tắc trên dễ dẫn đến thua thiệt trong kinh doanh. Dù là có kinh nghiệm sành sỏi lão luyện hay người mới vào nghề, đều phải tuân thủ các bước đi. Đó là việc quan trọng nhất của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. 29/37 Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu Yếu tố tự nhiên. Nói lên đặc tính của hàng tơ tằm xuất khẩu từ đó cho chúng ta thấy được giá trị của mặt hàng này. Trong các nguyên liệu của ngành công nghiệp dệt như: bông thiên nhiên, bông sợi hoá học, tơ tằm và các loại cây có sợi khác như đay, gai, lanh... thì từ sưa tới nay tơ tằm vẫn là loại sợi quý, có giá trị cao, tơ lụa thiên nhiên vẫn giữ được địa vị độc đáo. Tơ tằm có đặc tính nhẹ, giai bền, hút được ẩm và cách nhiệt; quần áo bằng lụa tơ tằm vừa nhẹ, vừa bền, có màu bóng tự nhiên, mặc mùa hè thì thoáng mát, mùa đông thì ấm. Hơn nữa, tơ tằm dễ bắt màu nên nhuộm được nhiều màu đẹp và bền. Độ dài của tơ tằm chỉ sau các loại xơ xợi hoá học, còn dài hơn bất cứ loại tơ thiên nhiên nào, tính chất hút ẩm của nó rất cao: có thể hút tới 30- 35% hơi nước mà vẫn không có vẻ ẩm ướt (trong khi đó, sợi ny-long chỉ có thể hút khoảng 5%). Vì vậy nó đảm bảo tốt cho sự hoạt động bình thường của da (sự thoát mồ hôi). Tính chịu nóng cũng khá cao, khi gia nhiệt tới 110oC bề ngoài của nó không thay đổi. Về mặt vệ sinh nó có một ưu điểm đáng quý là không hề gây cho cơ thể con người một dị ứng nào cả. Ngoài việc dùng tơ tằm để dệt ra các mặt hàng có giá trị sử dụng và kinh tế cao như: các loại lụa, gấm vóc, the, nhung... nó còn được dùng trong các ngành quốc phòng và y học... như dệt lụa cách điện, lót bao lớp máy bay, bọc dây của các máy phát điện, dệt vải dù, áo chống độc, bao đựng thuốc nổ, làm chỉ khâu khi mổ sẻ... Mấy chục năm gần đây khoa học phát triển, ngành công nghiệp hoá học đã sản xuất thành công nhiều loại tơ sợi nhân tạo, tổng hợp... tuy một vài loại có ưu điểm hơn hẳn tơ tằm như giai bền, đều đặn hơn ( VD: nylong, vinylong...) nhưng đó chỉ là tính chất thứ yếu, vì dùng các loại tơ đó để dệt các mặt hàng sẽ bị cứng, hút ẩm kém.... gây cho người mặc có cảm giác bí hơi, vướng víu... Rõ ràng các loại tơ sợi nhân tạo tuy có khả năng sản xuất ra số lượng lớn, mau chóng thoả mãn nhu cầu may mặc, cũng bóng đẹp nhưng kém hẳn tơ tằm về tính chất cách nhiệt, về sức nhẹ và hút ẩm. Do đó tơ tằm có những ưu điểm đặc biệt mà các loại tơ sợi khác không thể sánh được. Yếu tố địa lý. Hàng tơ tằm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố địa lý như thời tiết, khí hậu, vùng lãnh thổ và thay đổi về màu sắc hoa văn... theo sự thay đổi của các yếu tố này. Mùa hè khí hậu 30/37 nóng, các trang phục bằng chất liệu vải nhẹ, mát, hút ẩm tốt... rất được ưa chuộng. Và hàng tơ tằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu đó. Chính vì vậy hàng tơ tằm được tiêu thụ mạnh hơn vào mùa hè. Yếu tố văn hoá. Bao gồm thời trang, tính dân tộc, tính tôn giáo... Mỗi dân tộc có một gu thẩm mỹ riêng về thời trang, về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu vải... Điều đó tạo lên những trang phục truyền thống của từng dân tộc: Việt Nam có áo dài kín đáo mềm mại với chất liệu tơ tằm truyền thống, người Nhật có áo kimono hay áo xorong của người Lào... Tôn giáo cũng có ảnh hưởng tới sở thích và sự lựa chọn trang phục của người tiêu dùng. Nhìn chung tất cả các yếu tố trên có ảnh hưởng lớn đến cách ăn mặc của mỗi người, từ đó ảnh hưởng đến ngành sản xuất kinh doanh may mặc trong và ngoài nước, đến chất liệu vải cho phù hợp với các loại trang phục đó và tất nhiên không loại trừ chất liệu tơ tằm. Một điển hình là Ấn Độ, mặc dù là nước sản xuất tơ lớn thứ hai trên thế giới nhưng với văn hoá và truyền thống mạnh mẽ, nhu cầu may mặc của người dân sử dụng chất liệu tơ tằm rất lớn, chính điều đó đã chi phối thị trường tơ lụa trong nước đồng thời phải nhập khẩu và đến nay Ấn Độ trở thành thị trường tiêu thụ tơ lớn nhất thế giới. Yếu tố xã hội. Hàng tơ lụa xuất khẩu luôn chú trọng đến yếu tố xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu cho các tâng lớp xã hội với những mức thu nhập khác nhau của từng người dân. Hàng tơ tằm chịu ảnh hưởng lớn bởi thu nhập của người tiêu dùng, thường thì thu nhập càng cao người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm tơ tằm càng lớn. Trên thực tế, theo Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam, từ khi nền kinh tế nước ta đổi mới, thu nhập của người dân tăng lên làm cho nhu cầu tiêu dùng lụa tơ tằm trong nước tăng lên từ 150.000 m (năm 1990) lên 1.500.000 m (1997). Thị hiếu của người tiêu dùng cũng thường xuyên thay đổi dó đó hàng tơ lụa cũng luôn phải nắm bắt được thị hiếu và dự đoán được những thay đổi để đáp ứng nhu cầu kịp thời nhất. Tơ tằm là nguyên liệu quý có giá trị cao trên thị trường thế giới được dùng để sản xuất ra các loại quần áo, cà vạt... Sản phẩm được làm từ lụa tơ tằm rất được ưa chuộng, tuy nhiên vẻ đẹp mềm mại, nhẹ nhàng sang trọng và quý phái... của lụa tơ tằm lại đặc biệt thích hợp hơn đối với phụ nữ: có đến 90% sản phẩm quần áo tơ tằm là dành cho phụ nữ... 31/37 Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu Tơ là một sản phẩm có giá trị cao nhưng khối lượng sản xuất được lại thấp, chỉ chiếm khoảng 0,2% tổng nguyên liệu dệt của thế giới. Sản xuất tơ tằm xuất khẩu là một ngành nghề đem lại hiệu quả khá lớn, song hiệu quả đó bắt nguồn từ quá trình trồng dâu nuôi tằm , đó là một ngành quan trọng để phát triển kinh tế đất nước bởi những đặc điểm đáng quý như: Đặc điểm về sử dụng nhân công Đây là một ngành thu hút rất nhiều nhân công lao động. Nghề trồng dâu nuôi tằm sử dụng nhiều lao động thủ công, đem lại công ăn việc làm cho các vùng đông dân, lao động dư thừa, kể cả lao động phụ, người già, người tàn tật và trẻ em trong gia đình.... Hơn nữa, trình độ lao động và sức khoẻ cũng không đòi hỏi quá cao nên nhân công dồi dào. Đây cũng là một nghề thích hợp với lao động nữ. Theo điều tra của Nhật: phụ nữ chiếm trên 60% tổng lao động trong quá trình trồng đâu nuôi tằm. Điều này là rất khả quan bởi các công việc trong việc trồng dâu nuôi tằm bắt đầu từ việc chăm sóc các vườn dâu, hái lá dâu cho đến việc cho tằm ăn, tất cả sẽ trở lên hiệu quả hơn nếu được đảm nhận bởi bàn tay của người phụ nữ. Thậm chí cả công nghiệp ươm tơ, bao gồm cả dệt cũng sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu có bàn tay khéo léo của chị em. Vốn đầu tư thấp và quay vòng vốn nhanh đồng thời cho hiệu quả kinh tế cao Kén tằm là nguyên liệu đầu vào duy nhất cho sản xuất tơ. Sản xuất kén tằm cần phải có các công cụ chính như: đũi, nong, né, quạt, phòng nuôi tằm, lá dâu cho tằm ăn, trứng giống... Cây dâu là một loại cây không kén đất, rất dễ trồng và không đòi hỏi đầu tư chăm sóc quá cao. Còn các dụng cụ chính để nuôi tằm như: đũi, nong, né được làm bằng tre nứa rất dễ kiếm và chi phí cực thấp; nhà cửa để nuôi tằm thì đơn giản... Nói chung, vốn đầu tư vào việc sản xuất kén tằm thấp hơn nhiều so với các ngành sản xuất khác. Nghề này phù hợp với tập quán sản xuất nhỏ, phù hợp với vốn đầu tư, kỹ thuật chăm sóc của người nông đân Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới và với nguồn lao động dồi dào trong nông thôn nước ta. Đây là một trong những ngành nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của các vùng nông thôn hiện nay. Không những vậy nó còn góp phần quan trọng trong chủ trương phủ xanh đất trống, đồi trọc của Đảng và Nhà nước trong những năm đầu của thế kỷ 21 này. Với vốn 32/37 đầu tư thấp và quay vòng vốn nhanh, từ khi có trứng giống cho đến khi tằm kết kén chỉ khoảng 43- 47 ngày. Rõ ràng, sản xuất kén tằm lại đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều cây trồng khác như lúa, ngô.... Sản xuất tơ cũng vậy, so với các ngành công nghiệp nặng, hoá chất... thì vốn đầu tư cho sản xuất tơ thấp hơn nhiều. Máy móc thiết bị không quá vụn vặt, sử dụng máy ươm tự động vốn đầu tư tuy lớn hơn hẳn sử dụng máy ươm cơ khí nhưng vẫn thấp hơn so với nhiều ngành khác và lại cho hiệu quả cao trong thời gian dài. Chính những đặc điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho một số nước đang phát triển, đặc biệt ở khu vực Châu Á, với điều kiện khí hậu thích hợp có thể phát triển ngành này để tận dụng nguồn lao động dồi dào, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ít ỏi trong tay, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tơ lụa với những đặc tính riêng biệt, có giá trị cao, có thể được xuất sang nhiều nước, đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước, tăng tích luỹ ngoại tệ, góp phần tích cực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm liên kết. Ngành sản xuất tơ lụa là một ngành nghề tổng hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nông nghiệp và công nghiệp. Nó đỏi hỏi mối liên hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm và công nghiệp sản xuất tơ lụa, gắn bó người dân với nhà công nghiệp, tạo điều kiện phát huy khả năng tiềm tàng của cac vùng nông thôn, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Trồng dâu nuôi tằm cung cấp kén nguyên liệu cho ươm tơ, ươm tơ lại tạo ra tơ tằm làm nguyên liệu cho ngành dệt. Ngành sản xuất tơ lụa muốn phát triển một cách chủ động phải dựa trên sự phát triển của ngành trồng dâu nuôi tằm. Theo điều tra của Nhật, khoảng 57% tổng giá trị của tơ thành phẩm là do người trồng đâu nuôi tằm tạo ra. Quá trình trồng dâu nuôi tằm bao gồm hai giai đoạn có quan hệ mật thiết với nhau là trồng dâu và nuôi tằm. Cây dâu là đối tượng của ngành trồng trọt, tằm là đối tượng của ngành chăn nuôi và đều có quy luật sinh trưởng và phát phát triển riêng đòi hỏi những biện pháp kỹ thuật chăm sóc tác động khác nhau. Giai đoạn trồng dâu cung cấp lá dâu cho giai đoạn nuôi tằm, giai đoạn nuôi tằm kế tiếp giai đoạn trồng dâu và đây là giai đoạn trung gian cung cấp kén tằm cho quá trình ươm tơ. Rõ ràng để tạo ra sản phẩm tơ tằm xuất khẩu phải qua nhiều công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn có một mục tiêu phấn đấu riêng, do đó vấn đề là kết hợp các mục tiêu phấn đấu như thế nào để phục vụ cho mục tiêu chung là tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá tơ tằm phục vụ tốt cho yêu cầu của công tác tiêu thụ. Ví dụ như trồng dâu tạo ra năng suất lá cao; nuôi tằm tạo ra năng suất kén cao, chất lượng tốt; từ đó ươm tơ, dệt lụa mới cho ra sản phẩm tơ lụa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Cũng theo kết quả điều tra của Nhật, trong quá trình từ khi bắt đầu đến khi tao ra sản phẩm hoàn chỉnh là lụa để xuất khẩu có nhiều lao động tham gia vào quá trình này, mỗi 33/37 thành phần có vai trò khác nhau do đó chiếm phần đóng góp khác nhau vào tổng giá trị của sản phẩm lụa xuất khẩu. Theo đó tỷ lệ thu nhập cho các nhóm tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ tơ lụa được phân chia như sau: • 56.8% thuộc về người trồng dâu nuôi tằm. • 6.8% thuộc về người quay tơ. • 9.1% thuộc về người xe tơ. • 10.7% thuộc về người dệt vải. • 16.6% thuộc về hãng kinh doanh. Là một ngành sản xuất nhạy cảm với môi trường xung quanh. Chính sự phụ thuộc chặt chẽ của công nghiệp ươm tơ dệt lụa, vào nông nghiệp trồng dâu nuôi tằm đã tạo nên đặc tính này. Bởi trồng dâu nuôi tằm là ngành nhạy cảm với môi trường xung quanh. Ngoài đặc tính phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên của những sinh vật sống thì nghề trồng dâu nuôi tằm yêu cầu môi trường xung quanh vô cùng khắt khe như: phải xa các nhà máy, các lò gạch, thuốc bảo vệ thực vật... Đây là hoạt động sản xuất có tính hàng hoá cao, các thành phần tham gia phản ứng khá rõ và nhanh trước các thay đổi về vốn, lao động, thị trường. Đặc điểm về tiêu dùng. Sản phẩm tơ tằm xuất đi có tính chất là nguyên liệu cho ngành công nghiệp dệt. Thị trường này ít người mua nhưng là những khách hàng có tầm cỡ lớn và hiểu biết sâu sắc về các vấn đề có liên quan đến sản phẩm, thường có nhu cầu mua với khối lượng lớn. Như vậy, người tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm tơ lụa xuất khẩu là các nhà công nghiệp dệt may nước ngoài. 34/37 Tham gia đóng góp Tài liệu: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Nguồn gốc của thương mại quốc tế Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Các loại hình xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: 35/37 Giấy phép: Module: Ký kết hợp đồng xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Đánh giá hiệu quả xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: 36/37 Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 37/37

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfco_so_ly_luan_ve_hoat_dong_xuat_khau_0121.pdf