"1. Vì sao lãnh tụ Nguyễn Ái quốc lựa chọn nước pháp để tìm đường cách mạng giải phóng dân tộc?. 3
2. Tác dụng của lao động sản xuất đối với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình Người đi tìm đường cách mạng giải phóng dân tộc?. 3
3. Điều kiện khách quan góp phần để lãnh tụ NAQ tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin. 4
4. Nhân tố giữ vai trò quyết định việc lãnh tụ NAQ tiếp thu chủ nghĩa M-L để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn?. 5
5. Vì sao nói con đường cách mạng mà lãnh tụ NAQ lựa chọn là đúng đắn?. 6
6. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu?. 7
7. Vì sao vừa mới ra đời Đảng đã lãnh đạo được cao trào cách mạng 1930-1931?. 11
8. Vì sao nói Xô Viết nghệ tĩnh là đỉnh cao phong trào cách mạng 30-31?
. "
1. Vì sao lãnh tụ Nguyễn Ái quốc lựa chọn nước pháp để tìm đường cách mạng giải phóng dân tộc?
Khi ra đi tìm đường cứu nước, NAQ đã nói rằng: Tôi muốn xem họ làm thế nào để giúp dân ta, đồng bào ta. Như vậy, Người quyết định chọn nước Pháp là bởi vì:
- Lớn lên trong bối cảnh đất nước bị đô hộ, sớm tiếp thu tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, Nguyễn Tất Thành đã muốn tìm ra con đường để giải phóng đất nước khỏi sự xâm lược của thực dân Pháp.
Trải qua thời gian học ở trường Pháp - Việt Đông Ba từ 1905 -1907, Nguyễn Tất Thành đã bước đầu tiếp thu một số giá trị văn minh của Pháp. Với Bác, người da trắng nào cũng là người Pháp. Lần đầu tiên được nghe ba chữ Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác Ái, Người rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy. Bác muốn xem thực chất cái gọi là "tự do, bình đẳng, bác ái" mà thực dân Pháp luôn hô to khi sang nước ta là gì, và tìm hiểu rõ để xác định chắc chắn có đúng là thực dân Pháp sang nước ta có phải là vì muốn "khai hóa văn minh" cho chúng ta không ."
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 12436 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu 39 câu hỏi và đáp án thi môn đường lối cách mạng của ĐCS Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưng thực tế với một kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt chúng ta không thể giành thắng lợi và vì thế các cuộc chống đối của chúng ta luôn bị đàn áp một cách dã man.
Thứ hai, xuất phát từ kẻ thù. Chúng tiến hành cuộc chiến tranh vũ trang bạo lực trên quy mô rọng lớn và vô cùng tàn ác. Chính quyền tay sai cũng cho thấy sự man rợ của mình khi cùng quân đội Mỹ lê máy chiếm khắp chiến trường miền Nam, đã sát hại biết bao nhiêu người dân vô tội và cả những chiến sĩ cách mạng. Thực tiễn lịch sử lúc này đặt ra là địch đánh ta bảng sức mạnh vũ trang thì chúng ta cũng phải đáu tranh thì mới có khả năng giành chiến thắng. Đó là một thực tế buộc ban chấp hành trung ương đảng lần thứ hai nhận định và quyết định chủ trương đấu tranh vũ trang.
Thứ ba, xuất phát từ tư tưởng, tinh thần đấu tranh kiên cường và quyết tâm của nhân dân miền Nam. Với chính sách cai trị độc đoán và tàn bạo của đế quốc Mỹ, nhân dân miền Nam đã căm giạn sục sôi và luôn muốn vùng dậy đấu tranh bất cứ lúc nào. Vì vạy, đây chính là nguồn lực tư tưởng to lớn cho chúng ta khi ban thường vụ trung ương đảng đề ra đấu tranh vũ trang chắc chắn sẽ được nhân dân nơi đây hưởng ứng nhiựt tình.
Thứ tư, Xuất phát từ vị trì địa lí của miền Nam có rất nhiều thuận lợi có thể giúp ban thường vụ trung ương đảng đề ra chủ trương đáu tranh vũ trang. Đây là vùng đồng bằng rộng lớn, có nhiều vùng chiêm trũng vì vậy khi địch dùng chinhs sách càn quét sẽ không thể tiến hành triệt để, có thể chúng không thông thuộc địa hình như nhân dân miền Nma…vì vậy, với lối đánh du kích và khi cần tiến hành trên dịên rọng có thể gây tổn thất sinh lực địch, vì vậy chủ trương đấu tranh vũ trang là hợp lí.
Thứ năm, xuất phát từ chủ trương của đảng về chính sách cán bộ của Đảng, được thể hiện qua 3 chính sách:cs giữ lại một số cán bộ ở miền nam khi thực hiện hiệp định Giơnevơ, luân chuyển cán bộ, công tác tình báo.
Như vậy, từ những vấn đề nêu trên là điều kiện cơ bản và quan trọng giúp Đảng chủ trương khởi ngiã vũ trang ở cách mạng miền Nam lúc này. Đó không chỉ là sự chỉ đạo đúng đắn mà còn thể hiện sự nhạy bén về lãnh đạo cách mạng của Đảng. Tất cả những vấn đề nêu trên là cơ sở quan trọng giúp cách mạng miền Nam có sự chủ đọng và sẵn sàng nổi dậy bất cứ lúc nào.
Vì sao nói: mặc dù Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta nhưng so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn?
Đầu năm 1945 nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã mở cuộc “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam. Tình hình đó buộc Đảng ta phải mở các hội nghị nhằm phân tích tình hình để đề ra các đường lối đấu tranh đúng đắn. Hội nghị trung ương lần thứ 11 và 12 đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến trong cả nước. Trên cơ sở đó Đảng cũng nhận định “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa hàng chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta nhưng so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn”.
Vì sao Đảng lại có nhận định như vây? Đảng căn cứ vào 3 vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, căn cứ vào thế và lực của ta và địch trên chiến trường. Về phía ta, đang giành thế chủ động tấn công trên mọi mặt trận đã đánh tan chiến lược chiến tranh đặc biệt của kẻ thù, vì vậy tạo niềm tin và sức mạnh tinh thần rất lớn, đặc biệt chúng ta đang ở thế tiến công. Ngược lại, quân địch rơi vào trạng thái hoang mang lo sợ, bị động do chúng ta đã chiến thắng trên chiến trường. Vì vậy, khi quân địch tăng cường quân viễn chinh mặc dù cũng là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới nhưng buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và thế bị động cho nên chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.
Thứ hai, các lực lượng tiến bộ trên thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ một cách gay gắt vì vậy chúng tăng cường quân viễn chinh cũng chỉ là hành vi uy hiếp tinh thần, chúng muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự của mình nhưng thực chất bọc lộ sự nhu nhược và bất lực. Bởi lẽ, chúng đang tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa nhưng nhân dân ta đang tiến hành cuộc chién tranh chính nghĩa chông lại đế quốc để giành độc lập, tự do, vì vậy luôn được sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Chính điều này cũng phần nào tạo tâm lý lo ngại cho kẻ địch nhưng lại là nguồn lực tinh thần vô cùng to lớn cho chúng ta tiến công địch khi chúng tăng cường quân viễn chinh.
Thứ ba, xuát phát từ vị trì địa lí của miền Nam, đây là vùng đồng bằng nhưng lại có tính phức tạp, có nhièu vùng chiêm trũng rộng lớn…vì vậy khi quân thù tăng cường quân viễn chinh buộc phải dàn mỏng lực lượng để đối phó với quân đội ta (áp dụng lối đánh du kích). Do đó khi chúng rải quân cũng sẽ rơi vào bất lợi, lực lượng mỏng sẽ không thể phát huy sức mạnh quân đội và quân ta lại am hiểu địa hình địa vật ở đây nên chúng sẽ bất lợi khi chúng ta tiến công.
Đánh giá
Tất cả những vấn đề trên Đảng ta đã phân tích và nghiên cứu rất kĩ, tưởng chùng như rất đơn giản nhưng lại hợp lí xét cả về yếu tố tinh thần và yếu tố vật chât. Cũng phải nhạn thấy một vấn đề là, nhận định trên của Đảng không phải là sự chủ quan, khinh địch, nóng vội mà rất khoa học, thể hiện tư duy nhạy bén về quân sự và thế tiến công. Chính những nhận định này đã vừa giúp Đảng ta đề ra được những đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa tạo niềm tin cho quân và dân trước kế hoạch mới của quân thù. Và thực tế chúng ta đã đánh tan chiến lược chiến tranh cục bộ và dần dần giành được những thắng lợi vẻ vang trước quân thù hùng mạnh nhất thế kỉ 20.
Mặc dù có chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra nhưng sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc vẫn có thể phát triển được?
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền bắc dù gặp phải rất nhiều khó khăn đặc biệt là sự phá hoại của Mỹ bằng không quân nhưng vẫn phát triển được. Bởi lẽ:
- Sự nghiệp đó là con đường duy nhất đưa nhân dân ta thoát khỏi những tháng ngày lầm than.
- Sự nghiệp đó là kết quả của những năm tháng đấu tranh của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh đó nhân dân ta phải hy sinh rất nhiều, đã phải bỏ cả máu và nước mắt.
- Sự nghiệp đó là con đường lựa chọn của Đảng của Nhà nước vì thế với lòng tin vào Đảng và Nhà nước nhân dân ta tin tưởng vào con đường Đảng đã chọn và quyết tâm đi theo con đường đó.
- Nhân dân ta đoàn kết, cùng nhau xây dựng, cùng nhau sản xuất
- Vì tình yêu thương với miền Nam thân yêu. Tích cực thi đua sản xuất để viện trợ cho Miền Nam, tạo điều kiện để miền nam nhanh chóng hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Những đường lối, kế hoạch đúng đắn của Đảng trong quá trình phát triển, sản xuất.
- Sự ủng hộ của nhân loại thế giới là niềm cổ vũ lớn đối với nhân dân ta. Ngoài sự ủng hộ về tinh thần một số quốc gia còn ủng hộ Việt Nam về vật chất và kỹ thuật, tri thức như người bạn Liên Bang Xô Viết.
Những điểm không đúng trong nội dung công nghiệp hóa do Đại hội lần thứ IV xác định?
Thứ nhất, đường lối công nghiệp hoá của Đảng trước thời kì đổi mới, đặc biệt là trọng đại hội IV đề ra thể hiện sự nóng vội, giản đơn, duy ý chí cử đảng về vấn đề công nghiệp hoá, muốn làm nhanh, làm lứon mà mà ít quan tâm tới hiệu quả kinh tế . Mặc dú đã có sự điwuf chỉnh tquan trọng về tốc độ , bước đi và nội dung chính nhưng về cơ bản và trên thực tế về cơ bản vẫn chư thoát khỏi nhận thức cũ.
Thứ hai, trong đường lối xây dựng công nghiệp hoá trong đại hội IV Đảng ta vẫn nhận thức và tiến hành theo kiểu cũ với đặc trưng chủ yếu là nền công nghiệp hoá theo hướng khép kín , hướng nội và thien về phát triển công ngiệp nặng , CNH chủ yếu dựa vào lưọi thế lao động, tài nguyên đất đai và nguòn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa , chủ lực thực hiện công nghiệp hoá là các doanh nghiệp nhà nước , việc phân bổ nguồn lực công nghiệp hoá được thực hiện thông qua cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, không tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường nên khoông thành công.
Bên cạnh đó, Đại hội vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăm cấm triệt để. Sản xúât chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng súât thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Nội dung công nghiệp hóa do đại hội lần thứ V của Đảng xác định?
*, Quan điểm của Đảng cộng sản VNvề cộng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) của Đảng.
- Công trình xã hội chủ nghĩa là quá trình Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội, tạo ra điều kiện cơ bản cho Chủ nghĩa xã hội thắng lợi.
- Đảng ta sớm đặt ra và luôn luôn coi công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Tuy nhiên quan điểm, nội dung bước đi vv… Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì dần dần được điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đã xác định công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta: “…CNH XHCN cân đối và hiện đại kếp hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại”.
- Quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá XHCN do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đề ra, đến hội nghị BCHTW lần thứ 19 (3/1971) của Đảng đã được bổ sung và phát triển thiêm. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một ách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ…
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng đề ra đường lối Xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN Xây dựng cơ sở vật chất của
CNXH…Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ …”
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng nhận thấy rằng đường lối cách mạng XHCN và đường lối xây dựng nền kinh tế xhcn do đại hội IV đề ra là cho suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để đường lối được thực hiện thắng lợi, cần cụ thể hoá đường lối chung đó thành những chặng đường với những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể, sát hợp với yêu cầu và khả năng cho phép của từng chặng đường.
-Từ nhận thức mới đúng đắn đó, đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Dảng đã vạch ra chiến lược kinh tế –xã hội tổng hợp của chặng đường trước mắt đến năm 1990.
- Đại hội xác định “Trong năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp một bước lớn sản xuất lớn XHCN, ra sức đảy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một só ngành công ngiệp nặng quan trtrọng …Đó là nội dung chính của công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường trước mắt”
Nội dung CN hóa XHCN do đại hội lần thứ VI xác định?
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì trước. Đó là:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Vì sao công nghiệp hóa gắn vs hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn vs phát triển kinh tế tri thức?
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Đại hội Đảng 10 xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tính tất yếu khách quan của CNH-HDH: do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật XHCN, do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ nước ta với các nước trong khu vực và thế giới, do yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của CNXH.Chúng ta tiến hành CNH-HDH trong khi nền kinh tế tri thức đang phát triển.chúng ta có thể và cần thiết không phải trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức, Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội, duy ý chí. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ.Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh hoạc và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Vì tầm quan trọng của kinh tế tri thức nên đại hội 10 đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.”
Hạn chế của cơ chế hành chính tập trung bao cấp.
Thứ nhất, phương thức quản lí của nhà nước chư thực sự hợp lí. Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bằng phương pháp mệnh lện áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt dộng dự trên cơ sở các quyết định của nhà nước và chỉ tiêu pháp lệnh được giai. Tất cá phương thức sản xuất, nguồn nguyen liệu, vốn, vật tự, thiết bị…đều do cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, cơ quan quản lí nhà nước can thiệp quá sâu và hoạt động sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu một loại trách nhiệm vật chất ciũng như pháp lí trứoc quyết định của mình . Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuât kinh doanh, cũng không bị ràng buộc vào kết quả hoạt động sản xuát kinh doanh, do đó khôbng tạo được sự chủ động, năng động, sáng tạo trong sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, quan hệ hàng hoá, tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức quan hệ hiện vật chủ yếu . Nhà nước quản lí thông qua “cấp phát, giao nộp”.
Thứ tư, bộ máy quản lí nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu, tham nhũng nhưng lại hưởng quyền lợi cao hơn người lao đông.
Tính tích cực của cơ chế thị trường.
Sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự ra đời của cơ chế kinh tế này về thực chất khá mới mẻ với chúng ta (mặc dù nó không hề mới trong tu duy quản lí của các nứoc phương Tây). Chúng ta đã quen thuộc với cơ chế kinh tế tâo trung quan liêu bao cấp vì vậy chuyển đổi sang loại hình này vẫn tỏ ra một số e ngại trong xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã chúng minh, loại hính kinh tế này đã tạo ra những bước ngoặt trong nền kinh tế, đưa đất nước ta ngày một đi lên, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân.
Xét về mặt lí luận và thực tiễn, chúng ta nhận thấy cơ chế thị trường có những mặt tích cực sau đây:
Một là, Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trước đó cơ chế quản lí quan liêu bao cấp cũng từng mang lại hiệu quả to lớn trong thời kì chíên tranh. Tuy nhiên chúng ta vẫn duy trì một thời gian dài sau hoà bình đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Giải thích cho vấn đề này là vì, với cơ chế đó đã vô hình trung kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng cơ chế thị trường đã tháo gỡ được nhưng vướng mắc ấy, được tự do phát triển, nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế ra đời và tự do phát triển.
Hai là, Tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể, các thành phần kinh tế, không ngững cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh lành mạnh xét về mặt khách quan là nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong việc phát triển miễn là chấp hành đúng pháp luật. Không có một rào cản ngăn cấm hay bênh vực cho chủ thể nào trong xã hội, sự cạnh tranh này suy đến cùng cũng sẽ tạo ra sự đào thải lẫn nhau để tồn tại và là động lực cho sự phát triẻn kinh tế. ĐIều này cũng giải thích vì sao các chủ thể muốn tồn tại phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nó khác hẳn với cơ chế cũ theo phương pháp mệnh lệnh hành chính, với cơ chế thị trường các chủ thể được tự do kinh doanh.
Ba là, Các doanh nghiệp tự chủ, năng động sáng tạo trong phát triển kinh tế. Thật vậy, cũng vì sự cạnh tranh lẫn nhau mà các doanh nghiệp, các chủ dự án kinh tế phải không ngừng vận động sáng tạo, điều đáng nói là, sự sáng tạo này không bị áp lực lớn như trong cơ chế cũ. Vì trong thời kì bao cấp, sáng tạo nhièu khi là đi ngược lại chủ trương dường lối của Đảng, là chống đối đảng trong hoạt đông kinh doanh và tất nhiên sẽ bị trừng phạt. Song trong co chế thị trường, rào cản ấy được xoá bỏ và các doanh nghiệp an tâm kinh doanh và khong ngừng sáng tạo.
Bốn là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Thực tiễn đã chứng minh điều này qua hơn 20 năm chứng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Nhân dân đã không còn phải lệ thuộc quá lớn vào sự cấp phát của nhà nước, tự phát triển và làm kinh tế riêng. …
Năm là, cơ chế thị trường sẽ là cơ hội để nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu giữ mãi cơ chế bao cấp cũ, sẽ rất khó để chúng ta tham gia vào đời sống hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Hiện tại, nứoc ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang có cơ hội rất lớn để tham gia phát triển nền kinh tế đa phương mang lại những nguồn lợi để phát triển đất nước
Hạn chế của cơ chế thị trường?
Bản chất của một sự vật, hiện tượng luôn có tính hai mặt của nó. Theo tâm lí chung trong hoạt động quản lí và phát triển đời sống xã hội, nếu một sự vật, hiện tượng đem lại lợi ích lớn hơn nhiều so với hậu quả thì sẽ được ưu tiên lựa chọn. Tất nhiên đó là một quy luật khá phổ biến và cơ chế thị trường cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Xét ở một bình diện chung nhất, cơ chế thị trưòng vẫn tỏ ra có nhiều hạn chế. Trong đó đáng quan tâm những hạn chế như sau:
Thứ nhất, cơ chế thị trường tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. Điều này là một thực tế tồn tai khá phổ biến ở hầu hết các nước. Theo quan niệm của một số học giả tư sản, có vẻ như họ cho rằng phân biệt giàu nghèo chính là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, chúng ta phải phủ nhận điều đó, khi chúng ta đang trên con đường đi lên chủ nghỉa xã hội. Chúng ta biết rằng, hiện nay cơ chế thị trường đã không còn xa lạ nữa vì nó gắn liền với sự phát triển hằng ngày của mỗi người trong xã hội. Những doanh nghiệp làm ăn phát đạt sẽ trở nên giàu có và những người lao động vẫn cứ lao đông nghèo khó, khoảng cách giữa họ ngày một nâng lên về cả góc độ cá nhân lẫn vùng miền….
Thứ hai, cơ chế thị trường cũng có những hạn chế trong việc cạnh tranh không lành mạnh. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ mói thành lập sẽ không thể cạnh tranh với một tập đoàn kinh tế lớn về quy mô và vốn. Vì vậy, sẽ dần sa sút và sẽ bị phá dản. Điều này có thể xuất phát từ những yếu tố khá nhau nhưng cũng cần nhấn mạnh tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau, khi có những thủ đoạn, những chieu thức nhằm lật đổ đối phương….Trước đây chúng ta vẫn quan niệm sai lầm rằng, phá sản danh nghiệp là tích cực. Nhưng hiện nay nó là tiêy cực vì để lại nhiều gánh năng như lao động, nguồn thu nhà nước từ thuế, sự độc quyền của những doanh nghiệp…vì vậy kinh tế khó phát triển hơn. Vì vậy, ở một góc độ nào đó chúng ta vẫn thữa nhận ơ chế thị trường tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh.
Ba là, tệ tham nhũng sẽ phát triển trong bộ máy quản lí nhà nước.
Bốn là, tệ nan xã hội ngày một gia tăng nhanh chóng về số lượng và để lại hậu quả nghiêm trọng. Hiện nay, cơ chế thị trường toạ ra sự hội nhập đa phưong vì thế sự du nhập của nhiều yếu tố văn hoá không phù hợp với thuần phong, mĩ tục của dân tộc trong đời sống xã hội. Những cái đó vô hình trung tạo sự tò mò trong moi tầng lớp xã hội, vì vậy mà đã có nhiều tệ nạn xã hội phức tạp khác hẳn với các thời kì trước đó.
Năm là, tạo nên môt hình ảnh không tốt về xã hội, tất cả sống vì tiền, đồng tiền nhiều khi là thước đo của các giá trì, chuẩn mực mà vốn dĩ nó không thể cân đo đong đếm bằng vật cất….
Những giải pháp để hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay ?
Để giải pháp vấn đề phân hoá giàu nghèo (PHGN) thì trước hết chúng ta phải giảm tỷ lệ đói nghèo, và giảm bất bình đẳng xã hội thì mới có khả năng thu hẹp sự chênh lệch giữa giàu và nghèo. Muốn vậy trước hết chúng ta phải rút những bài học từ một số nước trên thế giới.
Đảng và nhà nước ta đã áp dụng một số chính sách nhằm hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, nâng coa đời sống của người dân, xoá đói giảm nghèo. Nhưng nó chỉ mang tính cấp bách, tạm thời. Việc xây dựng đất nước theo con đường XHCN là một chặng đường rất khó khăn, gian khổ và cần rất nhiều thời gian vì vậy chúng ta phải có những chính sách mang tính chiến lược về lâu dài, đó chính là ổn định kinh tế chính trị xã hội.
1.1.Những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm hạn chế sự PHGN
*Giải pháp chính trị.
Theo cuốn "Kinh tế học phát triển" và qua nghiên cứu thực trạng xu hướng phát triển của PHGN ở nước ta trong quá trình chuyển đổi phát triển nền KTTT những năm gần đây cho thấy để điều tiết quá trình này theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, cần phải tiến hành đồng thời và biết kết hợp chặt chẽ giữa các giải pháp về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội... Trong đó giải pháp chính trị có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vấn đề PHGN.
Chính thực tiễn chính trị Việt Nam và trình độ phát triển xã hội Việt Nam trong điều kiện quá độ lên CNXH nói chung. Thực tiễn giải quyết sự PHGN từ đổi mới tới nay nói riêng đã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giải pháp chính trị và đòi hỏi phải nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất của chính trị cũng như vai trò của định hướg chính trị trong quá trình giải quyết sự PHGN trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta.
Thực chất của giải pháp chính trị đó là tạo ra môi trường chính trị ổn định để phát triển và tăng trưởng kinh tế, đồng thời thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nền dân chủ XHCN, tức là tạo môi trường dân chủ, công bằng cho nhân dân lao động, trong đó có người nghèo, để họ..... nhóm đối tượng trở thành chủ thể có vị trí trong xã hội. Đồng thời phát huy tính tích cực của người lao động nói chung, người nghèo nói riêng vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu một cách chính đáng cho bản than và hoà vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Chính môi trường dân chủ, công bằng là đảm bảo chắc chắn nhất cho các quyền cơ bản của công dân: Dân sinh, dân trí, dân quyền... Trên cơ sở đó tạo nên sự đồng thuận xã hội làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Để thực hiện vai trò, giải pháp chính trị trong việc giải quyết sự PHGN cần hướng vào một số nhiệm vụ chính sau:
- Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị để tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững, nhanh chóng của đất nước vượt qua "ngưỡng" nghèo.
- Thứ hai: Thực hiện công bằng và dân chủ, tạo động lực thúc đẩy quá trình giải quyết sự PHGN ở nước ta hiện nay.
Như vậy, để vững vàng, ổn định về chính trị chúng ta cần phải xây dựng hệ thống chính trị nhằm đảm bảo mục tiêu dân chủ, đảm bảo cho người dân có môi trường ổn định tự do phát triển nhưng bên cạnh đó muốn giải quyết được sự phân hoá giàu nghèo ta cũng cần phải có giải pháp về kinh tế - xã hội.
* Giải pháp kinh tế - xã hội.
Những giải pháp kinh tế - xã hội cần phải bảo đảm: Một mặt thúc đẩy tăng truởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất thực hiện các chính sách hội nói chung, mặt khác giải quyết hài hoà lợi ích giữa các giai tầng, tầng lớp trong xã hội... sao cho xây dựng đất nước vững mạnh theo con đường lối XHCN đã chọn. Vậy những giải pháp đó là:
-Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân và là cơ sở quyết định nhất để giải quyết sự PHGN nói chung, xoá đói giảm nghèo nói riêng.
+ Phát triển và chuyển dịch có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
+ Lựa chọn công nghệ hợp lý đối với nông nghiệp – nông thôn.
+ Điều chỉnh các chính sách ruộng đất.
+ Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng mọi nguồn vốn.
+ Giải quyết "đầu ra" cho nông sản hang hoá để đẩy mạnh sản xuất hang hoá nói chung, sản xuất hang hoá nông phẩm nói riêng.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà Nước trước xu hướng PHGN ở nước ta hiện nay.
+ Tạo môi trường kinh tế - xã hội và khuôn khổ pháp lý ổn định, an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế.
+ Phát huy tích cực của KTTT bằng cách duy trì và phát triển quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực cuốn hút mọi người vào phát triển kinh tế xã hội.
+ Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
+ Tiến hành cải cách ruộng đất, tạo điều kiện cho người nghèo được vay lãi theo lãi suất ưu đãi, đánh thuế luỹ tiến vào người có thu nhập cao, nhằm hạn chế sự phân biệt giàu nghèo và thực hiện xoá đói giảm nghèo.
* Giải pháp văn hoá.
Thu hẹp khoảng cách đời sống văn hoá giữa thành thị và nông thôn. Do tình trạng đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn... làm cho một số người ở nông thôn chán nản, bế tắc muốn rời làng quê ra thành thị kiếm sống. Vì vậy cần phải phát triển đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn để thu hẹp khoảng cách văn hoá giữa nông thôn và thành thị.
Nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. ở nước ta, phát triển giáo dục nâng cao dân trí trước hết phải xoá mù, tái mù, thực hiện phổ cập giáo dục, đưa lại cho người nghèo quyền "sở hữu trí tuệ".
Bên cạnh đó cũng phải đầu tư một bộ phận có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo ưu thế vượt trội, tạo động lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tăng cường giáo dục văn hoá pháp luật và văn hoá dân chủ cho người dân để mọi người có ý thức hơn trong thời đại Việt Nam hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
1.2. Những giải pháp cấp bách nhằm hạn chế sự PHGN.
* Điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp nghèo:
Nhà nước dung tiền ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người gặp rủi ro, khuyết tật... thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp quốc gia, trợ cấp, tín dụng, ưu đãi... Ngoài ra còn các cuộc vận động đóng góp vào quỹ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ vùng thiên tai... Nhà nước còn tăng cường các dịch vụ công như dự án y tế công cộng, bệnh viện miễn phí cho người nghèo, chương trình nước sạch, chăm sóc người già cô đơn, trẻ em mồ côi. Hộ đói nghèo được miễn giảm các khoản đóng góp xã hội do địa phương qui định để xây dựng cơ sở sản xuất, dịch vụ... được miễn giảm các khoản thuế như thuế nông nghiệp, thuế doanh thu.
* Chính sách lao động việc làm
Vấn đề việc làm luôn là vấn đề bức xúc trong mọi thời đại. Hiện nay nước ta có khoảng hơn 8 triệu người cần phải giải quyết việc làm nhất là trong tình trạng giá thị trường ngày càng có nhiều biến động và tăng cao như hiện nay. Theo Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội các giải pháp để giải quyết việc làm trong thời gian tới:
Phát triển kinh tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Thực hiện các hoạt động hỗ trợ việc làm như:
Chương trình trợ giá vốn và công nghệ. Phát triển các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, tổ chức điều tra, thu nhập thông tin về thị trường lao động.
Giải quyết lao động dôi dư.
* Chính sách đối với người có công với cách mạng.
+ Đối với dân tộc thiểu số.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau đòng bào dân tộc nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa đang gặp rất nhiều kho khăn . Nhà nước đã và đang tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển kinh tế xã hội miền núi như các chương trình chiến lược phát triển kinh tế miền núi, các chương trình xoá đói giảm nghèo ..v.v.
- Điều tiết giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường nhằm bảo đảm ổn định sản xuất và mức sống của những người có thu nhập thấp .
+ Với chính sách cho vay ưu đãi: Chúng ta phải có chính sách trợ giúp tín dụng cho vay vốn với điều kiện ưu đãi từng nguồn tín dụng của Ngân Hàng phục vụ người nghèo, quĩ xoá đói giảm nghèo, các chương trình xoá đói giảm nghèo.
Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho HP và các đạo luật giữ vị trí tối thượng
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Công bằng và tiến bộ xã hội trong điều kiện ngày nay, được hiểu là mọi người đều được tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển; mọi người đều có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về thông tin, giáo dục, y tế, việc làm… Do vậy, cần có những chính sách đồng bộ trong việc hình thành cơ cấu kinh tế cũng như trong cơ chế quản lý; bảo đảm sự công bằng trong lĩnh vực kinh tế đến công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội; từ khâu sản xuất, kinh doanh cho đến khâu phân phối, không chỉ coi đây là vấn đề thuộc khâu phân phối. hiện nay việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội chúng ta còn gặp một số khó khăn sau:
Một là, Chênh lệch giàu nghèo quá lớn.
Chênh lệch giàu nghèo là biểu hiện rõ nhất của bất công xã hội, nếu khoảng cách chênh lệch này ngày càng giãn ra trong khi kinh tế đất nước vẫn có tốc độ tăng trưởng khá, song mức độ cải thiện thu nhập của lớp người nghèo không được bao nhiêu, thì đây là một vấn đề rất đáng được báo động. Ở Việt Nam, vấn đề còn quan trọng và gay gắt hơn nhiều chính là chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa nông thôn và thành thị. Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là 378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng. Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của thành thị là 594.500 đồng, còn của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là về thu nhập cũng như chi tiêu, thành thị đều gấp hơn hai lần so với nông thôn. Nhưng đó cũng chỉ là những con số đã được “bình quân hóa”, trong thực tế, khoảng cách giàu nghèo còn nặng nề và đau xót hơn rất nhiều. Nhiều vùng nông thôn miền núi còn thiếu lương thực, hoặc chỉ có bắp không có gạo, thiếu nước sinh hoạt, thiếu các dịch vụ công cộng tối thiểu.
Hai là, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm quá lớn đã gây rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng ở nước ta hiện nay.
Đáng quan tâm nhất là ở nông thôn, nạn thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những tháng nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển sang công nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một số tiền đền bù ít ỏi đã trở nên trắng tay, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị. Cái nghèo bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo vốn đã khá đông ở thành thị. Hàng chục vạn phụ nữ nông thôn phải đi kiếm sống ở xứ người mong có tiền gửi về nuôi sống gia đình.
Ba là, sự chênh lệch về tri thức quá lớn.
Nhưng người nghèo ở nước ta hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà còn nghèo về kiến thức và quá yếu thế trong việc bảo đảm các nhu cầu về y tế. Nhiều bài viết trên báo chí gần đây đã cho thấy nông dân đang là tầng lớp chịu nhiều bất công vì được hưởng ít nhất thành quả của công cuộc đổi mới.
Ngoài ra, đất nước trải dài theo đường vĩ tuyến, tính chất địa lí phức tạp, nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau vì vậy thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vẫn gặp không ít khó khăn. (Tự phân tích)
Vì sao phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay?
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc.
Nói tới cốt cách của con người là nói đến nét đặc sắc, đặc trưng về tính cách của một con người hoặc của một tầng lớp xã hội. Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Lĩnh vực thể hiện rõ nhất cốt cách dân tộc, tinh thần dân tộc là văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc qua bao thăng trầm của lịch sử. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là "chất", là "bộ gien" của mỗi dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là bảo vệ, giữ gìn bộ gien quý đó. Một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn hóa có đủ "sức khỏe" để đề kháng, chống lại sự "ô nhiễm văn hóa" hay "xâm lăng văn hóa" một cách vô thức hay có chủ định. Đây là một điều kiện cơ bản để "tiếp biến" văn hóa trước sự tác động nhiều chiều, phức tạp của khách quan được thực hiện một cách chủ động, tích cực. Chỉ như vậy, nền văn hóa dân tộc mới không bị "hòa tan" hay "lai căng" một cách thô thiển, mất bản sắc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với những cái mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh sự tiếp biến kỳ diệu của nền văn hóa Việt Nam trong điều kiện bị nước ngoài xâm lược. Đó là sự tiếp biến giữ được cốt cách dân tộc, đồng thời phát triển được bản sắc dân tộc trước những thách thức của lịch sử. Đây là một truyền thống, một "cốt cách dân tộc" cần được phát huy trong điều kiện phát triển kinh tế của nước ta hiện nay.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Tự là tự mình, tôn là đề cao. Tự tôn là tự mình coi trọng mình. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải "đi sâu vào tâm lý quốc dân" để từ đó "văn hóa soi đường cho quốc dân đi".
Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh giúp dân tộc vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Hành động tự nguyện quyên góp tiền vàng cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay tự hào sử dụng những sản phẩm sản xuất trong nước để phát triển kinh tế đất nước chính là minh chứng khẳng định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc cho sự phát triển kinh tế bền vững của dân tộc.
Hội nhập quốc tế là một quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Nó tạo ra một môi trường thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, đồng thời cũng phân chia thế giới thành hai cực giàu nghèo một cách khốc liệt tạo nên sự phụ thuộc khó tránh khỏi của các quốc gia kém phát triển vào các nước phát triển. Đó là nguyên nhân của sự bất bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình đẳng này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa, đe dọa bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa của các dân tộc có trình độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình thành lối sống hưởng thụ, suy tôn vật chất, chú trọng vật dụng hiện đại mà coi nhẹ những giá trị tinh thần thuộc về dân tộc; đề cao cái cá nhân mà suy giảm tính cộng đồng, mờ nhạt về ý thức tự tôn dân tộc... tất cả những điều đó đều làm suy yếu đi sức mạnh của dân tộc. Củng cố ý thức tự tôn dân tộc sẽ góp phần điều tiết, định hướng giá trị để hạn chế những mặt tiêu cực đó. Như vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc gia sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sự phát triển của dân tộc giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi phương diện. Đảng ta khẳng định: trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hướng tới một nền văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú về sắc thái chứ không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú hoàn toàn đối lập với sự nghèo nàn, đơn điệu. Đa dạng, phong phú về bản sắc là một thuộc tính của văn hóa thể hiện khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc trong quá trình phát triển. Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Fedrico Mayor đã từng cảnh báo: sự "đồng hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại"(1)
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất nhiều giá trị văn hóa trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyền thống đó được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới và đáp ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Trong thực tế, lòng yêu nước, yêu lao động, yêu chuộng hòa bình và nhiều giá trị nhân văn khác đã trở thành sức mạnh tinh thần giúp mỗi dân tộc vượt qua những gian nan thử thách để phát triển ngày càng vững mạnh. Những tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể "sánh vai" cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế. Yêu nước, yêu lao động không chỉ là trân trọng đất nước và quý trọng lao động mà còn là động lực để dân tộc đó không ngừng vươn lên những tầm cao của tri thức, nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả lao động, tạo ra những hàng hóa có sức cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa các nước khác trên thị trường quốc tế. Yêu chuộng hòa bình là để bảo vệ sự ổn định, phồn vinh không chỉ cho mỗi dân tộc mà còn cho một thế giới tốt đẹp... Đó là những giá trị phù hợp với thời đại ngày nay.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội.
Con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên và là một bộ phận không thể tách rời thế giới đó. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người ngày càng ý thức rõ rệt về mối quan hệ hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, con người với con người. "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa" đã trở thành triết lý sống của con người trong mọi thời đại. Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của chiến tranh, khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế.
Hiểu theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong hoạt động sản xuất và đời sống xã hội. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường sống mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Điều này không chỉ có ý nghĩa với văn hóa mà còn có ý nghĩa với quá trình phát triển kinh tế khi mà hệ lụy của quá trình phát triển công nghiệp như vấn đề ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên đang là mối đe dọa đầy bất trắc cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Hơn lúc nào hết, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với phát huy cách ứng xử văn hóa với tự nhiên và xã hội được coi như một bảo đảm cho sự ổn định và phát triển.
Những thuận lợi, khó khăn trong văn hóa hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Thuận lợi:
Việc giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới là nguồn bổ sung, làm giàu có thêm cho nền văn hóa mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đóng cửa khép kín sẽ khô héo, thiếu sức sống và kém phát triển. Giao lưu với các nền văn hóa đa dạng trên thế giới, văn hóa VN sẽ có cơ hội tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại của các dân tộc khác trên thế giới nhằm làm phong phú, giàu có cho nền văn hóa VN.
Khó khăn:
Với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một vấn đề rất quan trọng đặt ra là giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Trên thế giới, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào đều tìm mọi cách giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa của riêng mình, vì mất bản sắc sẽ không còn là một quốc gia, một dân tộc nữa. Bản sắc văn hóa mỗi dân tộc đã đóng góp chung cho nền văn minh nhân loại, làm cho nó đa dạng, phong phú, kết tinh những tinh hoa văn hóa của các dân tộc ở khắp các châu lục.
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần được quan tâm ngay trong cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như trong lĩnh vực nghệ thuật, đã xảy ra tình trạng không ít bạn trẻ đua nhau chạy theo nhạc rock, pop, hiphop... mà quay lưng với nghệ thuật truyền thống như hát dân ca, tuồng, chèo... Nhiều người mẹ trẻ không thuộc một bài hát ru. Ngay trong cách ăn mặc, nói năng, cử chỉ, hành vi, giao tiếp hằng ngày, muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần phải dựa trên cơ sở thuần phong mỹ tục của ông cha từ bao đời để lại. Mỗi gia đình phải giữ được nền nếp gia phong, con cháu hiếu thảo, vợ chồng thủy chung, anh em thuận hòa. Khu dân cư phải có tình làng nghĩa xóm, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Điều cấp thiết hiện nay là phải xây dựng được lối sống, nếp sống thấm nhuần đạo lý của con người Việt Nam. Lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền đang hủy hoại truyền thống nhân nghĩa, truyền thống đạo đức của dân tộc.
Khó khăn trong việc quản lý nền văn hóa chung, tăng cường sức đề khngs cho nền văn hóa.
Thực tế cho thấy, khi mở rộng giao lưu văn hóa, bên cạnh cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới thì những sản phẩm "văn hóa" xấu, độc từ bên ngoài cũng tràn vào nước ta. Nạn sách đen, video đen, băng đĩa kích thích bạo lực, kích dục len lỏi đến tận ngõ xóm, làng quê. Chúng ta mất bao nhiêu công sức truy quét mà vẫn chưa xóa bỏ được. Những sản phẩm văn hóa xấu, độc này rất nguy hại, làm vẩn đục môi trường văn hóa, ảnh hưởng tới lối sống, đạo đức của mọi người, nhất là lớp trẻ. Càng mở rộng giao lưu văn hóa, càng phải ngăn chặn quyết liệt những sản phẩm văn hóa xấu, độc. Ngăn chặn có hiệu quả chính là góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Khó khăn trong việc phải đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và làm giàu văn hóa trong quá trình hội nhập.
Phương châm đối ngoại của đảng ta hiện nay?
Về phương châm đối ngoại, nền ngoại giao của nước Việt Nam mới quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1996 – 2008: bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đại hội VIII (tháng 6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của ĐH VIII có các điểm mới, đó là chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dan, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; chủ trương thử nghiệm trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại để tiến tới thực hiện đàu tư ra nước ngoài. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội VIII, Hội nghị trung ương 5 khóa VIII (12/1997) đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập WTO.
+ Đại hội IX (4/2001) nhán mạnh chủ trương chủ động hội nhậ kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nọi lực. Đại hội IX nêu rõ quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước. ĐH IX đã phát triển thành “VN sẵn sang là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, hấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”.
+Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị (11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết trung ương 9 khóa IX (1/2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập WTO, kiên quết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ ĐH X (4/2006) tiế tục khẳng định đường lối đối ngoại của Đảng đã đề ra từ các ĐH trước, đồng thời đề ra chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn cảnh chủ động quyết định đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích lựa chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập; Khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh đổi mới bên trong, tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa dạng, đa phương hóa qun hệ quốc tế được xác lập trong 10 nưm đầu của thời kỳ đổi mới, đến ĐH X được bổ sung, phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 39 câu hỏi và đáp án thi môn đường lối cách mạng của ĐCS Việt Nam.doc