Việt nam – một môi trường tiềm năng thu hút đầu tư fdi trong giai đoạn 2006 đến nay

Vai trò của nguồn vốn FDI ngày càng được khẳng định. Nó trở thành nhân tố hấp dẫn mà nhiều quốc gia muốn nắm giữ. Và Việt Nam - không nằm ngoài vòng xoáy đó, cũng không ngừng nỗ lực để ngày càng thu hút nguồn đầu tư FDI nhiều hơn. Vậy nguồn đầu tư FDI vào Việt Nam như thế nào? Tại sao Việt Nam lại làm được điều đó? Tại sao chúng ta phải thu hút đầu tư ? Và những dự án lớn nào đã được đầu tư vào nước ta? Hiệu quả của việc đầu tư ra sao? .Với đề tài này, nhóm chúng tôi mong muốn sẽ đưa ra câu trả lời rõ hơn, sâu hơn về các vấn đề đó. Song, với vốn kiến thức có hạn và những lý do khác, chúng tôi không tránh khỏi sai sót trong bài viết của mình. Chúng tôi kính mong nhiều sự góp ý chân thành để đề tài này hoàn thiện hơn.

doc58 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt nam – một môi trường tiềm năng thu hút đầu tư fdi trong giai đoạn 2006 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm tỷ trọng 76% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này) gồm: Hàng dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu sang thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng ước tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2007 với các mặt hàng chính là: Dầu thô, gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Thị trường EU ước tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước gồm các mặt hàng truyền thống như: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 8,8 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày dép, thủy sản, máy tính và linh kiện, dây và cáp điện. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 16,1% so với tháng trước do một số mặt hàng nhập khẩu tháng này tăng mạnh là: Máy móc thiết bị tăng 272 triệu USD; xăng dầu tăng 78 triệu USD; thức ăn gia súc tăng 53 triệu USD; sắt, thép tăng 182 triệu USD. So với tháng 12/2007, kim ngạch nhập khẩu tháng 12 năm nay giảm 25%. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này tương ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007. Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nước đều tăng so với năm 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư và sản xuất. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đang có xu hướng tăng vào các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn chiếc, tương đương 380 triệu USD). Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử) ước tính đạt 13,7 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm trước, tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%. Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng xuất khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007. Hàng điện tử máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trước, đây là nhóm hàng không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên quan tới gia công, lắp ráp để xuất khẩu. Trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007; Trung Quốc 15,4 tỷ USD, tăng 23,2%; thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ USD, tăng 21,8 %; Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tăng 37,7%. Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu lớn nhất, đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm 2007. Cùng với xuất, nhập khẩu hàng hoá, năm 2008 còn đẩy mạnh xuất, nhập khẩu dịch vụ. Tổng trị giá xuất khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,1 tỷ USD, tăng 9,8% so với năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4 tỷ USD, tăng 7,2%; dịch vụ vận tải hàng không đạt 1,3 tỷ USD, tăng 23,7%; dịch vụ vận tải biển đạt 1 tỷ USD, tăng 27,7%. Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không 800 triệu USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%. b. Nguyên nhân chủ yếu Trước hết, đó là việc thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm qua, hàng loạt sự kiện quan trọng đã diễn ra, đó là: thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với việc khẳng định chủ trương tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường thu hút ĐTNN. Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức thành công Tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, tiếp theo là việc Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam. Thứ hai là nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập và mức sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện đã góp phần mở rộng dung lượng thị trường trong nước. Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tiêu thụ được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Thứ ba là, sự ổn định về chính trị - xã hội cùng với sự đảm bảo về an ninh đã làm cho nước ta được cộng đồng các nhà đầu tư quốc tế đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn. Thứ tư là, hệ thống luật pháp chính sách về ĐTNN đã tiếp tục được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong năm qua Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu thầu, đồng thời tiếp tục chỉnh sửa nhiều chính sách liên quan đến đầu tư. Nhiều luật mới cũng đã được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn, như Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ Luật Lao động liên quan đến đình công. Thứ năm, hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm vào các địa bàn trọng điểm, dự án quan trọng. Đặc biệt việc tổ chức các Hội thảo, Diễn đàn đầu tư trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của Lãnh đạo Chính phủ ta đã thu hút mối quan tâm của hàng trăm tập đoàn, công ty lớn của nước ngoài. Sáu là, cơ chế đối thoại giữa Chính phủ với các nhà đầu tư được tăng cường thông qua nhiều diễn đàn, nhất là Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ đã tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư đối với Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương. Chương 3: Triển vọng, giải pháp đầu tư FDI vào Việt Nam Giải pháp Để khắc phục các hạn chế trên và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương thực hiện các biện pháp hữu hiệu liên quan tới môi trường pháp lý, môi trường đầu tư - kinh doanh, bảo vệ môi trường sinh thái nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động FDI về mọi mặt, nhất là công tác thúc đẩy vốn giải ngân, hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động. Chúng ta tin tưởng năm 2009 sẽ tiếp tục giữ được kết quả trong thu hút và sử dụng vốn FDI, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế và thực hiện hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo theo mục tiêu đề ra. Để tiếp tục thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai 6 nhóm giải pháp cấp bách: Thứ nhất - nhóm giải pháp liên quan tới chính sách thu hút đầu tư: Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân... Thứ 2 - nhóm giải pháp về quy hoạch: Chính phủ yêu cầu công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư. Các địa phương hoàn thành báo cáo rà soát quy hoạch trong quý 4. Thứ 3 - nhóm giải pháp về cơ sở hạ tầng: Tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020, huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Thứ 4 - nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: Chính phủ yêu cầu hoàn thiện các văn bản pháp lý về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao trình độ lao động, đặc biệt đối với người nông dân bị thu hồi đất sản xuất để giao cho dự án. Thứ 5 - nhóm giải pháp về công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài: Chính phủ chỉ đạo Trung ương và địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Thứ 6 - nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn; tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương... Chính phủ cũng đề ra một số giải pháp khác như: đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư.  Mở cửa một số lĩnh vực d.vụ để tăng thu hút FDI là một trong những giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 2 năm 2009 và 2010 được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) đưa ra tại Phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 1-2009. Theo Bộ, ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu như: văn hóa-y tế- giáo dục, bưu chính- viễn thông, hàng hải, hàng không, sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư nhanh chóng hơn nữa vào cơ sở hạ tầng - một điểm yếu làm hạn chế sự phát triển và làm tăng thêm sức cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ta trong bối cảnh suy giảm kinh tế cũng như suy giảm về nguồn FDI trên toàn cầu. Bộ KHĐT cho biết: Do yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào đang là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, nhất là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa. Nổi cộm nhất hiện nay là hệ thống giao thông ở khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Bên cạnh đó hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như: Chân Mây, Nhơn Hội , Nam Phú Yên ... phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư phát triển các dự án FDI và đang cản trở việc giải ngân triển khai các dự án FDI trong các khu kinh tế này. Nhằm nhanh chóng cải thiện những bất cập về cơ sở hạ tầng, Bộ KHĐT sẽ tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Bộ khẳng định: Tranh thủ tối đa các nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này và dành sự ưu tiên cho các dự án: cấp - thoát nước, vệ sinh môi trường; hệ thống đường cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, nhất là đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản với hệ thống đường sắt quốc gia; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt điện từ mặt trời; mở rộng hình thức cho thuê cảng biển cũng như đối tượng cho phép đầu tư vào dịch vụ cảng biển, đặc biệt là dịch vụ hậu cần cảng biển... Vào ngày 11-2 tới đây, một cuộc họp về tình hình triển khai các dự án giao thông vận tải quan trọng theo hình thức BOT, BT và các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện sẽ được tổ chức nhằm rà soát, tổng hợp danh mục các dự án trong ngành giao thông vận tải theo hình thức BOT, BT để đưa vào danh mục quốc gia các dự án kêu gọi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Trên thực tế, ngành công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu. Do vậy, sản xuất công nghiệp của nước ta phụ thuộc vào nhập khẩu và giá thành sản phẩm khá cao, sức cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài kém. Các nhà đầu tư Nhật Bản rất lưu tâm đến việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến ở Việt Nam nên từ đầu năm đến nay, Nhật Bản đã ký kết với Việt Nam nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực này. Năm 2008, xuất khẩu của doanh nghiệp FDI chiếm 44% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 24% so với năm 2007. Giai đoạn 2006-2008, các doanh nghiệp này đã tạo việc làm cho khoảng 370.000 lao động, nộp ngân sách Nhà nước gần 5 tỷ USD. Tác động của suy thoái kinh tế đã khiến nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay giảm đáng kể. Triển vọng Mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới khiến nền kinh tế nước ta gặp phải nhiều bất ổn, như chỉ số giá tiêu dùng cao, môi trường kinh doanh kém thuận lợi so với năm trước… năm 2008 vẫn đi qua với kết quả “ngoạn mục” về thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước, đạt khoảng 65 tỉ USD - mức cao nhất từ trước tới nay. Điều này khẳng định, Việt Nam vẫn là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ tính riêng 11 tháng đầu năm 2008, cả nước đã thu hút trên 60 tỉ USD, trong đó cấp mới đạt 59 tỉ USD (1.059 dự án), bằng 82,5% về số dự án và tăng gấp 7 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2007; số còn lại là vốn đầu tư tăng thêm của một số dự án mở rộng sản xuất, kinh doanh. Quy mô vốn bình quân đầu tư của một dự án đạt 55,7 triệu USD/dự án thể hiện số lượng dự án có quy mô vốn lớn tăng hơn nhiều so với năm 2007 (12,2 triệu USD/dự án). Điều này thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư nước ta hiện nay. Đây là kết quả đáng khích lệ đối với các nhà hoạch định chính sách FDI, là thành quả của Chính phủ trong nỗ lực chỉ đạo, điều hành, của các cơ quan quản lý hoạt động FDI từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo môi trường đầu tư - kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh bạch và thông thoáng, phù hợp với cam kết quốc tế về giảm thiểu các khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó còn là sự tích cực, chủ động trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng đơn giản thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Môi trường đầu tư - kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao bởi việc hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực. Chính sách phân cấp việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động FDI về địa phương đã tạo thế chủ động và tích cực cho cơ quan quản lý đầu tư các cấp trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư đã đổi mới cả về phương thức lẫn nâng cao chất lượng thông qua nhiều hoạt động, như triển khai thực hiện Quyết định số 109/2007/QĐ-TTg, ngày 17-7-2007 của Thủ tướng Chính phủ, về việc ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007 - 2010; thành lập nhóm hỗ trợ dự án tiềm năng quy mô lớn, ảnh hưởng lớn tới địa phương; ban hành Danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI giai đoạn 2006 - 2010; xuất bản các tài liệu cập nhật, đĩa CD… liên quan tới hoạt động FDI; tổ chức nhiều hội thảo xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước, kết hợp với các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước; chú trọng hướng thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia nhằm thu hút các dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu. Một điều dễ nhận thấy là dòng vốn FDI vào Việt Nam trong vài năm trở lại đây không chỉ thay đổi về lượng (vốn đầu tư) mà cả về chất (chiều sâu đầu tư) thông qua sự có mặt của các tập đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực điện tử, như: Intel, Compal, Foxconn, Samsung… Đặc biệt trong năm 2008 còn xuất hiện dự án của các tập đoàn lớn, như Good Choi (Hoa Kỳ), Berjaya (Ma-lai-xi-a) v.v.. Điều này cho thấy, sau một thời gian nghiên cứu thị trường Việt Nam các tập đoàn nước ngoài đã quyết định đầu tư quy mô lớn, xem Việt Nam như một mắt xích trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Các dự án lớn nói trên sẽ kéo theo nhiều nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm phụ trợ phục vụ sản xuất. Vấn đề đặt ra là mức thu hút vốn FDI đăng ký nêu trên đã là đỉnh điểm của làn sóng FDI lần thứ hai vào Việt Nam kể từ năm 2005 tới nay hay chưa? Biểu đồ thu hút vốn FDI trong thời gian qua cho thấy, năm 2008 thu hút vốn FDI đạt mức cao nhất, tăng gấp hơn 5 lần so với năm 1996 - năm đỉnh điểm của làn sóng FDI đầu tiên vào Việt Nam. Mặc dù có ý kiến cho rằng: vốn FDI thời gian qua chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản, song trên thực tế kết quả thu hút vốn FDI trong 11 tháng đầu năm 2008 cho thấy, vốn đăng ký cấp mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 537 dự án có tổng vốn đăng ký 32,5 tỉ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 480 dự án với tổng vốn đăng ký 26,2 tỉ USD, chiếm 42% về số dự án và 43,9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch dần sang lĩnh vực dịch vụ với sự xuất hiện của một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực bất động sản, cảng biển. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng khu vực dịch vụ, bao gồm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế trong thời gian tới. Hiện nay đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có đăng ký mức vốn đầu tư trên 1 tỉ USD. Ma-lai-xi-a đứng đầu với 49 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỉ USD, chiếm 4,2% về số dự án và 25,5% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 với 127 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỉ USD, chiếm 12,8% về số dự án và 14,8% về vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 với 95 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỉ USD, chiếm 9,4% về số dự án và 12,89% về vốn đầu tư đăng ký. Bru-nây đứng thứ 4 với 16 dự án, vốn đầu tư 4,38 tỉ USD, chiếm 7,5% về vốn đầu tư đăng ký. Ca-na-đa đứng thứ 5 với 8 dự án, vốn đầu tư 4,23 tỉ USD, chiếm gần 7,5% về vốn đầu tư đăng ký. Kết quả trên cho thấy, các nhà đầu tư từ quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu á vẫn chiếm đa số trong tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Do vậy, để thu hút được nhiều hơn vốn FDI vào Việt Nam từ các nước có tiềm năng kinh tế thuộc châu Âu và châu Mỹ, việc xây dựng và triển khai chiến lược thu hút vốn FDI từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu lục này càng trở nên cấp thiết và phải được phối hợp đồng thời với việc nhanh chóng đưa các bộ phận đại diện cơ quan xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm đi vào hoạt động theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Không kể 7 dự án thăm dò, khai thác dầu khí (chiếm 18,1% tổng vốn đăng ký), trong 11 tháng đầu năm 2008, tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên đứng đầu 43 địa phương của cả nước có thu hút vốn FDI, do có liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion (Ma-lai-xi-a) với tập đoàn tàu thủy Vinashin, với tổng vốn đăng ký đạt 9,79 tỉ USD; Bà Rịa - Vũng Tàu đứng thứ 2, có 4 dự án với tổng vốn đăng ký là 9,3 tỉ USD, chiếm 16,6% tổng vốn đăng ký. Các địa phương có thứ tự tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh với tổng số vốn đăng ký đạt 7,99 tỉ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đăng ký; Hà Tĩnh: 7,8 tỉ USD, chiếm 14%; Thanh Hóa: 6,2 tỉ USD, chiếm 11%; Phú Yên: 4,3 tỉ USD chiếm 7,7%; Kiên Giang: 2,3 tỉ USD chiếm 4,09%; Đồng Nai: 1,78 tỉ USD chiếm 3,1%. Như vậy, sau hơn 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các địa phương thuộc khu vực miền Trung đã đạt được kết quả thu hút vốn FDI đáng khích lệ với sự góp mặt của một số dự án FDI có quy mô vốn đầu tư lớn hàng tỉ USD, chắc chắn sẽ có tác động không nhỏ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Theo đánh giá tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam năm 2008 được tổ chức vào ngày 1-12-2008 tại Hà Nội, khu vực doanh nghiệp FDI hiện đóng góp hơn 40% sản lượng công nghiệp, gần 60% tổng giá trị xuất khẩu, 20% lực lượng sản xuất và hơn 35% nguồn thu thuế. Tình hình hoạt động triển khai sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trong năm 2008 cũng đạt kết quả tích cực, mặc dù khu vực này cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Nhiều dự án lớn được khai trương, động thổ và triển khai xây dựng ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, như trong tháng 7-2008 có dự án sản xuất gang thép Hưng Nghiệp, Formosa đầu tư 7,879 tỉ USD, được cấp phép và khởi công xây dựng; dự án xây dựng khu đô thị đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, Berjaya Leisure (Ma-lai-xi-a) đầu tư 3,5 tỉ USD v.v.. Ước tính các doanh nghiệp FDI đã góp vốn đầu tư thực hiện trong năm đạt khoảng 11 tỉ USD, tăng 30,8% so với năm 2007. Doanh thu của khu vực FDI đạt khoảng 50 tỉ USD, tăng 26,3% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt khoảng 25 tỉ USD, tăng 24,9% so với năm trước. Nhập khẩu đạt khoảng 29 tỉ USD, tăng 34,5% so với năm 2007. Nộp ngân sách đạt khoảng 2 tỉ USD, tăng 33% so với năm 2007. Trong năm 2008, khối doanh nghiệp FDI thu hút thêm khoảng 18 nghìn lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực FDI tính đến thời điểm này xấp xỉ 1,5 triệu lao động, tăng 15,7% so với năm trước. Bên cạnh những kết quả khả quan nêu trên, khu vực FDI còn những hạn chế như: công tác kiểm tra, giám sát quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức nên xảy ra tình trạng một số địa phương cấp mới một loạt dự án sử dụng nhiều đất (như sân gôn, khu công nghiệp, khu đô thị, khu vui chơi giải trí), tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, rác thải tại một số khu công nghiệp - khu chế xuất đến mức rất nghiêm trọng, ảnh hưởng tới môi trường sinh thái; thiếu lao động có tay nghề cao, việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp - nông thôn còn chậm, điều kiện làm việc và sinh hoạt của người lao động còn hạn chế, nhất là tình trạng đình công kéo dài không được giải quyết triệt để cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư - kinh doanh. Như vậy, tính lũy kế từ khi thực hiện Luật Đầu tư (năm 1987) đến nay, nước ta đã thu hút được khoảng 150 tỉ USD vốn FDI cam kết, nhưng vốn giải ngân mới đạt khoảng 56 tỉ USD, bằng khoảng 36% tổng vốn cam kết. Với quy mô vốn đăng ký tăng cao đột biến trong 2 năm 2007 và 2008 việc giảm khoảng cách giữa vốn FDI cam kết với vốn thực hiện đòi hỏi các cơ quan quản lý hoạt động FDI các cấp càng phải nỗ lực nhiều hơn trong việc hỗ trợ trực tiếp, thiết thực đối với các dự án đang triển khai trên địa bàn nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, triển khai giải ngân vốn theo đúng tiến độ đề ra; đồng thời tiếp tục tạo môi trường pháp lý, đầu tư - kinh doanh ngày càng minh bạch, hấp dẫn, phù hợp với cam kết quốc tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, cảng biển… bằng vốn đầu tư từ các nguồn khác (ODA, tư nhân…) bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài. Theo kết quả điều tra về môi trường kinh doanh năm nay do Ban Thư ký của Diễn đàn doanh nghiệp công bố tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam năm 2008, hầu hết các doanh nghiệp được điều tra đều tin tưởng Việt Nam sẽ vượt qua các thách thức, bình ổn kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh trong các năm 2009, 2010 và đến năm 2011 sẽ được cải thiện hơn. Theo thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp từ các địa phương, hiện có khoảng 50 tỉ USD vốn cam kết của các dự án đang trong quá trình xem xét, thẩm tra cấp giấy chứng nhận trong những năm tới. Tuy nhiên, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, khó khăn lớn mà các nhà đầu tư đang phải đối đầu là việc vay vốn của ngân hàng để đầu tư. Do vậy, khả năng các dự án FDI tại Việt Nam cũng không tránh khỏi trở ngại trên và như vậy tiến độ triển khai dự án cũng sẽ bị tác động. Chương 4: Đầu tư FDI của Việt Nam ra nước ngoài trong giai đoạn 2006 đến nay Đầu tư FDI của Việt Nam ra nước ngoài Đầu tư ra nước ngoài của DN Việt Nam ngày càng sôi động, xu hướng này sẽ ngày càng phát triển khi hành lang pháp lý trong nước đang dần hoàn thiện và những thuận lợi do hội nhập kinh tế mang lại được phát huy. Năm 2006, tính chung cả cấp mới và nâng vốn các DN Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài số vốn 347 triệu USD. Mức này chỉ xấp xỉ bằng năm 2005 nhưng được ghi nhận là rất tích cực vì trong năm 2005, vốn tăng đột biến là do có dự án thuỷ điện Xekaman 3 tại Lào với tổng đầu tư 273 triệu USD được cấp phép. Năm 2006, không có các dự án lớn nhưng số dự án lại tăng lên đáng kể. Trong tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài, có 33 dự án được cấp mới với số vốn 136,5 triệu USD. Có 4 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng đầu tư là 211,2 triệu USD. Với kết quả này, tính đến nay Việt Nam đã có 183 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn hơn 968 triệu USD. Các dự án của Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực công nghiệp mà chủ yếu là khai thác dầu khí và phát triển nguồn điện (chiếm 40,09% số dự án nhưng lại nắm giữ 74,5% số vốn đầu tư). Tiếp theo là lĩnh vực nông nghiệp 19,6% số dự án và 13,3% số vốn đầu tư. Số vốn còn lại tập trung các lĩnh vực thương mại - dịch vụ. Phần lớn các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tập trung chủ yếu tại hai địa bàn là Lào (63 dự án có tổng số vốn đầu tư 416,3 triệu USD) và Liên bang Nga (11 dự án với 73,06 triệu USD vốn đầu tư). Tuy nhiên, hiện dự án thăm dò khai thác dầu thô tại Angeri của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã phát hiện ra dòng dầu thương mại, nên vốn đầu tư được tăng thêm 208 triệu USD nâng tổng số vốn thành 243 triệu USD. Theo Bộ KH-ĐT, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DN Việt Nam sẽ ngày càng sôi động. Trước hết là do các DN trong nước sau một thời gian phát triển đã có khả năng tài chính và quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng việc đầu tư ra nước ngoài nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiết kiệm chi phí đầu tư sản xuất, chi phí vận tải và khai thác những lợi thế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Trong năm 2006, Luật Đầu tư được ban hành, Nghị định hướng dẫn đầu tư ra nước ngoài được xây dựng đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài thuận lợi hơn. Hiện nay, Đề án khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đang được Bộ KH-ĐT xây dựng để trình Chính phủ ban hành trong đầu năm 2007. Đề án sẽ cụ thể hoá các chính sách khuyến khích đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các địa bàn và lĩnh vực. - Năm 2007, Việt Nam đầu tư ra nước ngoài 391,2 triệu USD Thứ tư, 26/12/2007, 11:23 GMT+7. Tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài với số vốn đăng ký 391,2 triệu USD cho 64 dự án tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam đã rót 71,2% tổng vốn đăng ký để đầu tư tại Lào với 23 dự án có tổng vốn đăng ký 162,1 triệu USD, 1 dự án thăm dò khai thác dầu khí tại Madagasca với vốn đầu tư 117,36 triệu USD. Các doanh nghiệp Việt Nam thường tập trung đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (17 dự án, vốn đầu tư 156,8 triệu USD), chiếm 35,9% về vốn dự án và 40% về vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp (23 dự án, vốn đầu tư 147,1 triệu USD), chiếm 26% về số dự án và 37,6% về vốn đầu tư đăng ký. Số vốn còn lại đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Như vậy, trong 20 năm qua (1988 - 2007), đã có 249 dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 1,39 tỷ USD. Theo ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, bước đầu các dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đã thu được những kết quả khả quan. Một số dự án đã được điều chỉnh Giấy phép đầu tư mở rộng quy mô và hứa hẹn thành công. Cụ thể, trong lĩnh vực công nghiệp có các dự án thăm dò, thẩm lượng và khai thác dầu khí của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tại Angieri và Malaysia với vốn đầu tư thực hiện khoảng 30 triệu USD. Ngoài ra, trong lĩnh vực nông nghiệp các dự án trồng cao su tại 4 tỉnh Nam Lào của Tổng Công ty Cao su Việt Nam và Công ty Cao su Đắc Lắc với vốn đầu tư khoảng 60 triệu USD đã triẻn khai đúng tiến độ.Như vậy, theo đúng dự báo, ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính và quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh và thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Tính đến tháng 12 năm 2008, qua gần 20 năm thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có 368 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,39 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 27% tổng vốn đăng ký.  Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tại 43 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Riêng đầu tư vào thị trường châu Á có 257 dự án, với tổng vốn đầu tư là 2.852 triệu USD, chiếm 69,8% về số dự án và 64,9% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó tập trung đầu tư sản xuất điện- khai thác khoáng sản, trồng cây công nghiệp tại Lào. Đầu tư vào châu Phi có 10 dự án, tổng vốn đăng ký 291,3 triệu USD. Số còn lại thuộc châu Âu và châu Mỹ, chiếm 23,6% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó, Liên bang Nga có 17 dự án, vốn đầu tư là 945 triệu USD, chiếm 21,5% tổng vốn đăng ký; Hoa Kỳ có 40 dự án, tổng vốn đầu tư là 80 triệu USD, chiếm 1,8% tổng vốn đăng ký. (số liệu đầu tư ra nước ngoài tháng 12/2008 của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Đầu tư ra nước ngoài năm 2009 dự đoán sẽ đạt 1 tỷ USD Từ đầu năm đến nay, các hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam vẫn diễn ra theo hướng chủ động, với hơn 50 dự án thông qua tổng vốn đăng ký là 500 triệu USD. Các chuyên gia đánh giá, trong bối cảnh suy giảm đầu tư trên toàn cầu nói chung và trong nước nói riêng, kết quả trên là khá khả quan. Các dự án ĐTRNN chủ yếu tập trung ở lĩnh vực công nghiệp, với 24 dự án và 239 triệu USD vốn đầu tư (chiếm 46% tổng số dự án và hơn 75% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là các dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ: 21 dự án và 166 triệu USD vốn đầu tư; chiếm tỷ trọng thấp nhất cả về số lượng cũng như lượng vốn đầu tư là nhóm dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Cộng đồng DN của ta đang đầu tư vào 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong dó Lào là địa điểm tiếp nhận nhiều vốn đầu tư nhất, tiếp theo là Cam-pu-chia. Tính chung, đến nay các DN Việt Nam đã có hơn 317 dự án ĐTRNN còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư hơn 2,5 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 40% tổng vốn đầu tư). Đáng lưu ý, có một số DN đã “len” được vào những lĩnh vực quan trọng như dầu khí, hoá chất, chế biến thực phẩm, ngân hàng, du lịch… Trong đó có những dự án khá lớn về thăm dò, khai thác hoặc lọc hoá dầu với các đối tác như Venezuela, Algeria…hay xây dựng dự án công trình thuỷ điện tại Lào. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng lượng vốn đầu tư ra nước ngoài nói trên còn là rất nhỏ. Nguyên nhân chủ yếu là DN ta còn yếu về sức cạnh tranh, thời gian vươn ra thế giới chưa lâu nên thiếu kinh nghiệm, còn hạn chế về vốn và công nghệ, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện. Theo Bộ KH-ĐT thời gian tới, khi Việt Nam hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế, cùng với việc Chính phủ ban hành thêm những văn bản, quy định khuyến khích hoạt động ĐTRNN, xu hướng đầu tư sẽ tiếp tục gia tăng đáng kể và chủ động hơn. Các DN của ta sẽ tiếp cận, sử dụng có hiệu quả những nguồn lực sẵn có của những địa điểm tiếp nhận đầu tư như lao động, trình độ công nghệ, thị trường và cơ hội giao lưu kinh tế bản địa. Năm 2008 các dự án ĐTRNN (kể cả các dự án xin tăng vồn) ước đạt khoảng 800 triệu USD, trong đó riêng vốn thực hiện đạt 50%. Bộ KH-ĐT cũng nhận đinh số vốn ĐTRNN sẽ đạt khoảng 1 tỷ USD. Được biết, Bộ KH-ĐT đang soạn thảo trình Thủ tướng phê duyệt Đề án “Hỗ trợ và thúc đẩy DN Việt Nam ĐTRNN”, kèm theo những hướng dẫn, ưu đãi cụ thể, nhằm khuyến khích hoạt động này. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng xem xét việc đàm phán, ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế trùng Việt Nam và một số nước. Các DN ĐTRNN cũng được khuyến cao nên bám sát hoạt động của các cơ quan ngoại giao, đại diện thương mại của ta ở các nước để tranh thủ sự tư vấn tại chỗ, kết hợp điều tra thị trường, triển khai dự án cụ thể. Hiện tại, một số DN cũng mong các cơ quan chức năng có chính sách phù hợp và đặc thù về lương đối với các chuyên gia, nhà quản lý giỏi làm việc trong các dự án ĐTRNN để thu hút nhân tài, kết hợp hoạt động đào tạo nhân công tay nghề cao… Các dự án lớn của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2008, Việt Nam đã có 146 dự án đầu tư sang Lào với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,52 tỷ USD, quy mô bình quân một dự án là 10,4 triệu USD. Lào là địa bàn thu hút nhiều nhất đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong tổng số hơn 40 đối tác đã có đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam.  Các dự án đầu tư của Việt Nam sang Lào tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp với 77 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,05 tỷ USD (chiếm 52,7% số dự án và 69% vốn đầu tư); tiếp theo là lĩnh vực Nông-Lâm nghiệp với 47 dự án (chế biến gỗ, trồng và khai thác mủ cao su), tổng vốn đầu tư là 427,2 triệu USD (chiếm 32% số dự án và 28% vốn đầu tư); lĩnh vực Dịch vụ có 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 44,9 triệu USD (chiếm 15% số dự án và 2,94% vốn đầu tư). Việt Nam chủ yếu đầu tư sang Lào trong một số lĩnh vực cụ thể: - Trồng cây cao su, cây công nghiệp: Tính đến cuối tháng 11 năm 2008, đã có 24 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào để trồng cây cao su, cây công nghiệp với tổng vốn đầu tư là 406,4 triệu USD, chiếm 26,6% vốn đầu tư của Việt Nam sang Lào. - Khai thác khoáng sản: Hiện nay đã có 46 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào để thăm dò, khai thác khoáng sản với tổng vốn đầu tư là 118 triệu USD, quy mô bình quân một dự án là 2,5 triệu USD. Các dự án đầu tư khai thác khoáng sản tại Lào nhìn chung đã triển khai hoạt động. Đây là lĩnh vực có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào nhất so với các lĩnh vực khác. - Sản xuất điện: Hiện ta có 3 dự án đầu tư sang lào để xây dựng nhà máy thủy điện, dự án Thủy điện Xekaman 3 của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt Lào với tổng vốn đầu tư là 273 triệu USD. Dự án đã khởi công vào ngày 5/4/2006 và đang triển khai thi công xây dựng các công trình, giá trị vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 80 triệu USD. Dự Thủy điện Xekaman 1 của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt Lào với tổng vốn đầu tư là 441,6 triệu USD cấp phép ngày 21/12/2007, dự đang bắt đầu triển khai thực hiện. Dự án xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Mô của Tổng Công ty hợp tác kinh tế Việt – Lào, tổng vốn đầu tư 142,09 triệu USD, dự án được cấp phép ngày 5/2/2008. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam sang Lào trong lĩnh sản xuất điện là 856,7 triệu USD, đây là lĩnh vực có vốn đầu tư lớn nhất trong số các dự án Việt Nam đầu tư sang Lào. Tuy nhiên việc đầu tư đó cũng tổn tại những thuận lợi và khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình đầu tư tại Lào: - Thuận lợi: Hai nước có quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt. Do đó Chính phủ Lào rất ủng hộ và ưu tiên các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Lào. Việt Nam và Lào gần gũi về địa lý, do đó hoạt động trao đổi về kinh tế cũng như đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận lợi. Đất nước Lào có nhiều tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư như: thủy điện, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, trồng cây công nghiệp, chế biến nông lâm sản... Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam rải rác ở các miền của Lào, hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp khó khăn. - Khó khăn: Nhìn chung, hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của Lào đang trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, thiếu minh bạch và khó tiếp cận. Thêm vào đó, sự phối hợp giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương chưa linh hoạt, đồng bộ làm ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách. Nhìn chung, trao đổi về việc đầu tư ban đầu giữa doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm quyền của Lào rất thuận lợi nhưng khi triển khai, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thủ tục hành chính, quy hoạch đất đai, sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách của nhà nước. Đây là khó khăn cơ bản nhất trong hoạt động đầu tư tại Lào. Cụ thể: Về đất đai: Tiến độ giao đất cho các dự án trồng cao su chậm, khó khăn cho việc lập kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, công tác đền bù giải phóng mặt bằng thiếu những quy định thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tính thống nhất về đất đai chưa cao và chưa có quy hoạch rõ ràng về vùng dành cho đất trồng cây công nghiệp, đất rừng, đất ở.Theo quy định phân cấp về đất đai, đất với diện tích trên 100ha do trung ương cấp phép, dưới 100ha do địa phương cấp phép. Khi tiếp xúc với nhà đầu tư, các tỉnh thường cam kết dành đất trên 100ha để làm nông nghiệp, nhưng khi giao thực tế, chỉ giao thành từng đợt 100ha, dẫn tới khả năng chồng lấn cao, đặc biệt khi dự án vì lý do nào đó triển khai không đúng tiến độ. Hiện nay quỹ đất để trồng cao su, cây công nghiệp tại Lào không còn nhiều trong khi có nhiều doanh nghiệp từ Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan đều đang muốn đầu tư sang Lào để trồng cao su, cây công nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và thậm chí ngay trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào đang tranh giành đất tại Lào để trồng cao su. Về lao động: lực lượng lao động tại Lào rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, không đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó, doanh nghiệp bắt buộc phải đưa lao động từ Việt Nam sang với số lượng lớn trong khi lại bị giới hạn về số lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp không quá 10% theo Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài của Lào, chi phí cao. Mặt khác, doanh nghiệp phải đưa các lao động người Lào về Việt Nam để đào tạo. Cả hai cách này đều đẩy chi phí lên cao. Về thuế và các loại phí: doanh nghiệp phải đóng nhiều loại thuế và phí như thuế lương thực, thực phẩm, thuế bảo trì đường bộ, thuế thu nhập cá nhân (10% trên tổng thu nhập, không quy định mức thu nhập phải nộp thuế), thuế tài nguyên, chi phí làm thẻ lao động, thẻ lưu trú, nhập khẩu lao động. Về ngôn ngữ: mặc dù nhiều người Việt Nam hiện đang sinh sống và làm việc tại Lào nhưng những người hiểu biết pháp luật về đầu tư của Lào, đủ trình độ lập hồ sơ dự án bằng tiếng Lào lại không nhiều. Chính sách, văn bản quy phạm pháp luật không dễ tiếp cận, phải mất thời gian tìm kiếm, dịch sang tiếng Việt cũng là một trong những cản trở hoạt động đầu tư sang Lào của doanh nghiệp Việt Nam. ĐTNN CỦA VIỆT NAM SANG LÀO THEO NGÀNH Từ ngày: 01/01/1988 đến ngày: 20/12/2008 Chuyên ngành Số dự án TVĐT I Công nghiệp 76 1,049,614,207 CN dầu khí 1 4,680,000 CN nặng 60 1,023,623,717 CN nhẹ 5 13,768,440 CN thực phẩm 3 2,225,050 Xây dựng 8 9,997,000 II Nông, lâm nghiệp 47 427,275,777 Nông-Lâm nghiệp 47 427,275,777 III Dịch vụ 22 44,908,067 Dịch vụ 9 6,790,000 GTVT-Bưu điện 5 22,932,030 Khách sạn-Du lịch 2 5,155,796 Văn hăa-Ytế-Giáo dục 5 3,056,811 XD Văn phòng-Căn hộ 1 6,973,430 Tổng số 145 1,521,798,051 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ĐTNN CỦA VIỆT NAM SANG LÀO THEO NĂM Từ ngày: 01/01/1988 đến ngày: 20/12/2008 STT Năm Số dự án Vốn đăng ký 1 1993 1 - 2 1994 2 1,306,811 3 1998 1 1,500,000 4 1999 4 710,000 5 2000 9 5,189,370 6 2001 1 884,000 7 2002 1 392,000 8 2003 7 5,254,870 9 2004 5 3,367,928 10 2005 17 387,692,896 11 2006 14 55,160,960 12 2007 33 616,388,498 13 2008 51 448,630,718 Tổng số 146 1,526,478,051 Đánh giá tổng quan hiệu quả đầu tư Đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam cũng có những đóng góp nhất định cho các quốc gia nhận nguồn vốn FDI. - Các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp (113 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD) chiếm 42,6% về số dự án và 75% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, có một số dự án quy mô vốn đầu tư trên 100 triệu USD, như: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt-Lào đầu tư 2 dự án: Thủy điện Xekaman 1, tổng vốn đầu tư 441,6 triệu USD và) Thủy điện Xekaman 3, tổng vốn đầu tư 273 triệu USD. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đầu tư 243 triệu USD thăm dò khai thác dầu khí tại Angiêri . Công ty Đầu tư phát triển dầu khí đầu tư 2 dự án thăm dò khai thác dầu khí tại Madagascar (vốn 117,36 triệu USD) và tại I Rắc (vốn 100 triệu USD). Tiếp theo là lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp (53 dự án, tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 286 triệu USD) chiếm 20% về số dự án và 14,26% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, đa số là dự án đầu tư trồng cao su, cây công nghiệp tại Lào với một số dự án quy mô lớn như: Công ty cổ phần cao su Dầu Tiếng Việt -Lào, vốn đầu tư 81,9 triệu USD; Công ty cao su Đắc Lắc, vốn đầu tư 32,3 triệu USD; Công ty cổ phần cao su Việt-Lào, vốn đầu tư 25,5 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ (99 dự án ĐTRNN, tổng vốn đăng ký ĐTRNN là 215,5 triệu USD) chiếm 37,3% về số dự án và 10,7% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, có một số dự án lớn như: Công ty viễn thông quân đội Viettel đầu tư 27 triệu USD tại Campuchia để khai thác mạng viễn thông di động, Công ty cổ phần đầu tư Việt Sô đầu tư 35 triệu USD để xây dựng Trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê tại Moscow-Liên bang Nga, Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí đầu tư 21 triệu USD tại Singapore để đóng mới tàu chở dầu.... Còn lại là các dự án có quy mô vừa và nhỏ đầu tư vào các địa bàn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc.... - Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tại 37 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng chủ yếu tại: Châu Á (180 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,3 tỷ USD), chiếm 68% về số dự án và 65% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó, tập trung đầu tư sản xuất điện- khai thác khoáng sản, trồng cao su tại Lào (98 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,04 tỷ USD), chiếm 37% về số dự án và 51,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Châu Phi có 2 dự án thăm dò, khai thác dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, chiếm 18% tổng vốn đầu tư đăng ký (1 dự án đầu tư 243 triệu USD tại Angiêri sau giai đoạn thăm dò, thẩm lượng dự án đã phát hiện có dầu và khí ga và 1 dự án đầu tư 117,36 triệu USD tại Madagasca hiện có kết quả khả quan). Châu Âu có 36 dự án, tổng vốn đầu tư là 100,5 triệu USD, chiếm 13,5% về số dự án và khoảng 5% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó, Liên bang Nga có 12 dự án, tổng vốn đầu tư là 78 triệu USD. Tính đến hết năm 2007, các dự án ĐTRNN đã giải ngân vốn khoảng 800 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn ĐTRNN. Trong số các dự án đã triển khai thực hiện, lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất, bằng 67% tổng vốn thực hiện và đạt khoảng 60% tổng vốn đăng ký trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó một số dự án lớn đã triển khai thực hiện, như Dự án thăm dò dầu khí lô 433a & 416b tại Angiêria và lô SK305 ở Malaysia của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã giải ngân vốn khoảng 150 triệu USD. Hiện tại lô 433a-416b ở Angiêri (giếng MOM-2 có phát hiện dầu khí, giếng MOM-6 bis cho dòng dầu 5.100 thùng/ngày) và lô hợp đồng SK305 ở Malaysia (giếng DANA-1X cho dòng dầu 3.100 thùng/ngày). Dự án đầu tư sang Singapore của Công ty Dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC) đã góp vốn thực hiện 22,7 triệu USD. Dự án thủy điện Xekaman 3 tại Lào đang xây dựng các hạng mục công trình theo tiến độ với vốn thực hiện khoảng 100 triệu USD. Ngoài ra, các dự án trồng cây công nghiệp, cao su tại 4 tỉnh Nam Lào đang tích cực triển khai thực hiện theo kế hoạch: Công ty Cao su Đắc Lắc đầu tư vốn thực hiện khoảng 15 triệu USD, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đã triển khai đầu tư thực hiện 20 triệu USD để trồng, sản xuất và chế biến cao su theo tiến độ, nhưng do tiến độ giao đất chậm nên khó khăn cho kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Nguyên nhân vì công tác đền bù giải phóng mặt bằng thiếu những quy định thống nhất (về quy hoạch đất đai) từ trung ương đến chính quyền địa phương. Một số dự án trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã triển khai thực hiện như: Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên đầu tư sang Singapore hoạt động hiệu qua, đã đưa hương vị cà phê Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế. Công ty cổ phần phần mềm FPT đầu tư sang Nhật Bản đã hợp tác đào tạo được một ngũ lập trình viên phần mềm có trình độ quốc tế. Công ty cổ phần đầu tư Việt Sô đã góp vốn 2,5 triệu USD xây dựng Trung tâm cộng đồng đa năng TP HCM tại Liên bang Nga. Dự án được chính quyền thành phố Moscow chấp thuận đầu tư (quyết định 2288-RP ngày 15/11/2005) và giao đất (biên bản giao đất 1739 ngày 19/12/2007), đã chọn được nhà thầu thi công và thuê công ty tư vấn và được phê chuẩn giải pháp kiến trúc của kiến trúc sư trưởng thành phố. Dự kiến cuối năm 2008 khởi công xây dựng sau khi được cơ quan chức năng Liên bang Nga phê duyệt, thẩm định xong thiết kế kỹ thuật và một số khác (phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường.v.v.). Công ty viễn thông Quân đội (Viettel) đầu tư sang Campuchia đang triển khai theo tiến độ đề ra v.v…Bên cạnh đó, còn có dự án đầu tư trong công nghiệp sản xuất hàng may mặc tại Lào của Công ty Scavi Việt Nam (một doanh nghiệp 100% vốn của Việt kiều Pháp thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) đang hoạt động rất hiệu quả. Trên thực tế, bước đầu đã xuất hiện xu hướng nhiều công ty, doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam thành lập doanh nghiệp, sau đó, tiếp tục ĐTRNN để tranh thủ những lợi ích từ các thỏa thuận song phương, đồng thời, khẳng định địa vị pháp lý của mình khi đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài cũng như để có được sự bảo hộ chính thức của nhà nước.Qua 16 năm thực hiện ĐTRNN, tính đến hết năm 2007, Việt Nam còn 249 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 1,39 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 927 triệu USD, chiếm 66,8% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 5,58 triệu USD/dự án. Qua từng giai đoạn quy mô vốn đầu tư đã thay đổi theo chiều hướng tăng dần, điều này cho thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như sự tích cực tham gia vào hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, trong đó phải nói tới Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Một số dự án trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã triển khai thực hiện như: (i) dự án đầu tư sang Singapore của Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên hoạt động hiệu qua, đã đưa hương vị cà phê Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế; (ii) dự án đầu tư sang Nhật Bản của Công ty cổ phần phần mềm FPT bước đầu đã hợp tác đào tạo được một ngũ lập trình viên phần mềm có trình độ quốc tế; (iii) dự án xây dựng trung tâm cộng đồng đa năng TP HCM tại Liên bang Nga của Công ty cổ phần đầu tư Việt Sô đã góp vốn khoảng 2,5 triệu USD. Dự án được chính quyền thành phố Moscow chấp thuận đầu tư (quyết định 2288-RP ngày 15/11/2005) và giao đất (biên bản giao đất 1739 ngày 19/12/2007), đã chọn được nhà thầu thi công và thuê công ty tư vấn. Đồng thời, đã được phê chuẩn giải pháp kiến trúc của kiến trúc sư trưởng thành phố.  Dự kiến cuối năm 2008 khởi công xây dựng sau khi được cơ quan chức năng LB Nga phê duyệt, thẩm định xong thiết kế kỹ thuật và một số khác (phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường.v.v.); (iv) dự án đầu tư sang Campuchia của Công ty viễn thông Quân đội (Viettel) đang triển khai theo tiến độ đề ra v.v… KẾT LUẬN Tính đến hết năm 2007, qua 16 năm thực hiện ĐTRNN, Việt Nam có 265 dự án ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 2,006 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 800 triệu USD, chiếm 40% tổng vốn ĐTRNN. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án. Qua từng giai đoạn, quy mô vốn đầu tư đã tăng dần, điều này cho thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam; cũng như sự trưởng thành về mọi mặt của doanh nghiệp nhà nước tham gia vào hoạt động ĐTRNN. Trong giai đoạn 1989-1998, trước khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP nói trên, có 18 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký trên 13,6 triệu USD; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 0,76 triệu USD/dự án. Trong thời kỳ 1999-2005 sau khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, có 131 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt 731,4 triệu USD, gấp 7 lần về số dự án và gấp 53 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với thời kỳ 1989-1998; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 5,58 triệu USD/dự án, cao hơn giai đoạn 1989-1998. Từ năm 2006 tới hết năm 2007 (thi hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP) có 116 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt trên 1,26 tỷ USD; tuy chỉ bằng 88% về số dự án, nhưng tăng 72,4% về tổng vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn 1999-2005; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 10,8 triệu USD/dự án, cao hơn thời kỳ 1999-2005.Xu hướng gia tăng dòng đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển Lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển ngày một gia tăng trong những năm gần đây. Theo số liệu báo cáo của UNTCAD năm 2006 cho biết, lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển trong tổng lượng vốn FDI toàn cầu đã tăng từ 8% lên 15% trong 25 năm qua. Riêng trong năm 2005, các nước đang phát triển đã đầu tư khoảng 117 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2004, chiếm 17% so với tổng lượng vốn FDI toàn cầu. So sánh với các giai đoạn khác, từ năm 2006 đến nay Đầu tư FDI là một xu hướng ngày càng phát triển do việc tăng cường thương mại và đầu tư trong nội bộ khu vực ngày một tăng lên. Tuy nhiên, các nhà đầu tư đến từ các nước đang phát triển chủ yếu đầu tư vào các nước cùng khu vực địa lý và mang tính chất chuyển giao một số ngành, cơ sở kinh tế  sang các nền kinh tế kém phát triển hơn. Số lượng vốn FDI đầu tư ngược trở lại các nước phát triển chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Một số nước đang phát triển giờ đây đã trở thành những nhà đầu tư quốc tế có uy tín như Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc,...Chính phủ các nước này cũng đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài này như giảm thuế lợi tức gửi về nước, khấu trừ chi phí đầu tư dự án ( Malayxia) hay miễn thuế thu nhập 3 năm đối với các nhà đầu tư địa phương khi đầu tư ra nước ngoài ( Hàn Quốc),... Có thể nói đây là một trong số những động thái khuyến khích đầu tư ra nước ngoài từ phía chính phủ dành cho các nước doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung hay đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng của các nước đang phát triển đang có chiều hướng gia tăng. Nó thể hiện các nước đang phát triển giờ đây đã và đang nỗ lực phát triển muốn được góp tiếng nói của mình vào lĩnh vực đầu tư quốc tế mà xưa nay vẫn chỉ dành cho các nước phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Hà Thị Ngọc Oanh ,Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam ,nhà xuất bản lao động xã hội năm 2006 .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docViệt nam – một môi trường tiềm năng thu hút đầu tư fdi trong giai đoạn 2006 đến nay.doc