Văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay

Có thể nói văn hóa mang thế mạnh đặc thù, là nhân tố duy nhất có thể thâm nhập vào mọi lĩnh vực và hiện hình trong sức mạnh tổng hợp của mọi quốc gia. Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một quốc gia muốn trở thành cường quốc khu vực hay thế giới thì nền văn hoá của quốc gia đó phải có sức hút trên phạm vi khu vực hay thế giới. Còn đối với một nước vừa và nhỏ, muốn tồn tại và phát triển thì càng phải phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó nhân thêm sức mạnh của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giành được sự coi trọng của các nước và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Thông qua việc quảng bá rộng rãi các giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Việt Nam, Ngoại giao Văn hóa của chúng ta muốn chuyển tới bạn bè quốc tế thông điệp về một nước Việt Nam hòa bình, ổn định, thân thiện, cởi mở, đang thực hiện đổi mới thành công, phát triển nhanh, bền vững và đóng vai trò ngày càng lớn hơn ở khu vực và trên thế giới.

doc31 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 8018 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn hóa chính trị và việc nâng cao văn hóa chính trị ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h vị bản thân, sự tự tin vào bản thân và của đội ngũ, lịch sử /vị thế của tổ chức và mức độ phụ thuộc của nó đối với các cơ quan chủ quản hay quyết định nguồn lực) Năng lực chia sẻ tầm nhìn cũng sẽ quyết định kết quả của việc hiện thực hóa tầm nhìn. Vì chia sẻ tầm nhìn được tiến hành theo cách gắn được tầm nhìn của tổ chức với ước mơ và hình dung về tương lai của các cá nhân/ nhóm trong tổ chức + Ba là , xây dựng năng lực theo đuổi tầm nhìn Phải xác định đây là quá trình nghiêm túc chứ không phải “đánh trống, bỏ dùi” hay ngẫu hứng Nó đòi hỏi những năng lực thực sự, thậm chí năng lực đặc biệt của lãnh đạo Nó đòi hỏi tất cả việc thiết lập các quy trình, thủ tục làm việc, sự phân chia thẩm quyền và trách nhiệm, cung cấp các nguồn lực đều phải được thực hiện dưới ánh sáng của tầm nhìn. Tuy tầm nhìn có thế được xuất phát/ được thiết lập từ cá nhân các lãnh đạo, nhưng theo đuổi tầm nhìn chỉ của các nhà lãnh đạo mà không phải là năng lực của tổ chức thì đó là dấu hiệu của sự thất bại. + Bốn là, cung cấp những “khuôn mẫu” cho hành động- về cách thức tư duy, hành vi, giao tiếp/quan hệ (nói-làm) nhằm tạo nên lối sống trách nhiệm, bản lĩnh, hài hòa giữa “cái tôi” với cái “chúng ta” trong tổ chức. + Năm là, tạo dựng giá trị và niềm tin Đây là trách nhiệm có tính tổng hợp, nó phản ánh vai trò kiến trúc sư/ nhà thiết kế và người xây dựng/thi công của người lãnh đạo Vì vậy, nó đòi hỏi ở người lãnh đạo tính chuyên nghiệp, chân thực, biện chứng/không ngừng đổi mới, sự trải nghiệm/ chiêm nghiệm/suy ngẫm, cách tư duy/hành vi và dẫn dắt tư duy/hành vihay nói cách khác, người lãnh đạo phải đóng vai trò làm gương, là biểu tượng của tổ chức. Văn hóa tổ chức còn được xây dựng và thực thi bởi nhiều phía liên quan khác (các cá nhân khác trong tổ chức, các yếu tố bên ngoài) Tóm lại, Nghiên cứu cấu trúc VHCT trên nhiều phương diện tạo cơ sở giúp chúng ta xác định rõ chủ thể VHCT, từ đó định hướng những chuẩn giá trị tương ứng qui định phẩm chất, trình độ và năng lực VHCT của chủ thể. 3.2 Đặc điểm của văn hoá chính trị. * VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp. VHCT hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó nó luôn bị chi phối bởi thế giới quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của giai cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi giai cấp. Không bao giờ có những giá trị chính trị chung chung. Chính trị và công việc nhà nước đều là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ quyền lực. Do vậy, bất cứ hành vi nào của chủ thể chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị VHCT cũng là hành vi hướng tới thực hiện lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp ấy một cách nhân văn. Tuy rất quan trọng, nhưng tính giai cấp không phải là thuộc tính duy nhất của VHCT. Tính dân tộc và tính nhân loại luôn tồn tại trong VHCT của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới hiện đại mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu cơ hơn bao giờ hết.Văn hóa trước hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng người nhất định, cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc - đó là yếu tố quyết định của một nền văn hóa. Tính dân tộc luôn gắn liền với tính nhân loại và tính giai cấp, trong mối quan hệ này thì quan hệ dân tộc - nhân loại là trường cửu, giai cấp dù tồn tại lâu thì cũng chỉ là phạm trù lịch sử. Như vậy, giá trị VHCT chỉ thống nhất với giá trị văn hóa khi mà giai cấp - chủ thể chính trị của nó đại diện cho phương thức sản xuất mới, cho xu thế vận động và phát triển phù hợp với tiến bộ xã hội. Do đó tác động của giai cấp và đấu tranh giai cấp vào văn hóa của một dân tộc tùy thuộc vào từng biến động của lịch sử, tác động tới bước đi của nền văn hóa chứ không quyết định bản chất của nền văn hóa. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị tất yếu có dấu ấn mạnh tới nền văn hóa dân tộc khi quyền lợi của giai cấp đó nhất trí với quyền lợi của dân tộc. Để phát triển bền vững theo hướng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, vừa không đi ngược giá trị nhân loại (nhân văn-tính người) cần phải kết hợp nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hóa nói chung và VHCT nói riêng. Việc phát huy văn hóa dân tộc chung chung, thoát ly khỏi định hướng giai cấp trong lĩnh vực văn hóa là một sai lầm. Sự mất cảnh giác đối với chiến lược "diễn biến hoà bình" về văn hoá cũng chính là "tự diễn biến hoà bình" trong chính chúng ta. Mặt khác, trong khi khẳng định tính giai cấp của VHCT không được đối lập giữa giai cấp - cộng đồng - nhân loại, nếu không sẽ rơi vào quan điểm giai cấp cực đoan. Để đạt đến VHCT thì vừa phải sử dụng những giá trị giai cấp, vừa phải sử dụng những giá trị cộng đồng và nhân loại; điều đó cũng lý giải vấn đề vì sao nước ta với nhiều nước trên thế giới khác nhau về chế độ chính trị nhưng vẫn quan hệ, giao lưu và hợp tác; vì sao bên cạnh Qui chế dân chủ ở cơ sở, các cộng đồng cư dân vẫn có những hương ước, tộc ước... * VHCT mang tính lịch sử - cụ thể. VHCT bị qui định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hai loại nhân tố này có nội dung, tính chất và phương thức qui định khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui định tính lịch sử của VHCT. + VHCT không chỉ là kết quả của sự phát triển của nhận thức chính trị và hoạt động chính trị sáng tạo của nhiều chủ thể VHCT ở các nước khác nhau và các dân tộc khác nhau mà còn gắn liền với các nền chính trị khác nhau. Có VHCT của giai cấp nắm QLNN đặc trưng cho mỗi nền chính trị, nhưng bản thân sự tồn tại của mỗi nền chính trị lại không vĩnh viễn mà luôn có sự thay thế kế tiếp nhau trong lịch sử, nên VHCT cũng thay đổi theo. + Hơn nữa,VHCT không phải là một hiện tượng biệt lập, sự xuất hiện và phát triển của nó nằm trong mối liên hệ mật thiết, biện chứng với các yếu tố lịch sử, nó chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Khi các yếu tố này có sự thay đổi thì VHCT cũng chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đó. Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được thực hiện theo khuôn mẫu và định hướng nhất định, thích hợp với nhận thức và nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở mỗi giai đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế thừa và sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. + VHCT còn gắn với hiện tượng tâm lý xã hội của chủ thể (nhất là phương diện cá nhân). Cùng tiếp cận giá trị nhưng tính khí và khí chất khác nhau sẽ tạo nên những quyết định hành vi, quyết định hoạt động chính trị của các chủ thể khác nhau. Tính cụ thể của VHCT không chỉ dựa trên cơ sở lý tưởng chính trị, lập trường và hành vi... mà có khi cả trên cơ sở của yếu tố tâm lý xã hội. Tính lịch sử, cụ thể của VHCT thể hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện lịch sử khác nhau, tính chất, nội dung, mức độ phát triển của VHCT không giống nhau. Mặt khác cũng cho thấy, giá trị VHCT không phải là cái gì bất biến mà luôn có sự vận động và phát triển. Điều đó ảnh hưởng lớn đến những thay đổi trong nhân cách xã hội của con người. * VHCT mang tính kế thừa. Tính lịch sử, cụ thể không thể tạo nên sự gián đoạn hay cô lập tuyệt đối của VHCT của một giai cấp nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Sự ra đời của một nền VHCT bao giờ cũng là kết quả phủ định biện chứng đối với nền VHCT trước nó. Đó là sự giữ lại và nâng lên một trình độ mới những nhân tố có giá trị chung mang tính tích cực của nền VHCT bị phủ định. Tính kế thừa của VHCT trong sự phát triển được kết tinh từ những thành tựu văn hóa, những di sản tinh thần của thời đại, của truyền thống, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm cho VHCT không ngừng được nâng lên. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã có hơn nghìn năm Bắc thuộc, kẻ thù muốn Hán hoá dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt Nam đã không chịu sự đồng hóa của người Hán, nhưng vẫn khôn khéo tiếp thu, học tập văn hóa Hán, biến nó thành giá trị, thành phương thức để phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Trong VHCT truyền thống, ông cha ta cũng đã để lại cho đời sống chính trị hiện tại của chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu. Trong quá trình vận động và phát triển, các giá trị truyền thống không biến mất, mà nó hóa thân vào các giá trị của thời sau theo qui luật kế thừa và tái tạo. Các giá trị trước trở thành truyền thống khi được các thế hệ sau lựa chọn, tiếp nhận và phát triển, đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện tại. Sự thích nghi của những giá trị cũ đối với sự thay đổi của thời đại là biểu hiện tính liên tục của văn hóa. Bởi vậy, trong chính trị cũng phải luôn có sự kế thừa về mặt giá trị, quay lưng với những giá trị truyền thống cũng có nghĩa quay lưng lại với lịch sử dân tộc. Điều đó vừa là sự sa sút về bản lĩnh văn hóa vừa trái với qui luật vận động và phát triển của văn hóa, và như thế ắt có sự trả giá. * VHCT luôn mang tính đa dạng. Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của VHCT, mà trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định kết cấu giai cấp cũng phức tạp không thuần nhất, cho nên hệ tư tưởng của các giai cấp không đồng nhất. Trong mỗi nền chính trị, VHCT không thuần nhất. Do đối lập về lợi ích nên các giai cấp thường có hệ tư tưởng đối lập chi phối văn hóa của các giai cấp tương ứng, tạo nên bức tranh đa dạng của VHCT. Bên cạnh VHCT của giai cấp nắm QLNN còn có VHCT của các giai cấp và giai tầng khác trong xã hội. Ngay trong CNXH, tuy lợi ích của các giai tầng thống nhất với hệ tư tưởng vô sản, chi phối những định hướng cơ bản của VHCT; song mỗi giai cấp có tính độc lập tương đối, tạo nên bản sắc VHCT riêng. VHCT XHCN cũng là sự thống nhất trong đa dạng. Đảng ta cũng đã khẳng định: “nền văn hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam...” Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TƯ VIII, NXB CTQG, H.1998 Tr.57 . Hơn nữa, sự xuất hiện và phát triển của VHCT nằm trong mối liên hệ mật thiết với các yếu tố lịch sử, nó là “một tiểu hệ thống” trong lĩnh vực văn hóa nói chung, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với các thành tố khác của nền văn hóa nói chung như: kinh tế, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ, tôn giáo... Trong CNXH, VHCT XHCN vừa là nội dung, là động lực, vừa là biểu hiện chất lượng của nền dân chủ (văn hóa dân chủ). Là nhân tố thúc đẩy cho việc đạt mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời VHCT XHCN là phương thức để nhân dân lao động trở thành chủ thể thực sự của QLCT, QLNN. 3.3 Chức năng của văn hoá chính trị. VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của chủ thể chính trị. Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các chức năng của nó, đó là: * VHCT góp phần điều chỉnh, định hướng cho hành vi và các quan hệ xã hội, nâng cao nhận thức, giáo dục cho các chủ thể chính trị. VHCT có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ con người với con người, con người với xã hội trong đời sống chính trị. Trong quá trình điều chỉnh, một mặt nó dựa vào những chuẩn mực giá trị, mô hình chính trị để điều chỉnh hành vi, hành động của chủ thể phù hợp với “cái tốt, cái đúng”. Mặt khác, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể phù hợp, hài hoà với lợi ích của các chủ thể khác, với lợi ích xã hội . Với tầm cao của VHCT, giới cầm quyền có thể kịp thời phát hiện ra những điểm nóng chính trị - xã hội, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu để chủ động"tháo ngòi nổ”,làm dịu đi các xung đột xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Trong những tình huống chính trị, VHCT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thiếu nó người ta có thể làm cho những quan hệ xã hội vốn bình thường hoặc ít gay cấn lại trở nên căng thẳng, gay gắt, nóng bỏng, thậm chí đối đầu. Vai trò điều chỉnh của VHCT chủ yếu thực hiện thông qua các chuẩn giá trị của nó với nhiều thang bậc và phạm vi khác nhau. Có những chuẩn giá trị mà ý nghĩa và việc áp dụng điều chỉnh của nó chỉ mang tính nhất thời, đặc biệt là những chuẩn giá trị củng cố quan hệ giữa các đảng phái chính trị, giữa các nhóm xã hội lớn khác nhau thường do sự cân nhắc về mặt chiến lược hoặc chiến thuật, do lợi ích của hoàn cảnh và thời cơ qui định. Nhưng cũng có bộ phận các chuẩn giá trị chính trị mà thường gọi là các nguyên tắc chính trị mang tính bền vững, bởi những nguyên tắc này thường quyết định vận mệnh chính trị của một chủ thể nào đó. Xa rời, từ bỏ nguyên tắc ấy cũng có nghĩa là đời sống chính trị, QLCT của chủ thể đó cũng không còn nữa. Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo HTCT, luôn giữ vững các nguyên tắc chính trị của mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động; Đảng là một tổ chức chặt chẽ trên nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là Nhà nước của dân, do dân, vì dân... là những nguyên tắc chính trị cho mọi hoạt động của Đảng ta. Đảng ta không bao giờ xa rời những nguyên tắc này. Sự sụp đổ của chế độ chính trị XHCN, Đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo... ở Liên Xô và Đông Âu cũng bắt đầu từ sự xa rời các nguyên tắc chính trị như: phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản, từ bỏ nguyên tắc dân chủ XHCN với chủ trương đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập...Từ đó cho thấy, chủ thể nào muốn khẳng định và giữ vững vị thế chính trị của mình đều phải luôn khẳng định, thừa nhận và thực hiện những chuẩn giá trị mang tính nguyên tắc sống còn của mình. Ý nghĩa điều chỉnh hành vi và các quan hệ chính trị của các chuẩn giá trị VHCT cũng không thuần nhất, có những chuẩn giá trị có tính bắt buộc, qui định rõ quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ...cho các chủ thể chính trị; có những chuẩn giá trị không mang tính bắt buộc. Nếu các chủ thể khi tham gia vào đời sống chính trị, thực thi các chuẩn mực bởi sự nhận thức được cái tất yếu, cái bắt buộc (tức tự do chính trị) thì sẽ tạo cho đời sống chính trị một sự ổn định, có điều kiện phát triển. Phạm vi và chiều sâu của các chuẩn giá trị VHCT cũng ngày càng phát triển theo trình độ phát triển của xã hội. Sự ổn định chính trị cũng phụ thuộc vào tính bền vững, tính tích cực, tính hiện thực của các chuẩn giá trị VHCT trong đời sống chính trị mà điều đó lại phụ thuộc vào tính tự giác trong nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của các chủ thể trong đời sống xã hội. Các nhu cầu chính trị lành mạnh luôn tạo cho VHCT một sự phát triển lâu bền, ổn định, mà “trục xoay” của nó chính là giá trị con người, đó là “quả tim đích thực của văn hóa” và là định hướng chính trị chủ đạo cho các chuẩn giá trị VHCT. Chính vì vậy, văn hóa nói chung, VHCT nói riêng là hệ thống điều chỉnh làm cân bằng sự phát triển, khắc phục sự xuất hiện của các phản giá trị văn hoá. Thông qua hoạt động của các chủ thể, các chuẩn giá trị VHCT lan tỏa, đan xen vào mọi quan hệ xã hội, trên cơ sở đó các chuẩn giá trị mới cũng hình thành và ngày càng phát triển. VHCT là trình độ giác ngộ của các chủ thể chính trị trong các quan hệ chính trị - xã hội. Khi VHCT ở trình độ cao thì khả năng tự điều chỉnh hành vi của mỗi chủ thể phù hợp với lợi ích xã hội tốt hơn, các chủ thể có thể nhanh chóng phát hiện ra những lệch lạc trong hành động không còn phù hợp với mục đích và nhanh chóng điều chỉnh chúng. Đối với giới cầm quyền, tầm cao VHCT không chỉ giúp họ trong xử lý các tình huống chính trị, giữ vững ổn định chính trị, mà còn góp phần khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền trong hệ thống chính trị. Còn đối với quần chúng nhân dân, trình độ VHCT giúp họ tham gia tự giác vào các quá trình chính trị thực tiễn dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chủ động xử lý các mối quan hệ chính trị... góp phần xây dựng và thực thi VHCT của Đảng ta. * Chức năng tổ chức và quản lý xã hội. VHCT là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị trong những điều kiện kinh tế chính trị xã hội. Nhưng đến lượt nó, VHCT lại đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội. + VHCT đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế. Ngày nay, sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bắt nguồn từ sức mạnh kinh tế mà còn phụ thuộc vào sức mạnh của văn hóa nói chung,VHCT nói riêng. Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc ngày càng nhiều vào trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; vào các giá trị tinh thần của xã hội, các thể chế chính trị; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của những con người chính trị . Văn hóa là nhân tố quan trọng của kinh tế, một nhân tố qui định bên trong của hoạt động sản xuất. Kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, VHCT trong nó và tác động vào nó. UNESCO đã nhấn mạnh: khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời môi trường văn hóa thì kết quả thu được rất khập khiễng, mất cân đối cả về kinh tế và văn hóa, đồng thời tiềm năng của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều. Thế giới cũng đã bàn rất nhiều đến vấn đề văn hóa, đạo đức trong kinh doanh, nhiều nước (điển hình là Nhật và NICs ) đã tìm thấy sức mạnh của yếu tố nội sinh cực kỳ quan trọng - đó là văn hóa và VHCT. Hiện nay, không ai có thể phủ nhận một điều là: hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao; điều đó cho thấy sự tăng trưởng kinh tế ngoài tác động điều tiết và quản lý của Nhà nước, còn chịu sự chi phối mạnh của khoa học, giáo dục, đào tạo, những sách lược, chiến lược chính trị cho sự phát triển kinh tế... đó chính là văn hóa và VHCT trong sản xuất kinh doanh. Vai trò của văn hóa, VHCT đối với sự phát triển kinh tế còn ở những giá trị đạo đức, tinh thần; nhờ những giá trị đó mà văn hóa và VHCT góp phần hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường như: nguy cơ “tha hóa” con người trong lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân... Có thể thấy rằng, công nghệ tiên tiến dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ là “ phần cứng”, chính văn hóa sẽ đóng vai trò “phần mềm” trong việc tiếp thu và vận dụng công nghệ hiện đại vào điều kiện cụ thể trong kinh tế - xã hội nhằm đạt kết quả tối ưu cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Với ý nghĩa đó, việc xem nhẹ vai trò VHCT đối với sự phát triển kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm trong thực tiễn và ắt sẽ có sự trả giá. + VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề chính trị Ý thức chính trị, các thiết chế QLCT, hoạt động chính trị thực tiễn, đều liên quan đến VHCT, đều thể hiện trình độ VHCT của một lực lượng xã hội, một giai cấp, một tổ chức hay một cá nhân nào đó. Bản thân đời sống chính trị là một hệ thống các giá trị VHCT. Vì vậy, vấn đề chỉ ở chỗ, các chủ thể chính trị sử dụng các giá trị VHCT đó như thế nào, có phát huy được vai trò của các giá trị VHCT trong việc giữ vững nền chính trị và sự ổn định chính trị của mình hay không. Sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự là những yếu tố cơ bản quan trọng để giữ vững nền chính trị, bởi kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” Tập thể tác giả,”chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị” , NXBCTQG, Hà Nội 1999 Tr 56 . Điều khẳng định đó đúng nhưng chưa đủ, đời sống xã hội không chỉ có kinh tế với chính trị mà còn có văn hóa. Kinh tế và văn hoá là hai nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội. Nhiều quốc gia siêu cường về kinh tế, quân sự nhưng không có sự ổn định chính trị, xã hội rối loạn, một trong những nguyên nhân là do VHCT không được phát huy tác dụng. Vậy VHCT tác động như thế nào? Trước hết nói về đường lối chính trị - định hướng chính trị cơ bản của giai cấp cầm quyền trong quá trình thực thi QLCT, thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Một đường lối chính trị đúng, có tính khả thi phải phù hợp với qui luật khách quan, với lợi ích của quảng đại quần chúng, đó sẽ là cơ sở tạo niềm tin chính trị, động cơ và hành động chính trị đúng đắn và có hiệu quả. Nhân cách chính trị của nhà cầm quyền cũng có ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị. Tri thức và niềm tin chính trị của quần chúng góp phần tạo tính hiệu quả thực tiễn của đường lối chính trị. Nếu thiếu những điều đó thì xã hội cũng không có sự ổn định chính trị. Sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và Đông Âu càng cho thấy rõ bài học này; bắt đầu từ sự sai lầm về đường lối chính trị với sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, xa rời hệ tư tưởng chủ đạo; dần đến là sự thoái hóa về bản lĩnh chính trị của ban lãnh đạo chính trị Đảng và Nhà nước Xô viết. Liên xô đã trở thành nạn nhân của sự phản bội của một số kẻ lãnh đạo cao nhất trong Đảng cộng sản Liên xô, của những phần tử ly khai câu kết chặt chẽ với các lực lượng đế quốc hiếu chiến hòng tiêu diệt CNXH. Cải tổ không theo lôgic khách quan cùng với sự phản bội đã tạo nên cuộc phản cách mạng trên “thảm nhung”. Khi những mối quan hệ nội tại của Đảng không được duy trì, bộ máy của Đảng rệu rã, không có khả năng độc lập tự quản, nhân tố tự hủy hoại xuất hiện như một bệnh hiểm nghèo trong cơ thể của Đảng tạo nên nguy cơ “tha hóa quyền lực”, làm đảo lộn các giá trị, trật tự thì Đảng cũng không thể thực hiện được mối quan hệ với đời sống xã hội (quần chúng xa rời Đảng), chức năng lãnh đạo của Đảng (thông qua đường lối và uy tín người lãnh đạo) mất hiệu lực, không đảm bảo lợi ích căn bản của giai cấp mình và xã hội; bệnh quan liêu, hành chính hóa là biểu hiện của nguy cơ xa rời máu thịt với quần chúng. Platon từ lâu đã cảnh tỉnh: quyền lực chứa đựng tiềm ẩn làm hư hỏng con người. Đối với các đảng chính trị, thực tiễn không chỉ là môi trường kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chính trị, mà còn là môi trường thi tuyển khắt khe đối với khả năng sáng tạo và trình độ hoạt động của Đảng. Nếu mỗi đảng chính trị không thể hiện được tầm vóc VHCT của mình thì nhất định không đảm đương nổi trọng trách lãnh đạo chính trị trong xã hội hiện đại. VHCT truyền thống cũng là điểm tựa vững chắc cho ổn định chính trị. Một trong những sai lầm và phải trả giá đắt của Liên Xô là thái độ đối với truyền thống. Hiện tại thì khủng hoảng, quá khứ bị lôi ra phán xét nhằm bôi đen lịch sử làm cho niềm tin không còn điểm tựa, do vậy chính trị càng mất ổn định. Việt Nam lại khác hẳn, tuy chấp nhận kinh tế thị trường, nhưng vẫn đứng vững trước những sóng gió, những biến động... Điều đó, một phần nhờ Đảng có đường lối chính trị đúng; Nhà nước và các đoàn thể quần chúng luôn được đổi mới, hoàn thiện. Những giá trị bản sắc của VHCT Việt Nam vẫn được giữ vững và phát huy, điều đó tạo nên sự bền vững của chế độ chính trị, góp phần ổn định chính trị, từng bước đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng và phát triển tương đối nhanh. Với ý nghĩa đó, việc giáo dục, truyền thụ các giá trị VHCT truyền thống cho các thế hệ sau là điều rất cần thiết quan trọng; quên hoặc thờ ơ, xem nhẹ việc này sẽ tạo nên sự hẫng hụt, những “khoảng trống” về VHCT. Như vậy, phải làm sao cho các giá trị VHCT in dấu trong chế độ chính trị, muốn làm được điều đó trong quá trình đổi mới HTCT và giữ vững ổn định chính trị phải thường xuyên gắn với các giá trị VHCT, phải nâng cao trình độ VHCT cho các chủ thể chính trị. + VHCT đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Mục đích của mọi quá trình xây dựng và phát triển là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giá trị văn hóa góp phần ngăn ngừa, hạn chế cái ác, cái xấu, cái sai, hướng con người vươn đến tính nhân văn trong giải quyết các mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện mục đích trên. Tầm cao VHCT là điều kiện tốt để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện sự công bằng xã hội luôn phải lấy giá trị văn hóa làm mục tiêu. Không có sự công bằng nào tách rời các giá trị văn hóa. Từ trong nó, công bằng xã hội đầy đủ nhất cũng dựa trên nền tảng chân, thiện, mỹ. Nếu đối lập giá trị văn hóa với công bằng xã hội, tách văn hóa khỏi công bằng xã hội đều dẫn đến bất công. Giàu có chưa phải là cái tối ưu của công bằng nếu thiếu tính nhân văn. Nước ta, tuy còn nghèo, kinh tế phát triển chưa cao, nhưng với phương châm: toàn cầu hóa phải mang một gương mặt và trái tim con người, con người là trọng tâm của phát triển, đã cố gắng tham gia nhiều chương trình giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện những cam kết Cô-pen-ha-ghen (tháng 3/1995) như: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe cho người già, trẻ em, phụ nữ... Mặc dù chưa đạt ở mức độ cao, nhưng những việc làm đó đã góp phần thực hiện các chỉ tiêu phát triển xã hội, đặc biệt càng khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển xã hội. VHCT có ý nghĩa to lớn trong tổ chức và quản lý xã hội. Vì vậy, cần phải phát huy vai trò của nó trong xây dựng và phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị và giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan. * VHCT góp phần đẩy mạnh quá trình XH hóa chính trị mọi hoạt động của các chủ thể. Chức năng này thể hiện kết quả tổng hợp của quá trình vận động của các nhân tố cấu thành VHCT trong từng cá nhân, tập thể và cộng đồng. Sự xâm nhập của VHCT vào từng chủ thể sẽ làm nảy sinh trong họ nhu cầu và khả năng tham gia một cách tích cực, chủ động và tự giác vào các quá trình chính trị. Trên qui mô xã hội, VHCT có vai trò to lớn trong việc hình thành và hoàn thiện các cơ chế thu hút quần chúng nhân dân tích cực tham gia họat động chính trị, làm cho cuộc sống phát triển tích cực, tốt đẹp hơn. Tính tự giác là cơ sở cho sự hình thành thói quen và nếp sống chính trị tốt. Điều đó chỉ có được khi các chủ thể nhận thức và hiểu biết sâu sắc về các giá trị, từ đó dần dần vận dụng chúng vào mọi hoạt động xã hội. Với ý nghĩa đó, có thể coi quá trình xã hội hóa về chính trị là sự thể hiện từng bước bản chất dân chủ của một chế độ xã hội. Giá trị VHCT là một phương diện giá trị xã hội, là mục tiêu phấn đấu của một cộng đồng; do đó, chúng tạo thành bản chất của một chế độ xã hội và qui định các ứng xử phù hợp với mục tiêu của xã hội. Nó biến các giá trị cá nhân thành giá trị xã hội; nhờ đó, mọi ý thức, hành vi chính trị trở thành nếp sống, thói quen, thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của chủ thể, không chịu sự áp đặt, cưỡng bức nào. Trong xã hội có trình độ chính trị cao mỗi cá nhân công dân ý thức được vị trí của mình trong hệ thống QLCT của xã hội, đồng thời xã hội cũng hình thành và hoàn thiện cơ chế để mỗi cá nhân công dân tham gia một cách tích cực, tự giác vào công việc nhà nước và xã hội, nhờ đó hoạt động chính trị trở thành công việc hàng ngày của mỗi người. * VHCT góp phần nâng cao tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo của các chủ thể, góp phần hoàn thiện các qui tắc ứng xử chính trị mang tính nhân văn. Môi trường VHCT vừa ảnh hưởng đến mỗi người trong xã hội, vừa đặt ra những yêu cầu về trình độ phát triển nhân cách với chất lượng tương ứng. Với trình độ VHCT cao, chủ thể chính trị sẽ không chịu sự chi phối hay áp đặt, cưỡng bức của những thế lực bên ngoài, họ có thể thích ứng với tình huống, vững vàng trước những biến động phức tạp, khó khăn, có sáng kiến, có khả năng nhạy bén, chủ động, năng động trong các tình huống hay các quá trình chính trị. Sự toàn diện, uyển chuyển và linh hoạt có ý nghĩa rất quan trọng, con người sẽ ngày càng vươn tới một lối sống cân đối, hài hòa và tốt đẹp hơn. Việc cá nhân hướng suy nghĩ và hành động của mình vào những giá trị này hay những giá trị khác sẽ tạo nên định hướng giá trị của họ. Cùng một lúc con người theo đuổi nhiều giá trị liên quan đến bản thân, gia đình, công việc....Việc định hướng giá trị có ý nghĩa rất quan trọng trong khẳng định vị trí của cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội. Do vậy, mỗi cá nhân phải tự điều chỉnh mình cho phù hợp với các quan hệ xã hội. Chính VHCT giúp cho chủ thể trong việc khẳng định xu hướng chính trị (nhu cầu chính trị, lý tưởng chính trị, động cơ chính trị...). Mặt khác, hệ thống các chuẩn mực giá trị VHCT cũng chính là hệ thống các qui tắc, dựa vào đó các chủ thể tổ chức các hệ thống hành động, xử lý các quan hệ xã hội theo quĩ đạo chân, thiện, mỹ. * Chức năng đánh giá và dự báo chính trị: Chức năng đánh giá của VHCT thể hiện qua thái độ của các chủ thể VHCT đối với một hiện tượng, một sự kiện, một quá trình chính trị nào đó. Trên cơ sở nhận thức, chủ thể đánh giá các hiện tượng trong đời sống chính trị và lựa chọn cho mình những hành vi theo đánh giá ấy. Như vậy, VHCT kết hợp với khả năng chủ quan của mỗi chủ thể là cơ sở cho các đánh giá chính trị. Nhờ vào khả năng đánh giá các hiện tượng và các quá trình chính trị, trên cơ sở những tri thức và định hướng chính trị, các chủ thể có thể dự báo được sự phát triển của chúng trong tương lai. Khả năng dự báo này là một phần rất quan trọng trong nhận thức VHCT của mỗi chủ thể, nếu dự báo chính xác thì hành vi của họ có ý nghĩa to lớn trong việc hướng tới mục tiêu đề ra. Tính khoa học và cách mạng của hệ tư tưởng, sự mẫn cảm chính trị, khả năng nắm bắt những qui luật của đời sống chính trị là cơ sở chủ yếu của tiên đoán và dự báo chính trị. Muốn được như vậy, chủ thể phải luôn bám sát thực tiễn, phải lăn mình vào cuộc sống hiện thực, khắc phục tệ quan liêu, thờ ơ lãnh đạm chính trị. Tóm lại, nhận thức về bản chất của VHCT, cấu trúc, đặc điểm và chức năng của VHCT là cơ sở lý luận, quan điểm nền tảng rất cần thiết cho việc nhận thức về chất lượng VHCT của các chủ thể chính ở nước ta nói chung và cho mỗi chủ thể cụ thể nói riêng, từ đó có căn cứ để xác định những giải pháp thích hợp nhằm phát huy tốt vai trò của VHCT trong việc nâng cao VHCT cho mỗi chủ thể. III. Nâng cao văn hoá chính trị ở nước ta hiện nay. Có thể nói VHCT Việt Nam hiện đại không thể không nói đến “diện mạo” VHCT của các chủ thể chính trị ở nước ta hiện nay. Tuy vậy, cùng với quá trình đổi thay của đất nước, cácc hủ thể chính trị đã có nhiều khẳng định chất mới về VHCT trên mọi phương diện; nhưng vẫn còn không ít những nét tiêu cực phi văn hoá. Một mặt, do ảnh hưởng của những tập quán truyền thống của nền sản xuất nhỏ, của chế độ phong kiến, của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, một bộ phận trong các chủ thể vẫn còn thói quen tùy tiện, vô chính phủ; sống thụ động, trông chờ ỷ lại, cam chịu; mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái của nền kinh tế thị trường một bộ phận người trong xã hội đã hình thành quan điểm, lối sống thực dụng, ích kỷ, vị kỷ; xem lợi ích vật chất - kinh tế là tất cả, định hướng chính trị không là gì, điều đó chính là sự xa rời định hướng XHCN của hoạt động kinh tế; cùng với đó là tình trạng xuống cấp về đạo đức nói chung, đạo đức chính trị nói riêng ở một bộ phận xã hội. Chính những hạn chế trên đã ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành và phát huy văn hóa tranh luận trong chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp quyền - những bộ phận có quan hệ chặt chẽ với VHCT nói chung; ảnh hưởng đến việc hình thành nền tảng vững chắc cho cơ chế dân chủ trong đời sống xã hội nói chung, trong HTCT nói riêng. Khắc phục những hạn chế, nhằm tiếp tục nâng cao VHCT trong xã hội đã và đang trở thành một vấn đề chính trị thực tiễn cấp bách đối với mọi chủ thể chính trị ở nước ta hiện nay. Điều đó không chỉ đòi hỏi việc nâng cao chất lượng các chuẩn giá trị VHCT ở mỗi chủ thể, mà còn phải tác động tích cực vào các nhân tố chế định trình độ VHCT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1. Phương hướng giáo dục và nâng cao văn hóa chính trị ở nươc ta hiện nay. * Thứ nhất, hình thành và phát triển những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng cho VHCT hiện đại. - Về cơ sở kinh tế, VHCT hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế XHCN, đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu để đảm bảo định hướng XHCN cho sự phát triển kinh tế; đồng thời đảm bảo về mặt kinh tế cho việc hình thành và phát triển VHCT hiện nay. - Về cơ sở chính trị, VHCT phải dựa trên một HTCT mà Nhà nước của dân, do dân, vì dân là trụ cột dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước hình thành nền dân chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Do vậy, phải không ngừng củng cố và hoàn thiện HTCT, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HTCT - Về cơ sở xã hội, VHCT mới phải được hình thành và phát triển trên cơ sở củng cố khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lờp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; hình thành quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc; khắc phục sự bất bình đẳng, sự bất công; xây dựng nền giáo dục mới hướng vào mục đích toàn xã hội mà trực tiếp là nâng cao dân chủ. - Về tư tưởng, chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là chân lý khoa học, bản chất nhân văn, nhân đạo cùng với những giá trị văn hóa truyền thống là cơ sở tư tưởng, là giá trị chi phối VHCT ở nước ta. Vì vậy, phải tăng cường cônn tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, giác ngộ CN M-LN, TT Hồ Chí Minh cho các chủ thể * Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, năng lực tư duy, tích tích cực, chủ động nhạy bén chính trị cho các chủ thể, nhất là mỗi cá nhân, từ đó bồi dưỡng tình cảm, trau dồi đạo đức rèn luyện hành vi văn hóa, làm cho mỗi người nhận thức tự giác về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với bản thân, với người khác, với cộng đồng, với tổ chức, đoàn thể, với công việc, với đất nước. Xây dựng lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, qui ước của cộng đồng... * Thứ ba, tiếp tục đổi mới, kiện toàn HTCT, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò trụ cột của Nhà nước trong HTCT, thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc lôi cuốn nhân dân lao động vào xây dựng và phát triển VHCT . Phát huy văn hóa dân chủ của nhân dân thông qua thực hành văn hóa tranh luận, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử trong thực tiễn chính trị, góp phần hình thành văn hóa công dân - nhân cách công dân. * Thứ tư, để phát triển VHCT phải tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận để khắc phục những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, phong cách và lối sống tư sản, tiểu tư sản ... * Thứ năm, tăng cường giáo dục văn hóa truyền thống cho các chủ thể chính trị, làm cho chủ thể nhận thức và biết kế thừa có phê phán, có chọn lọc tinh hoa VHCT của dân tộc và nhân loại; tránh hai khuynh hướng trong tiếp thu tinh hoa văn hóa: hoặc phủ nhận tuyệt đôi, hoặc tuyệt đối hóa, giáo điều trong tiếp thu... * Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và thói quen tự giác tham gia các hoạt động chính trị thực tiễn của mỗi cá nhân chủ thể, bởi vì chỉ có thông qua hoạt động chính trị thực tiễn mỗi chủ thể mới có thể phát huy tính tích cực chính trị của mình, khẳng định thực tế trình độ VHCT của mình. 2.2. Một số giải pháp cơ bản. Xác định giải pháp nâng cao VHCT cho các chủ thể từ nhiều phương diện và hệ giải pháp. Những giải pháp cơ bản sau cũng chỉ là một cách tiếp cận: * Thứ nhất, các chủ thể VHCT phải tự giác nâng cao VHCT cho bản thân. Đây là giải pháp cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất - Đối với mỗi cá nhân: phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ giác ngộ tư tưởng, trình độ nhận thức, trình độ kinh nghiệm chính trị... - Đối với tổ chức: + Phải nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy QLCT, QLNN. + Đổi mới cơ chế, chế độ chính sách (chế độ học tập, bồi dưỡng, chế độ chính sách, chế dộ giáo dục và đào tạo, định hướng chuẩn giá trị...) để đảm bảo cho những quan hệ lợi ích được thực hiện có chất lượng, hiệu quả, tạo điều kiện cho các củ thể nâng cáo VHCT cho bản thân * Thứ hai, giải pháp từ phương diện kinh tế: phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất để các chủ thể có điều kiện nâng cao VHCT cho bản thân. * Thứ ba, Giải pháp từ phương diện chính trị: Cần hoàn thiện, nâng cao chất lượng của cơ chế dân chủ để các chủ thể phát huy tốt vai trò làm chủ, tính tích cực sáng tạo của mình... * Thứ tư, giải pháp từ phương diện văn hóa, xã hội: cần thực hiện tốt chủ trương nâng cao trình độ dân trí với nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ... Nâng cao đời sống tinh thần, thực hiện tốt nhiều chính sách xã hội khác... 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu VHCT trong việc xây dựng văn hóa cầm quyền của Đảng ta hiện nay. Ở nước ta, VHCT gắn liền với VH Đảng, bởi vì Đảng ta vừa là hạt nhân của HTCT, vừa là chủ thể lãnh đạo duy nhất lãnh toàn diện mọi mặt, mọi lĩnh vực của ĐSXH. Do vậy, văn hóa Đảng là bộ phận quan trọng chi phối khuynh hứơng, tính chất của VHCT. Theo nghĩa rộng, Văn hóa Đảng là toàn bộ tình cảm, ý chí và hành động chính trị tích cực nhằm hình thành một Đảng có đủ sức lãnh đạo xây dựng xã hội mới phù hợp với mục tiêu nhân đạo, nhân văn cao cả của văn hóa và khát vọng dân chủ cao đẹp của thời đại. Nhưng những vấn đề này trong thời gian qua tuy đã được khẳng định trên thực tế, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót mà đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng văn hóa Đảng toàn diện. 3.1. Xây dựng văn hóa cầm quyển của Đảng cho mọi chủ thể của Đảng - Nâng cao VHCT cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng (nhất là cán bộ lãnh đạo) - Nâng cao VHCT cho các tổ chức cơ sở đảng, các đơn vị, cơ quan.. thuộc hệ thống bộ máy QLCT, QLNN. Bởi vì, VHCT có vai trò quan trọng trong việc hình thành phẩm chất và năng lực lãnh đao, biểu hiện: + VHCT góp phần điều chỉnh hành vi và các QHXH-chính trị, nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ lãnh đạo + VHCT góp phần hình thành nhân cách cính trị, hướng nhân cách đó vào những hoạt động tích cực nhằm thức hiện những giá trị lý tưởng đã lựa chọn + VHCT góp phần thúc đẩy XH hóa chính trị, làm cho người cán bộ lãnh đạo tích cực hoạt động chính trị. + VHCT góp phần nâng cao tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong hoạt động chính trị của người lãnh đạo. + VHCT góp phần khắc phục tệ quan liêu + VHCT góp phần nâng cao tư duy chính trị, khả năng giao tiếp và tác phong công tác của nười lãnh đạo. + VHCT góp phần gợi mở cách thức tiếp thu những giá trị nhân loại trong lĩnh vực chính trị cho các chủ thể chính trị, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo ... 3.2. Xây dựng văn hóa Đảng cả về phương diện chính trị, tư tưởng, tổ chức và phương thức lãnh đạo: * Thứ nhất, xây dựng văn hóa Đảng về tư tưởng là nâng cao trí tuệ của Đảng (nhất là tư duy lý luận khoa học), thấm nhuần và “vật chất hóa” chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng... * Thứ hai, xây dựng văn hóa Đảng về chính trị được biểu hiện tập trung ở việc đường lối, chủ trương và hệ thóng nghị quyết mang tính khoa học, tính thực tiễn cao để từ đó lãnh đạo đất nước đi lên * Thứ ba, xây dựng văn hóa Đảng về tổ chức là sự thấm nhuần những tư tưởng trên để xây dựng bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả; có đội ngũ cán bộ đảng viên là hình mẫu, là cái đẹp của văn hóa ứng xử, xứng đáng với vị trí lãnh đao xã hội... * Thứ tư, xây dựng văn hóa Đảng về phương thức lãnh đạo là sự tạo lập và thực thi một kiểu lãnh đạo, quản lý vừa mang tính khoa học sâu sắc, tính cách mạng sáng tạo vừa mang tính nhân văn cao cả. Biểu hiện như: - Là Đảng duy nhất cầm quyền, nhưng Đảng không được độc đoán, chuyên quyền - Văn hóa Đảng trong phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đặt trong điều kiện chúng ta đang xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân. - Văn hóa Đảng trong phương thức lãnh đạo của Đảng còn được biểu hiện và khẳng định trong việc Đảng lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, xác định xây dựng nền VHCT - văn hoá đảng là làm giàu thêm sức sống, sức mạnh chiến đấu, sức mạnh văn hóa, sức thuyết phục của Đảng ta, thực hiện trọng trách lớn lao có tính chất đột phá trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. 4. VHCT trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay 4.1. Về hệ tiêu chuẩn VHCT toàn cầu. Toàn cầu hoá là một quá trình tương tác trên quy mô toàn cầu của các loại hình hoạt động xã hội trong đó có loại hình hoạt động chính trị. Thể hiện cơ bản nhất của toàn cầu hoá là sự hợp tác toàn cầu. Xây dựng nền văn hoá chính trị có quy mô toàn cầu chính là xây dựng hệ ngôn ngữ chính trị để tất cả những người đại diện trên thế giới này có thể đối thoại, và cũng chính là loại bỏ những mặt dị biệt thái quá đồng thời thời tìm kiếm những mặt chung nhất liên quan đến lợi ích toàn cầu làm xuất phát điểm cho những cuộc đối thoại đó Để thực hiện toàn cầu hoá về chính trị, đòi hỏi những người đại diện của mỗi quốc gia hiện nay không chỉ là người phát biểu tình cảm, tư tưởng, nguyện vọng, ý chí của quốc gia ấy, phục vụ lợi ích của cộng đồng sau khi đã được cộng đồng lựa chọn làm đại diện, mà còn phải biết và cân bằng được với đại diện của các quốc gia khác. Vì thế, người ấy phải có được những phẩm chất nhất định. - Trước hết, người đó phải có tình yêu với quốc gia ấy, tức là phải trung thực về mặt chính trị, không bán rẻ quốc gia của mình, không đánh đổi Tổ quốc mình lấy những lợi lộc cá nhân. - Thứ hai, người đại diện cho một quốc gia phải có năng lực đối thoại, có năng lực ứng phó để giành những điều kiện thuận lợi nhất cho Tổ quốc mình, hay ít nhất, trong trường hợp buộc phải ở trong thế yếu, thì tránh được cho quốc gia những thất thiệt ở mức tối đa. Nhưng để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải xây dựng được một hệ giá trị hay những tiêu chuẩn văn hoá chính trị toàn cầu: (Chống phân biệt chủng tộc, chống sử dụng lao động trẻ em, chống sử dụng lao động tù nhân, chống huỷ hoại môi trường, chống phân biệt nam nữ...) Đó chính là những tiêu chuẩn đầu tiên trong hệ tiêu chuẩn văn hoá chính trị toàn cầu. Xây dựng tiêu chuẩn văn hoá chính trị toàn cầu là làm cho mọi người có thể đối thoại bình đẳng và tự do đối với nhau, nó không lệ thuộc vào các ưu thế của các cộng đồng có người đại điện. Thế giới đã xây dựng những cơ chế như vậy, những cơ chế này được thể hiện qua cơ cấu Liên Hợp quốc, IMF, WB. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn văn hoá chính trị toàn cầu là một quá trình chứ không phải là một trạng thái, là một đại lượng bất biến, bởi vì nó thay đổi cùng với sự thăng trầm các quyền lực chính trị quốc tế. Chính vì vậy, có những khía cạnh cao cấp hơn, chuyên nghiệp hơn mà chúng ta (thế giới) chưa cùng đi đến chuẩn chung (ví dụ tôn trọng tính đa dạng của hệ thống tư tưởng, tôn trọng tính đa dạng về phong thái văn hoá toàn cầu...) Do vậy, người ta phấn đấu cho một chế độ đa cực về chính trị là bởi người ta không muốn có một xu thế duy nhất về mặt chính trị. Bảo vệ tính đa dạng của đời sống chính trị toàn cầu được thể hiện dưới dạng xây dựng các cơ cấu đa cực, nhưng để xây dựng các cơ cấu đa cực thì buộc tất cả các dân tộc phải sáng suốt và cùng phấn đấu. Những người đại điện cho các quốc gia cần phải cùng nhau xây dựng một hệ thống những tiêu chuẩn sinh hoạt chính trị chung (ví dụ: không được can thiệp vào nội bộ của nhau), cho phép họ nói chuyện chung được với nhau, bất chấp những khác biệt về chính trị, tôn giáo hay tư tưởng. Những tiêu chuẩn như vậy được xây dựng bằng thoả thuận. Nói cách khác, mọi qui tắc và luật pháp đều là những khế ước. Sự thoả thuận có những nội dung và hình thức khác nhau phụ thuộc vào tương quan lực lượng trên thế giới trong từng giai đoạn. Nếu không xây đựng được những khế ước như thế, các dân tộc yếu sẽ không bao giờ có được tiếng nói thực sự của mình. Họ có thể có địa vị lý thuyết nhưng không bao giờ có địa vị thực tế. Việc các dân tộc nhỏ đấu tranh xây dựng những tiêu chuẩn VHCT toàn cầu chính là nhằm xác lập các địa vị sinh hoạt chính trị. Nhưng liệu những tiêu chuẩn như vậy có thể có hiệu lực thực tế hay không? Những nhiệm vụ cần tiến hành để tiến tới một nền văn hoá chính trị toàn cầu có thể tóm tắt trong những nét sơ lược sau đây: * Thứ nhất, xây dựng một nền văn hoá ngoại giao: Trước khi chiến tranh lạnh kết thúc ngoại giao giữa các quốc gia đều trên cơ sở, các cộng đồng đưa ra yêu sách của mình nhưng không hiểu hoặc không muốn hiểu đối tác, hay nói đúng hơn không muốn thừa nhận đối tác. Thực tế ngày nay đã đổi khác. Chúng ta cần và buộc phải hiểu các đối tác, nắm được những yêu cầu của họ. Ngày nay các mâu thuẫn và xung đột quốc tế cần phải giải quyết theo tư duy ngoại giao mới. Đó là một nền văn hoá ngoại giao giúp cộng đồng các quốc gia hiểu biết, thông cảm và chia sẻ quyền lợi cùng nhau. Đó là sự hợp tác và cạnh tranh để mang lại thắng lợi cho các bên đối tác. Những thay đổi sâu sắc của thế giới trong vài thập kỷ gần đây, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá và sự gia tăng ảnh hưởng của các quyền lực đa quốc gia đòi hỏi chúng ta phải có tư duy đối ngoại mới. Nếu như trước đây, mỗi quốc gia chỉ có một chính sách đối ngoại nhằm xử lý các quan hệ với các quốc gia khác, thì nay cần có một chính sách đối ngoại thứ hai, ngày càng trở nên quan trọng hơn, nhằm giải quyết quan hệ với các lực lượng đa quốc gia. Chính sách đối ngoại giữa các quốc gia cần phải tính đến đặc điểm đa cực và ràng buộc lẫn nhau của thế giới hiện đại được tác động của toàn cầu hoá. Mặt khác, bằng các chính sách đối ngoại khôn khéo trong quan hệ với các công ty đa quốc gia, một chính phủ có thể biến họ thành đồng minh của mình không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, phục vụ tất cho nhu cầu phát triển đất nước, đồng thời hạn chế sự thao túng của họ. Trong bối cảnh cạnh tranh và hợp tác vô cùng phức tạp hiện nay, chính phủ nào, quốc gia nào tranh thủ được các lực lượng đa quốc gia sẽ có sức cạnh tranh lớn để thực hiện thành công chính sách phát triển kinh tế của mình. * Thứ hai, tôn vinh những giá trị phổ quát: Dân chủ, nếu không phụ thuộc vào cái vỏ ngôn ngữ của nó, mà nhìn nhận về bản chất, thì lại là một giá trị phổ quát, tuy rằng khái niệm này ở mỗi thời và ở mỗi địa phương đều có những biến thể, nhưng nó vẫn có những tiêu chuẩn giá trị chung cho cả phương Đông và phương Tây. Cơ sở của tất cả những điều này là ở chỗ con người, cho dù ở đâu, thuộc về dân tộc nào, tôn giáo nào cũng đều là con người với những khát vọng chung về hạnh phúc, những đau đớn chung về đồng loại. Cuộc sống đã, đang đặt ra cho con người toàn thế giới những nhiệm vụ chung thì cũng đặt ra những tiêu chuẩn chung cho cuộc sống cộng đồng. Những tiêu chuẩn này ngày càng nhiều hơn và ngày càng quan trọng hơn. Đời sống hiện đại buộc con người phải học cách sống chung. Họ buộc phải có những thoả thuận, những quy tắc, đầu tiên là những thoả thuận luật pháp, sau đó là những thoả thuận chính trị, và cuối cùng là những thoả thuận văn hoá. * Thứ ba, xây dựng nền pháp quyền toàn cầu. Ý tưởng về một thế giới pháp quyền dĩ nhiên là sự phát triển của khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng nó chỉ có thể xuất hiện một cách nghiêm túc cách đây không lâu, khi tiến trình toàn cầu hoá đã trở nên không thể nào đảo ngược. Ý tưởng này dựa trên việc xác định những tiêu chuẩn pháp lý phi chính trị, không thiên vị và độc lập, có vai trò điều tiết toàn bộ các mối quan hệ không chỉ giữa các quốc gia mà còn cả giữa các tổ chức, khu vực và thậm chí cả các cá nhân. Một ý tưởng như vậy liệu có không tưởng không? Cái gì sẽ đảm bảo tính khả thi của nó? Câu hỏi quả là có cơ sở của nó. Bởi vì dễ nhận thấy ngay rằng một hệ thống những tiêu chuẩn như thế rất dễ dàng rơi vào tính trừu tượng và việc qui định những quyền của các quốc gia sẽ trở nên vô nghĩa nếu như nó không có được tính hợp pháp chính trị. Hơn nữa, ngay cả tính hợp pháp chính trị cũng có thể vấp phải hàng rào định kiến, những khác biệt về văn hoá và sự lộng hành của bạo lực. Một cộng đồng pháp quyền toàn thế giới là hoàn toàn có thể có được nhưng không phải là điều tất nhiên. Cái cần thiết cho sự ra đời của nó là sự xuất hiện với tỷ lệ áp đảo trên thế giới những nhà lãnh đạo đủ tiêu chuẩn VHCT, và cùng với nó là hệ thống những qui tắc và những tiêu chuẩn chính trị toàn cầu. * Thứ tư, tiến tới một cộng đồng văn hoá toàn thế giới Văn hoá không phải là hệ quả của kinh tế và chính trị, mà là môi trường, là nền tảng của kinh tế và chính trị. Chúng ta biết rằng trong lịch sử, trật tự thế giới thường được đảm bảo bằng bạo lực. Mặc dù mang ý nghĩa gốc là một sự đối ngược với sự “vô trật tự", nhưng trên thực tế, những trật tự thế giới chỉ là kết quả của ý chí của những nước mạnh. Trật tự đó thực chất chưa thể gọi là trật tự. Chiến tranh lạnh chấm dứt và sự hình thành của cái thường được gọi là "thế giới đa cực" khiến cho khả năng thiết lập một trật tự bằng những yếu tố văn minh hơn có thể trở thành hiện thực. Cơ sở của một thế giới như thế, như chúng ta vừa trình bày trên đây, chính là hệ thống những tiêu chuẩn văn hoá chính trị toàn cầu. Nhưng đồng thời chính những tiêu chuẩn này, đến lượt nó lại tác động trở lại môi trường văn hoá thế giới, cho phép chúng ta tiến tới một nhân loại văn hoá, thế là một nhân loại có chung một nền đại văn hoá, bao gồm và trân trọng những bản sắc văn hoá riêng, giúp nó vượt qua tất thảy những trở ngại chính trị, dân tộc, tôn giáo...Nói cách khác, đó là con đường tiến tới một cộng đồng văn hóa toàn thế giới. 4.2. Giữ vững bản sắc văn hóa Việt Nam trong ngoại giao văn hóa vì mục đích hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững. Chính sách ngoại giao Việt Nam dựa trên 3 trụ cột : Ngoại giao Chính trị, Ngoại giao Kinh tế và Ngoại giao Văn hóa. Có thể nói văn hóa mang thế mạnh đặc thù, là nhân tố duy nhất có thể thâm nhập vào mọi lĩnh vực và hiện hình trong sức mạnh tổng hợp của mọi quốc gia. Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một quốc gia muốn trở thành cường quốc khu vực hay thế giới thì nền văn hoá của quốc gia đó phải có sức hút trên phạm vi khu vực hay thế giới. Còn đối với một nước vừa và nhỏ, muốn tồn tại và phát triển thì càng phải phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó nhân thêm sức mạnh của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giành được sự coi trọng của các nước và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Thông qua việc quảng bá rộng rãi các giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Việt Nam, Ngoại giao Văn hóa của chúng ta muốn chuyển tới bạn bè quốc tế  thông điệp về một nước Việt Nam hòa bình, ổn định, thân thiện, cởi mở, đang thực hiện đổi mới thành công, phát triển nhanh, bền vững và đóng vai trò ngày càng lớn hơn ở khu vực và trên thế giới. Ngoại giao Văn hóa Việt Nam sẽ mang Việt Nam ra với thế giới và mang thế giới về với Việt Nam. Đó là một Việt Nam phát triển đang mở rộng chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ và sẵn sàng là bạn với tất cả các quốc gia trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Đó là một Việt Nam tươi đẹp với bản sắc văn hóa độc đáo được tích lũy qua hàng nghìn năm phát triển trong bức tranh văn hóa muôn màu, đa dạng và phong phú của nhân loại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvan_hoa_vhct_hv_tk_9121.doc