Vai trò của các đơn vị đồng nghĩa đối với sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân

Trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân từ ngữ đồng nghĩa là phương tiện đưa những thông tin bổ sung về con người, cảnh vật và sự kiện làm nên cốt truyện của tác phẩm. Đồng thời, chúng cũng là phương tiện để tác giả bày tỏ thái độ, lập trường của mình đối với nhân vật và sự kiện nêu trong tác phẩm, đặc biệt là trong những tình huống khó sử: tỏ thái độ ca ngợi, bênh vực những con người và việc làm theo lẽ thường thì người ta lên án, người ta trừng trị (ví dụ nhân vật đao phủ Bát Lê trong truyện Bữa rượu máu; hay nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù ) Nhân vật của Nguyễn Tuân (quan phủ, Cầu, Tú, Huấn Cao ) cũng sử dụng ngôn ngữ của người kể. Dù cố ý hay vô tình giữa ngôn ngữ của người kể và nhân vật không có sự phân biệt rõ ràng. Điều này chứng minh ý kiến cho rằng “Truyện của Nguyễn Tuân là tùy bút trá hình”(Trương Chính). Ngôn ngữ Nguyễn Tuân gắn với ngôn ngữ tùy bút. Nhưng đó chính là sự độc đáo có một không hai của Nguyễn Tuân.

pdf8 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của các đơn vị đồng nghĩa đối với sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 13 VAI TRÕ CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ THỂ HIỆN CHỦ THỂ PHÁT NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN TUÂN Lê Thị Hƣơng Giang* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Qua việc khảo sát và phân loại các đơn vị đồng nghĩa đối với sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ngƣời viết đã chỉ ra những giá trị của việc sử dụng các đơn vị đồng nghĩa; sự thể hiện vốn từ phong phú và khả năng sáng tạo những đơn vị ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân – một trong số các nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam, một bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ. Từ khóa: đồng nghĩa , truyện ngắn, chủ thể phát ngôn, Nguyễn Tuân ĐẶT VẤN ĐỀ* Đồng nghĩa là một hiện tƣợng có tính phổ quát trong tất cả các ngôn ngữ. Đồng nghĩa cung cấp cho ngƣời sử dụng ngôn ngữ khả năng lựa chọn phƣơng tiện biểu đạt để diễn tả một cách trung thành nhất tƣ tƣởng, tình cảm của mình trong ngững cảnh huống giao tiếp cụ thể. Nguyễn Tuân là một trong số các nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam. Tài hoa của Nguyễn Tuân biểu hiện trên nhiều mặt: sự uyên bác, năng lực sáng tạo độc đáotrong đó phải kể đến tài hoa về dùng từ. “Đi trên con đƣờng nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Tuân đã trở thành ngƣời phát hiện, ngƣời khám phá những khả năng chƣa từng biết đến của tiếng Việt ta”[1, S.33] Việc tìm hiểu các đơn vị đồng nghĩa đối với sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân sẽ là một cách tiếp cận mới trên phƣơng diện ngôn ngữ. Qua đó, ngƣời đọc sẽ hiểu rõ hơn những tâm tƣ, trăn trở mà tác giả đã kín đáo truyền thông điệp tới ngƣời đọc. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Từ ngữ đồng nghĩa là những đơn vị từ hoặc cụm từ có chức năng biểu thị cùng một đối tƣợng. Trong ngôn ngữ học hiện nay có sự phân biệt giữa đồng nghĩa và đồng sở chỉ. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi gọi chung các từ hoặc ngữ có một nét nghĩa nào đó đồng nhất là những từ ngữ đồng nghĩa * Tel: 0989 090076, Email: lehuonggiang.dhsptn@gmail.com hoặc đơn vị đồng nghĩa, bao gồm cả đồng nghĩa từ vựng và đồng nghĩa trong văn cảnh. 2. Phân tích nội dung một văn bản, ta có thể xem xét văn bản đó trong mối quan hệ với đối tƣợng đƣợc phản ánh, với chủ thể phát ngôn và với đối tƣợng thụ ngôn. Bài viết này tìm hiểu vai trò của các từ ngữ đồng nghĩa trong các truyện ngắn của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng, xét từ mối quan hệ giữa văn bản với chủ thể phát ngôn. Trong tác phẩm văn học, chủ thể phát ngôn gồm có nhân vật, ngƣời dẫn truyện và tác giả. Xét cho cùng, toàn bộ tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Do đó, ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ nhà văn. Tuy nhiên, xét tƣơng quan nội tại của tác phẩm, ngƣời ta phân biệt ngôn ngữ ngƣời thuật truyện và ngôn ngữ nhân vật. 3. Trong các truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ta thấy có một số lƣợng lớn những đơn vị đồng nghĩa, thể hiện vốn từ phong phú và khả năng sáng tạo những đơn vị ngôn ngữ của tác giả. Thực tế cho thấy, mỗi khi sử dụng từ đồng nghĩa, nhà văn đã thực sự tạo đƣợc sự thay đổi giọng điệu của câu văn, đoạn văn và của toàn bộ tác phẩm. Đây cũng là con đƣờng để ngôn từ thực hiện chức năng thi học, chức năng siêu ngôn ngữ của mình. Hiện tƣợng từ ngữ đồng nghĩa trong văn Nguyễn Tuân xảy ra trong nội bộ ngôn ngữ ngƣời trần thuật, nội bộ ngôn ngữ của nhân vật. Với tƣ cách là một trong những phƣơng tiện bộc lộ tính cách nhân vật, các từ ngữ đồng nghĩa trong lời nhân vật và lời ngƣời trần Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 14 thuật có vai trò tƣơng đối khác nhau. Vì vậy, ở đây chúng tôi tách ngôn ngữ ngƣời trần thuật và ngôn ngữ nhân vật ra làm hai đối tƣợng xem xét riêng. Từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ nhân vật Trong các truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ít những lời đối thoại trực tiếp, vì thế ngôn ngữ nhân vật ít xuất hiện. Tuy vậy, trong các tác phẩm, mỗi khi nhân vật phát ngôn đều thể hiện tính cách của mình. Và tính cách ấy một phần bộc lộ qua cách sử dụng từ ngữ đồng nghĩa. Các lƣợt lời của nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân thƣờng ngắn. Tuy nhiên, qua khảo sát, ta thấy trong các lời thoại của nhân vật xuất hiện nhiều từ ngữ đồng nghĩa. Các từ ngữ đồng nghĩa này đã giúp cho nhà văn thể hiện những dụng ý khác nhau. Nhân vật trong các phẩm của Nguyễn Tuân thƣờng là nhân vật tài hoa: chặt đầu giỏi, uống trà giỏi, thả thơ, đánh thơ giỏi. Tất cả đều đạt trình độ nghệ sĩ. Do đó, trong nói năng họ cũng là những ngƣời khéo léo, lịch sự văn hoa. Nét tính cách văn hoa lịch sự ấy biểu hiện qua cách xƣng hô theo những quan hệ khác nhau giữa các nhân vật. Viên quan phủ gọi lý trƣởng khi thì thầy, khi thì chú, khi thì anh. Mỗi cách xƣng hô đều có động cơ và ý đồ riêng. Trước hết các từ ngữ đồng nghĩa xuất hiện trong lời nói của nhân vật đã góp phần khắc họa đặc điểm của nhân vật. Ví dụ, Trong “Những chiếc ấm đất” cùng chỉ khái niệm “ăn” nhƣng nhà sƣ nói là “thụ”: “Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi, sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc phật”. Còn cô gái (không phải là sƣ) đã đáp lại nhà sƣ theo cách nói của ngƣời ngoại đạo: -Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà còn lửng dạ ạ”.[9,tr.41] Thụ và ăn là cặp đồng nghĩa nhƣng xuất hiện trong lời nhân vật chẳng những góp phần khắc họa đặc điểm nhân vật một là nhà sƣ và một là con trai cụ Sáu - ngƣời phàm trần mà còn có giá trị giải thích nghĩa cho nhau, bổ sung nghĩa cho nhau. - Hiện tƣợng một nhân vật đƣợc các nhân vật khác xƣng hô bằng những từ khác nhau: ông/ anh; tiên sinh/ công tử chứng tỏ các nhân vật là những ngƣời lịch thiệp. Ví dụ: “Thầy làm việc quan nhƣ thế hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong đƣợc nhà nƣớc cho tƣởng lục hay là mong điền vào chân chánh phó tổng khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện lí trƣởng của anh cũng khó mà giắt cho đƣợc lâu đâu. Việc dân trong làng uống rƣợu mà thầy lại mù tịt nhƣ vậy, thì chết thật. Thầy làm việc không đƣợc quá mẫn tiệp quá rõ rồi. Nếu ta không thƣơng anh, đem một việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh còn giữ đƣợc đồng triện không? ”[9, tr.9]. Trong “Những chiếc ấm đất”, Nguyễn Tuân viết: “Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to lên: - Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thƣởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại toàn ấm song ấm quý”.[9, tr.46]. Qua các dẫn chứng trên ta thấy Nguyễn Tuân đã đặt vào lời nhân vật những cách xƣng hô bằng những từ ngữ khác nhau, ngay trong cùng một lƣợt lời ngay cả khi tự xƣng (tức quy chiếu vào ngôi thứ nhất) khi hô (tức quy chiếu vào ngôi thứ hai) và khi nói tới ngƣời thứ ba (quy chiếu vào ngƣời đƣợc nói tới trong cuộc thoại). Nhƣ vậy chứng tỏ Nguyễn Tuân đã rất có ý thức sử dụng từ ngữ đồng nghĩa - đây chính là phƣơng tiện để tác giả bày tỏ thái độ, lập trƣờng của mình đối với con ngƣời và cảnh vật, giúp ngƣời đọc nhận ra các thông điệp hàm ẩn của tác phẩm. Bát Lê trong “Bữa rượu máu” đã tự xƣng bằng những từ ngữ khác nhau khi trả lời quan Đổng lý quân vụ: “Dạ bẩm ông lớn đã thƣơng đến phận tôi tớ, chúng con xin hết sức ra công chó ngựa. Nhƣng bây giờ con đã già yếu lắm, không biết có còn làm đƣợc việc nhƣ hồi xƣa nữa không ”[9,tr.36] Ngoài các từ xƣng hô linh hoạt bằng các từ đồng nghĩa, trong lời thoại của nhân vật, ta thấy các nhân vật trong truyện ngắn còn dùng nhiều các từ ngữ đồng nghĩa biểu thị nhiều sự vật hiện tƣợng. Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 15 Đây là lời ông huyện Thạch Thành nói với vợ: “Không chiều bề trên thì họ bảo mình ngạo, không làm vừa lòng bạn thì họ bảo ăn ở không có tình”. Chiều và làm vừa lòng là hai đơn vị cùng nghĩa: nói và làm theo ý của ngƣời khác. Sử dụng cặp đồng nghĩa này, tài sử dụng ngôn ngữ của nhân vật đã bộc lộ. Hay lời quan phủ nói với thầy lý: “Thầy nên coi chừng đến công việc của thầy và sự hành động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của thầy nặng lắm đó! Thầy giữ việc làng thay thầy lý trƣớc (bị chết một cách rất thê thảm và chẳng vinh dự gì) trong khi thừa hành công vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy lúc này, hơn ai hết thảy”. Đôi khi hiện tượng xưng hô bằng những từ đồng nghĩa còn thể hiện sự diễn biến trong tâm trạng của nhân vật. Ví dụ: Trong “Mười năm trời mới gặp nhau, nhân vật Cầu dùng hai từ xƣng hô đồng nghĩa để nói với Đạm: “Và chỉ trong giây lát đủ thời giờ để cái nắm tay lên trán và bỏ tay xuống, ông đã vồn vã trả lời: - Ông Đạm? Anh Đạm?” Từ ông chuyển sang anh, các từ xƣng hô đã thể hiện sự chuyển biến tâm lý diễn ra trong con ngƣời Cầu: Từ chỗ nhìn Đạm nhƣ một ngƣời xa lạ, xƣng hô theo lối lịch sự xã giao vì chƣa nhận ra là ngƣời thân quen, chuyển sang lối xƣng hô thân mật khi nhận ra trƣớc mặt mình là bạn thân từ thuở trƣớc. Có khi dùng cách xưng hô đồng nghĩa, nhân vật đã thực hiện ý đồ chiến thuật giao tiếp nhằm đạt mục đích của mình. Ví dụ: “Thầy làm việc quan nhƣ thế hỏng, hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong đƣợc nhà nƣớc cho tƣởng lục hay là mong đƣợc điền vào chân chánh phó tổng khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện lý trƣởng của anh cũng khó mà giắt cho đƣợc lâu đâu. Việc dân trong làng uống rƣợu mà thầy mù tịt nhƣ vậy, thì chết thật. Thầy làm việc không đƣợc mẫn tiệp quá rõ rồi. Nếu ta không thƣơng anh, đem một việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh có còn giữ đƣợc đồng triện không”[9, tr.9]. Trong lƣợt lời này, quan phủ đã gọi lí trƣởng bằng thầy và anh. Đây không phải chỉ là sự thay đổi từ ngữ cho lời văn linh hoạt, sinh động; mà là sự thay đổi cách xƣng hô nhằm thể hiện chiến thuật “vừa đánh vừa xoa” của quan phủ. Quan phủ đã một mặt đặt lí trƣởng vào địa vị xã hội để quy trách nhiệm nhằm đe dọa, mặt khác quan phủ lại dùng tình thân ái cá nhân để thƣơng tình, để kéo lí trƣởng về phía mình mà cùng nhau trấn áp kẻ nấu rƣợu lậu. Đặt các từ ngữ đồng nghĩa (đồng quy chiếu) vào trong lời nhân vật, Nguyễn Tuân đã để cho nhân vật tự bộc lộ động cơ phát ngôn của nó. Nhờ vậy tác giả không cần một lời bình nào vẫn bày tỏ thái độ phê phán đối với thủ đoạn của quan phủ. Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao lúc đầu đã nói với viên quan ngục bằng từ xƣng hô tỏ thái độ trịch thƣợng, coi thƣờng: “- Ngươi hỏi ta muốn gì? ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng có đặt chân đến đây”. Nhƣng về sau khi đã “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài “ của viên quản ngục, Huấn Cao lại gọi viên quản ngục bằng thầy quản và coi quản ngục là “ một tấm lòng trong thiên hạ”. Bằng cách đặt vào lời các nhân vật những từ ngữ xƣng hô khác nhau, tác giả kín đáo thể hiện sự thay đổi về nhận thức và thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục. Sự thay đổi ấy nói lên rằng trong con ngƣời Huấn Cao trƣớc sau vẫn “lành vững” một chủ nghĩa tôn thờ cái đẹp, trân trọng từng “chút ánh sáng của con tâm còn thơm sạch”; mà biết tôn trọng cái đẹp là một con ngƣời đẹp. Tóm lại, qua những lời thoại của các nhân vật ta thấy các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân vừa lịch sự, văn hoa, vừa khôn khéo trong thể hiện ý đồ giao tiếp. Đồng thời, từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ nhân vật đã đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện thể hiện nội tâm và tính cách nhân vật. Có thể nói rằng, những từ ngữ đồng nghĩa đã giúp cho tƣ duy của độc giả từ lĩnh hội nội dung bề mặt của diễn ngôn mà suy ra chiều sâu hàm ẩn của văn bản nghệ thuật. Các từ ngữ đồng nghĩa đƣợc tác giả sử dụng đã tạo nên các thông tin bổ sung khiến cho tƣ duy ngƣời đọc vƣợt ra khỏi văn bản, tri nhận những “ý tại ngôn ngoại”. Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 16 Từ ngữ đồng nghĩa trong lời người trần thuật Lời người trần thuật (còn gọi là ngôn ngữ ngƣời trần thuật) là phần lời trong tác phẩm dùng để miêu tả và thể hiện thái độ đối với mảng cuộc sống đƣợc dựng lên trong tác phẩm. Thật ra trong lý luận văn học, tác giả và ngƣời trần thuật trong tác phẩm không phải là đồng nhất. Tuy vậy, trong bài này chúng tôi thấy không cần thiết phân biệt, nên tạm thời coi ngôn ngữ của ngƣời trần thuật và ngôn ngữ tác giả là một. Lời ngƣời trần thuật là phƣơng tiện chủ yếu của tự sự và thể hiện tập trung phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Trong sáng tác, nhà văn phải xử lí một loạt các nhân tố liên quan đến quá trình sáng tác sao cho tạo đƣợc hình thức ngôn ngữ phù hợp với nội dung và có hiệu lực cao với ngƣời đọc. Và điều đó góp phần tạo nên dấu ấn phong cách nhà văn. Khrapchenko nói: Đặc thù của việc miêu tả nhân vật, sự kiện, những hoàn cảnh thuộc về những đặc điểm có tính chất quyết định của phong cách cá nhân”. Theo đó, ta có thể nói: việc sử dung các từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ ngƣời trần thuật là một trong những yếu tố của phong cách ngôn ngữ tác giả. Phương tiện ngôn ngữ đồng nghĩa trong lời người trần thuật Trong các truyện ngắn của mình, với tƣ cách là ngƣời trần thuật, Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn từ ngữ phong phú và linh hoạt. Cùng một con ngƣời, một sự việc, hành động... ông gọi tên bằng những từ ngữ khác nhau, qua đó, khắc họa những đặc điểm khác nhau của đối tƣợng đƣợc nói đến và biểu lộ những quan niệm và thái độ khác nhau trƣớc thực tế đƣợc phản ánh. Hầu nhƣ mỗi con ngƣời, mỗi sự vật đều đƣợc Nguyễn Tuân gọi bằng những từ ngữ đồng nghĩa khác nhau. Bao trùm lên tất cả , thông qua việc sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa ta nhận ra một sự tìm tòi sáng tạo và sự uyên bác của nhà văn. Ví dụ, trong “Vƣờn xuân lan tạ”, có những dãy đồng nghĩa nhƣ sau: - Các từ ngữ chỉ ngƣời (không tính sự lặp lại): + công tử, tiểu sinh, cậu ấm. + con gái, tiện nữ, cô chiêu, ngƣời ngọc, ngƣời giai nhân + bạn già, ngƣời cố hữu. + chủ nhân, quan án Trần, ông chủ... + đám mục đồng, tụi trẻ - Các từ ngữ đồng nghĩa chỉ sự vật: + hoa, huê, lan, cỏ quý, cái hƣơng trời... + hoa viên, lan viên, lan trang + hỏa, lửa Việc sử dụng nhiều từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ của ngƣời trần thuật đã tạo nên những hiệu quả khác nhau. Trƣớc hết, các từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ người trần thuật thể hiện tình cảm thái độ của tác giả đối với đối tượng được trần thuật. Ví dụ: Trong “Chữ người tử tù”, việc công khai bênh vực một tên tử tù là một điều khó, xét về mặt chính trị. Tránh bộc lộ công khai, lộ liễu lập trƣờng của mình (kỵ lộ) là yêu cầu nghệ thuật, nhƣng cuối cùng khuynh hƣớng tƣ tƣởng của tác phẩm lại cần phải rõ ràng. Đó là những mâu thuẫn, những khó khăn của nhà văn. Việc sử dụng các từ đồng nghĩa mang màu sắc tu từ là một thủ pháp giúp nhà văn thoát khỏi những mâu thuẫn đó... “Những đƣờng nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và nhẹ êm”[9, tr86]. Cặp đồng nghĩa: mặt tư lự - mặt nước ao xuân đã giúp cho tác giả kín đáo tỏ thái độ của mình đối với viên quan ngục. Nó cũng là dấu hiệu gợi mở cho độc giả phát hiện phẩm chất một con ngƣời “còn lập lòe chút ánh sáng của con tâm còn thơm sạch”. Đoạn văn sau đây sử dụng những từ ngữ đồng nghĩa một cách đắc địa cho sự bộc lộ tƣ tƣởng của mình: “Trong hoàn cảnh đề lao, ngƣời ta sống với nhau bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Ông trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào một đống cặn bã. Và những ngƣời có tâm điền tốt và thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt” [9.tr86]. Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 17 Dãy đồng nghĩa: tàn nhẫn- lừa lọc- hỗn độn xô bồ- lũ quay quắt- đống cặn bà tƣơng phản với dãy đồng nghĩa: lòng biết giá người - biết trong người ngay - âm thanh trong trẻo - tâm điền tốt- thắng thắn. Ở đây ta thấy tác giả đã sử dụng một dãy đồng nghĩa này tƣơng phản với một dãy đồng nghĩa khác, nhƣ vẽ lên hai mảng sáng tối, trắng đen của một bức tranh, làm toát lên lập trƣờng của tác giả: ngợi ca, trân trọng cái tốt đẹp và phê phán, lên án cái xấu xa, tàn ác. Vậy là hình ảnh một con ngƣời tài hoa với tâm hồn đẹp đẽ của quá khứ hiện về trong một hiện tại đen tối, hỗn loạn. Từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ người trần thuật thể hiện cách nhìn khác nhau về đối tượng được nói tới. Điều này thể hiện trƣớc hết định danh các nhân vật. Cùng một nhân vật ngƣời trần thuật gọi tên bằng những từ ngữ khác nhau. Xin nêu một trƣờng hợp làm ví dụ: Bát Lê trong “Bữa rƣợu máu” là ngƣời có “nghệ thuật” “chém treo ngành”, trong lời trần thuật của tác giả đƣợc gọi bằng các tên gọi: lão Lê, tên đầy tớ, Bát Lê, ông Bát phẩm Lê. Lão Lê là cụm từ gọi tên nhân vật, khi tác giả giới thiệu nhân vật thông qua cái nhìn của Đổng Lý quân vụ, khi ông này đến nhà tìm ông ta. Nguyễn Tuân gọi nhân vật này bằng lão vì có ý nói rằng đó là một ngƣời già, đã về nghỉ. Cách gọi Lão Lê chỉ đƣợc dùng một lần trong tác phẩm, vì có chức năng giới thiệu đặc điểm tuổi già của nhân vật, sau khi gi;í thiệu xong tác giả không dùng lại. Tên đầy tớ là cụm từ dùng để chỉ Bát Lê, cũng chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ ngƣời trần thuật trong tác phẩm một lần. Đó là tác giả trần thuật việc quan đổng lý hất hàm hỏi Bát Lê, Bát Lê đƣợc đặt vào trong mối quan hệ với Quan Đổng lý. Hình thức định danh này có tác dụng xác lập quan hệ giữa hai nhân vật: “Quan đổng lý quân vụ ngả mình trên chiếc ghế bành son, hất hàm hỏi tên đầy tớ già bát phẩm đang thu bé mãi ngƣời trên chiếc cột”.[9,tr35] Ông Bát Phẩm Lê đƣợc dùng một lần khi kể về việc Bát Lê chọn chỗ tập lại những động tác chém treo ngành. Tác giả gọi nhân vật bằng ông kèm theo cả cái chức danh, phẩm hàm và cả tên thật , tác giả đã nhìn nhận nhân vật từ góc độ “thâm niên nghề nghiệp” và ca ngợi cái tính cẩn thận của nhân vật. Bát Lê là cách gọi nhân vật đƣợc sử dụng 21 lần. Đây là cách xƣng hô đƣơng thời: ngƣời ta gọi nhau bằng cách gắn tên với chức danh hoặc phẩm hàm chức nghiệp. Trong những đoạn trần thuật về Bát Lê luyện tập đƣờng kiếm chuẩn bị cho “cuộc thí nghiệm sau cùng của một đƣờng dao bị bỏ quên lâu ngày”, tác giả đã cố ý làm cho việc miêu tả khách quan hóa. Ngƣời trần thuật đã đứng ở ngôi thứ ba gọi tên nhân vật theo cách xƣng hô thông thƣờng của thời đại, làm cho sự trần thuật trở nên khách quan. Trong ngôn ngữ của ngƣời trần thuật, có những đoạn tả sự vật, hiện tƣợng khách quan thông qua con mắt và tâm trạng của nhân vật. Những từ ngữ đồng nghĩa xuất hiện trong những đoạn văn miêu tả cái khách quan này lại gián tiếp khắc họa đặc điểm, tính cách nhân vật. Ví dụ: trong “Chén trà sương” có đoạn: “Cụ ấm phẩy quạt nan phành phạch theo một nhịp nhanh chóng trƣớc cửa hỏa lò. Hòn than tàu lép bép nổ, nghe vui tai. Và làm vui cho cả mắt mữa, những tàn lửa không có trật tự, không bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không những nét lửa ngoằn ngoèo. (...) Những hòn than tàu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn quanh. Không khí mỗi lúc dao động càng dâng cao thêm những ngọn lửa xanh nhấp nhô. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tƣơi và trong suốt nhƣ thỏi vàng thổi chảy.[9,tr.101]. Những từ ngữ đồng nghĩa trong đoạn này, một mặt đã tả một cách cụ thể, sinh động những hòn than cháy trong lò. Mặt khác cách tả bằng những từ ngữ đồng nghĩa sắc thái hóa ấy thể hiện nhân vật Cụ ấm là ngƣời có óc quan sát tinh tế, chứng tỏ đó là ngƣời đã lâu năm gắn bó với thú vui tao nhã uống trà mạn. Nói một cách khác, xét về phƣơng diện chủ thể phát ngôn, các từ ngữ đồng nghĩa đƣợc sử dụng trong đoạn trích dẫn trên thể hiện đƣợc nhiệt tình ca ngợi (hoặc thái độ phê phán) nhân vật đƣợc miêu tả. Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 18 Sự biểu lộ tình cảm thái độ chủ quan của tác giả lại càng rõ khi tác giả sử dụng các từ đồng nghĩa bộ phận theo phép liệt kê tiệm tiến. Ví dụ: “Trẻ con tỉnh Đoài, đến bây giờ vẫn còn hay hát. Vừa hát vừa nghe vừa trông lên cái chỏm non Tản: trông xa nhƣ hình cái tán đá, non kia vòi vọi đã là cả một thế giới của bí mật, của huyền ảo”. [9,tr. 120] Bí mật, huyền ảo trong văn cảnh này đồng nghĩa bộ phận với nhau, bổ sung cho nhau tạo cảm giác về khung cảnh thiên nhiên huyền bí, li kì. Ví dụ: “Hoa quả lành ngọt và thơm nhƣ hết thảy những cái gì không phải là trần hủ sống gửi ở mặt đất cõi trần. Những cái êm, dịu, trong, sáng, thơm lành trên non tiên, nếu đƣợc đem thuật lại với ngƣời làng, ông cụ Sần tin rằng sẽ có một khối ngƣời đoạn tuyệt với cố hƣơng, tìm vào ngàn cao cho đƣợc thỏa cái tai và cái mắt” [9, tr.123] Trong đoạn trên các từ ngữ đồng nghĩa bộ phận đã đƣợc dùng theo phép liệt kê cho ta thấy lòng say mê, chất lãng mạn của tác giả khi nhiệt tình ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong câu sau đây, việc sử dụng theo phép liệt kê các từ ngữ đồng nghĩa rõ ràng bộc lộ cảm xúc, sự phẫn nộ của người nói: Ví dụ: “ Và tôi đã làm quảng cáo cho tôi bằng việc làm giả dối, xảo quyệt rẻ tiền”. (Chiếc lư đồng mắt cua) Cũng có khi, nhiều từ đồng nghĩa không tập trung ở một đoạn văn ngắn mà đƣợc tác giả sử dụng rải rác trong toàn bộ tác phẩm, tùy thuộc vào văn cảnh cụ thể. Điều này đã gợi nên chức năng biểu lộ cảm xúc của tác giả, đôi khi còn biểu lộ tình cảm của chính các nhân vật trong tác phẩm với nhau hoặc đối tƣợng họ chú ý. Ví dụ trong truyện ngắn “Bố Ô (Tên cũ là Rượu bệnh)”[9,tr.283], Nguyễn Tuân đã sử dụng 33 từ ngữ đồng nghĩa (chƣa kể tần xuất lặp lại) trong hơn bốn trang in để nhà văn khắc sâu những đặc điểm ẩn chìm trong nhân vật, đối tƣợng đƣợc miêu tả (Bố Ô) và ngầm lồng vào trong nhân vật, sự việc.tình cảm, lập trƣờng của mình. Nhờ đó các khách thể đƣợc phản ánh có chiều sâu của tình ngƣời, của cảm xúc. Ông bạn rượu(1)= ông cụ ấy(2)= người có tuổi đó(3) = ông già(4) = lão(5) = một người say(6) = bực lão tửu đồ ấy(7) = ông khách không đứng đắn(8) = ông già đánh thuế rượu một cách kì dị(9) =cụ(10)=cụ tiên(11)= ông khách hàng nghèo và già(12) = ông già quen nếm rượu chằng(13)=Bố Ô(14) = ông lão(15)= thích khách(16) = tên giặc(17) = ông cụ bác nó(18)=ông lão bí mật(19)= chủ nhà(20) = chủ nhân(21)= ông già đại náo trong dinh Ông Lớn đầu tỉnh(22)= ông(23)= người uống rượu ấy(24) =kẻ tật nguyền(250) = ông già liệt cả người (261)=ông già tê liệt(27)= ông già hèn(28)= một vị ân nhân mang tật(29)= xác kia(304)=cỗ xương ấy(31)= đống gio xương ấy (32) =vụn xương vô tự ấy(33). Nếu tạm thời trừu tƣợng hóa nội dung, tạm thời tách khỏi văn cảnh để xét các đơn vị đồng nghĩa trên, ta có thể hình dung sơ lƣợc về đối tƣợng miêu tả nhƣ sau: Bố Ô là một ngƣời đã có tuổi, một khách hàng quen thuộc của những quán rƣợu. Ông đƣợc xem là một bực lão tửu đồ. Nhƣng có những lúc ông bị đánh giá là ngƣời khách không đứng đắn. Có lẽ, vì ông quen uống rƣợu mà không trả tiền nên mọi ngƣời mới gọi ông bằng cái tên ông già đánh thuế rƣợu một cách kì dị. Ông là ngƣời mà không ai biết ông làm gì, ngƣời ở đâu, không thấy có con cái, chỉ có ngƣời cháu (ông cụ bác nó). Ông cũng là ngƣời trƣợng nghĩa, đã từng đại náo trong dinh của Ông lớn đầu tỉnh để bị coi là tên giặc, là thích khách khi thấy những bất công của các thế lực trong xã hội mà mình thì “lực bất tòng tâm” nên ông đã tìm đến rƣợu, trở thành một ngƣời say! Và kết cục, cuộc đời ông, cũng nhƣ cuộc đời bao dân đen lúc đó, đã thành kẻ tật nguyền, một vị ân nhân mang tật và cuộc đời kết thúc bằng cỗ xƣơng cháy xém. Trong đống tro đó, ngƣời ta thấy “vụn xƣơng vô tự”. Nhƣng nếu ta đặt các đơn vị đồng nghĩa trên vào văn cảnh cụ thể, ta sẽ thấy rõ sắc thái biểu cảm trong đó: “Ngƣời ta không rõ ông cụ ấy tên gì và ngƣời ở đâu. Mỗi buổi sớm lúc giời đất còn lờ mờ, ông cụ đã ngồi sẵn ở các cửa ô Hà Nội, không ai rõ người có tuổi đó làm nghề gì”[9,tr.283] Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 19 ông cụ ấy ở đây thể hiện thái độ khách quan của ngƣời trần thuật ở đoạn mở đầu câu chuyện. Về chức năng chỉ danh thì ngƣời trần thuật ở đây và ông cụ ấy không đồng nhất, không ngang hàng nhau. Ở văn cảnh: “Đứa bé lắc đầu, trả lời là ông cụ bác nó giờ hai chân không đi đƣợc, ngƣời không dựng dậy đƣợc, cả ngày chỉ nằm bệt trên võng tre, đã lâu không ăn uống gì, chỉ nói mê, mãi đêm qua mới tỉnh lại và dặn nó đƣa hũ chén ra chờ ở đây để xin rƣợu”[9,tr.289] Trong mối quan hệ với đứa bé thì ông cụ bác nó ở đây là phù hợp. Lúc này tác giả đã thực sự hóa thân vào tác phẩm cùng thế giới nhân vật, sự kiện ở đó chứ không khách quan giống nhƣ ban đầu. Và ở văn cảnh “Hai tay người uống rượu ấy trƣớc kia còn cử động đƣợc để với một cái hũ, nghiêng rót nó ra chén rồi đƣa vào miệng. Nay nó cũng theo cặp chân mà trệ nốt và cứ buông xuôi thế. Sự chết bắt đầu sống trong ngƣời Bố Ô. Ở khắp mình kẻ có tật nguyền kia, những thứ ung thƣ rất kì quái cũng bắt đầu phát ra () Trông đứa cháu bón rƣợu cho ông già tê liệt kia thì không còn ai ở đời này muốn nghiện rƣợu nữa. Thảm quá!”. Dùng bốn từ đồng nghĩa để chỉ “Ông già ấy” dƣờng nhƣ tác giả hàm chứa sự trách cứ và cả sự thƣơng xót đối với nhân vật của mình. Đồng thời đó cũng nhƣ một thông điệp gửi tới độc giả về tác hại của “Rƣợu bệnh”! Tiếp tục đặt những từ ngữ đồng nghĩa này vào từng văn cảnh cụ thể, ta sẽ phân tích đƣợc những sắc thái biểu cảm - phần tin bổ sung, giá trị tuyệt đối của từ. Qua đó, sẽ hiểu rõ hơn về tình cảm, thái độ của nhà văn đối với nhân vật của mình. Tóm lại, trong ngôn ngữ của ngƣời trần thuật, các từ ngữ đồng nghĩa của Nguyễn Tuân xuất hiện với mật độ khá cao. Và điều quan trọng hơn, nhà văn đã sử dụng các từ ngữ đồng nghĩa đó nhằm những mục đích khác nhau. Xét trên phƣơng diện của mối quan hệ giữa diễn ngôn với chủ thể phát ngôn, các từ ngữ đồng nghĩa có tác dụng biểu thị những nội dung bổ sung về lập trƣờng thái độ, cảm xúc và tài hoa của tác giả. KẾT LUẬN 1. Từ ngữ đồng nghĩa và những sáng tạo biến thể đồng nghĩa tu từ là một phƣơng tiện thƣờng gặp trong thơ trữ tình nhƣng trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Tuân đã sử dụng một số lƣợng lớn với tần số khá cao để tạo nên những hiệu quả nghệ thuật riêng, không giống với những nhà viết văn xuôi khác. 2. Nguyễn Tuân sử dụng và sáng tạo từ ngữ đồng nghĩa trong lời kể. Những từ ngữ này (có trong văn chƣơng, điển tích và cả trong lời nói hàng ngày) làm thành một kho tàng ngôn ngữ vừa cổ kính vừa hiện đại. 3. Trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân từ ngữ đồng nghĩa là phƣơng tiện đƣa những thông tin bổ sung về con ngƣời, cảnh vật và sự kiện làm nên cốt truyện của tác phẩm. Đồng thời, chúng cũng là phƣơng tiện để tác giả bày tỏ thái độ, lập trƣờng của mình đối với nhân vật và sự kiện nêu trong tác phẩm, đặc biệt là trong những tình huống khó sử: tỏ thái độ ca ngợi, bênh vực những con ngƣời và việc làm theo lẽ thƣờng thì ngƣời ta lên án, ngƣời ta trừng trị(ví dụ nhân vật đao phủ Bát Lê trong truyện Bữa rượu máu; hay nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù) Nhân vật của Nguyễn Tuân (quan phủ, Cầu, Tú, Huấn Cao) cũng sử dụng ngôn ngữ của ngƣời kể. Dù cố ý hay vô tình giữa ngôn ngữ của ngƣời kể và nhân vật không có sự phân biệt rõ ràng. Điều này chứng minh ý kiến cho rằng “Truyện của Nguyễn Tuân là tùy bút trá hình”(Trƣơng Chính). Ngôn ngữ Nguyễn Tuân gắn với ngôn ngữ tùy bút. Nhƣng đó chính là sự độc đáo có một không hai của Nguyễn Tuân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (15-8-1987), “Cuộc ra đi vĩnh viễn”, Báo Văn nghệ, S33 2. Đỗ Hữu Châu (1974), “Trƣờng từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3. 3. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học tiếng Việt, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội. 4. Nguyễn Thái Hòa (2000), “Suy nghĩ trên chính câu văn của Nguyễn Tuân”, Báo Văn nghệ trẻ, số 8. Lê Thị Hƣơng Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 118(04): 13 - 20 20 5. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà nội. 6. Vƣơng Trí Nhàn (11/07/ 2000), “Sự biến hóa của cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân”, Báo Thể thao và Văn hóa, số 55. 7. Nguyễn Đức Tồn (2006), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 8. Cù Đình Tú (1983),Phong Cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb. Đại học và THCN, Hà Nội. 9. Nguyễn Tuân (2003), Tuyển tập truyên ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. SUMMARY ROLE OF UNITS SYNONYMOUS PERFORMANCE FOR HOLDERS OF THE SPOKESPERSON OF SHORT STORIES NGUYEN TUAN Le Thi Huong Giang * College of Education - NTU Through the survey and categorization of units synonoymous to represent the subjectivity of short stories spokeswoman Nguyen Tuan, the writer has shown the value of using the unit means, the expression of which from the richness and creativity of language unit by Nguyen Tuan - one of the writers of literary excellence Vietnam, a master of language use. Keywords: synonyms, short stories, subjects spokeswoman, Nguyen Tuan Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:15/3/2014; Ngày duyệt đăng: 26/3/2014 Phản biện khoa học: PGS.TS Đào Thị Vân – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN * Tel: 0989 090076, Email: lehuonggiang.dhsptn@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvai_tro_cua_cac_don_vi_dong_nghia_doi_voi_su_the_hien_chu_th.pdf
Tài liệu liên quan