Ứng dụng rạn nhân tạo trong việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản

Với chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km, trên 2.000 loài hải sản, mức đa dạng sinh học cao, có nhiều cửa cửa sông, rừng ngập mặn và bãi đẻ của nhiều loài hải sản - điều kiện tốt cho ngành khai thác thủy sản phát triển. Tuy nhiên, đội tàu khai thác hải sản của nước ta phát triển ngoài tầm kiểm soát đạt gần 130.000 phương tiện, cơ cấu ngành nghề không hợp lý (18,5% tàu lưới kéo, 41,4% tàu lưới rê, 5,7% tàu lưới vây, 17,1% tàu câu và số còn lại là các nghề khác) và tỷ trọng đội tàu khai thác ven bờ chiếm gần 92% nên đã gây áp lực lớn lên nguồn lợi hản sản và đặc biệt ở khu vực ven bờ [4]. Bên cạnh đó, công tác quản lý còn nhiều bất cập nên tình trạng vi phạm các quy định về quản lý khai thác của ngư dân rất phổ biến (100% tàu lưới kéo vi phạm quy định kích thước mắt được phép sử dụng ở đụt lưới) [3]. Chính vì vậy, nguồn lợi thủy sản đã và đang suy giảm rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sinh kế của ngư dân ven biển và chiến lược phát triển ngành thủy sản của nước ta.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 89 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng rạn nhân tạo trong việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 190 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ỨNG DỤNG RẠN NHÂN TẠO TRONG VIỆC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THỦY SẢN THE APPLICATION OF ARTIFICIAL REEFS TO MARINE RESOURCES PROTECTION Nguyễn Trọng Lương1 Ngày nhận bài: 27/10/ 2012; Ngày phản biện thông qua: 07/5/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 TÓM TẮT Công nghệ rạn nhân tạo là một trong những giải pháp kỹ thuật được các nước có biển trên thế giới áp dụng để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, phục vụ phát triển nghề cá theo hướng ổn định và bền vững. Ngày nay, công nghệ này đang được áp dụng rộng rãi trên các Châu lục cả về quy mô và kỹ thuật, mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển nghề cá. Với mục đích chia sẽ thông tin, nâng cao nhận thức và hình thành ý thức về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản của bạn đọc, bài viết đã cung cấp một số thông tin cơ bản về tình hình nghiên cứu, ứng dụng và đánh giá rạn nhân tạo trên thế giới. Từ khóa: Rạn nhân tạo, nguồn lợi thủy sản ABSTRACT Artifi cial reef technology is applied in developed countries to protect and regenerate the marine resources for sustainable fi sheries development. Nowadays, this technology is applying in almost continents and achieved high effect in fi sheries development. In order to share the information and improving aware of fi sheries, aquatic resources protection, the paper provides some information about research, apply and evaluate the artifi cial reef in the world. Keywords: Artifi cial reef, fi sheries resources 1 ThS. Nguyễn Trọng Lương: Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản - Trường Đại học Nha Trang VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI I. MỞ ĐẦU Qua quá trình phát triển, thực tiễn nghề khai thác thủy sản ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã hoàn toàn bác bỏ quan niệm từ lâu cho rằng “nguồn lợi thủy sản là vô tận và đại dương là rất hào phóng” [1]. Khi cường lực khai thác phát triển mạnh và trình độ công nghệ đạt tới mức khá hiện đại thì hầu hết các loài thủy sản trên các đại dương dù sống ở gần bờ hay xa bờ, tầng mặt, tầng giữa hay tầng đáy và thậm chí là sống trong bùn, hang đã và đang bị con người đánh bắt khá triệt để. Hơn nữa, khai thác hải sản quá mức bằng những phương pháp đánh bắt mang tính hủy diệt không những phá vỡ cân bằng sinh thái mà còn hủy hoại nơi cư trú của các loài thủy sản, làm giảm khả năng bổ sung nguồn lợi tự nhiên và hậu quả của nó là giảm trữ lượng cá khai thác. Để hạn chế sự tác động của con người lên nguồn lợi sinh vật biển nói chung và nguồn lợi thủy sản nói riêng, các nước trên thế giới đã áp dụng đồng thời nhiều giải pháp khác nhau. Trong đó, rạn nhân tạo là giải pháp kỹ thuật được các nhà khoa học và quản lý đánh giá rất cao trong việc bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản. Trên thế giới, thuật ngữ rạn nhân tạo (Artifi cial Reef) đã được sử dụng khá phổ biến. Khái niệm này được sử dụng khác nhau theo từng quốc gia, vùng lãnh thổ và mục đích tạo rạn. Trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi, rạn nhân tạo được hiểu là việc xây dựng “ngôi nhà” cho cá bằng những vật thể tự nhiên hoặc do con người tạo ra và thả xuống đáy biển nhằm thay đổi điều kiện vật lý, hải dương, tạo nơi dinh dưỡng cư, tập trung cá và tạo giá thể để Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 191 khôi phục san hô nhằm nâng cao hiệu quả khai thác ở vùng nước xa bờ và hạn chế cường lực khai thác ở vùng nước ven bờ. II. NỘI DUNG 1. Lịch sử phát triển Việc thả rạn nhân tạo trên thế giới được tiến hành từ rất sớm với nhiều mục đích khác nhau. Từ hàng ngàn năm trước, loài người đã biết sử dụng rạn nhân tạo trong việc trị thủy và chống giặc ngoại xâm. Xây dựng rạn nhân tạo nhằm phát triển nguồn lợi thủy sản được bắt đầu từ những năm 1600 tại Nhật Bản. Vào thời gian đó, người Nhật Bản đã xây dựng rạn san hô nhân tạo bằng cao su và đá tảng để trồng tảo bẹ. Người ta nhận thấy rằng, bên cạnh tảo bẹ phát triển thì mật độ cá ở vùng thả rạn tăng lên theo thời gian và đây cũng là nền tảng cho việc phát triện rạn nhân tạo để tập trung, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Việc nghiên cứu, ứng dụng rạn nhân tạo được phát triển mạnh mẽ từ những năm 1970, đến nay đã có gần 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới ứng dụng công nghệ này để bảo vệ, tái tạo, phát triển nguồn lợi thủy sản và hạn chế khai thác thủy sản bất hợp pháp. Đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã tổ chức được 9 lần Hội nghị quốc tế về rạn nhân tạo và môi trường sống của các loại thủy sinh (International Conference on Artifi cial Reefs and Related Aquatic Habitats - viết tắt là CARAH). Tại Hội nghị lần thứ Nhất (1974) tổ chức tại Houston - Texas - Hoa Kỳ chỉ có 35 bài tham luận và đến Hội nghị lần thứ Chín (2011) tại Curitiba - PR - Brazil có tới 160 bài tham luận. Ở Hội nghị quốc tế lần thứ Bảy (1999) các nhà khoa học đã tổng kết: Hiện tại, trên thế giới chưa có một công trình nào tổng hợp hay ghi chép lại đầy đủ lịch sử nghiên cứu và ứng dụng công nghệ rạn nhân tạo trong việc khôi phục môi trường và nguồn lợi thủy sinh. Tại Hội nghị này, có 19 quốc gia với 116 bài tham luận. Trong đó, có 25% số bài báo cáo về nghiên cứu và thử nghiệm rạn nhân tạo; 37% số bài báo cáo về vấn đề sử dụng rạn nhân tạo; 30% báo cáo viết về kế hoạch, chính sách và chương trình sử dụng rạn nhân tạo và số còn lại chỉ thảo luận về mục đích, ý nghĩa của rạn nhân tạo. Tuy nhiên, đến Hội nghị lần thứ Chín đã có nhiều quốc gia báo cáo về chương trình, chính sách và kế hoạch ứng dụng rạn nhân tạo. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã xuất bản các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật xây dựng rạn tạo phù hợp với các vùng biển khác nhau, hướng dẫn lựa chọn vật liệu tạo rạn, cấu trúc rạn, địa điểm lắp đặt,... Ở nước ta, các nhà khoa học chỉ mới nghiên cứu ứng dụng giá thể rạn nhân tạo (bê tông cốt thép và nhựa PVC) để khôi phục rạn san hô tự nhiên mà chưa quan tâm đến việc việc bảo vệ, tái tạo, phát triển nguồn lợi thủy sản và chống đánh bắt bất hợp pháp. Để phát triển nghề khai thác thủy sản theo hướng bền vững, ngoài các biện pháp đã và đang thực hiện như hiện nay, ngành thủy sản cần triển khai nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng công nghệ rạn nhân tạo vào lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là ở vùng biển ven bờ. 2. Ứng dụng công nghệ rạn nhân tạo ở một số nước điển hình 2.1. Ở Nhật Bản Nhật Bản là một trong những cường quốc trên thế giới về công nghệ rạn nhân tạo. Để nâng cao vị thế của nghề cá thương mại, nước này đã nghiên cứu và ứng dụng rạn tạo từ thế kỷ thứ 18. Rạn nhân tạo được xây dựng cho cả vùng ven bờ và vùng biển khơi. Ở vùng biển ven bờ, rạn nhân tạo được sử dụng để phát triển nguồn lợi hải sản nhỏ, cá chưa trưởng thành thông qua cải thiện chất lượng môi trường nước và hạn chế các nghề đánh bắt mang tính hủy diệt cao như nghề te, lưới kéo, lưới vây. Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã đầu tư hàng chục tỷ Yên cho việc nghiên cứu, thiết kế và ứng dụng công nghệ rạn nhân tạo phục vụ phát triển nghề cá. Từ năm 1976 đến 2000, Nhật Bản đã đầu từ 11.860 tỷ Yên để xây dựng và lắp đặt 644 rạn nhân tạo với quy mô khoảng 5 triệu m3, bao phủ trên 12% diện tích đáy biển ở vùng nước ven bờ. Ngoài việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản ven bờ, họ còn tập trung các đàn cá đại dương vào vùng nước ven bờ nhằm nâng cao hiệu quả đánh bắt cho các tàu thuyền nhỏ. 2.2. Ở Thổ Nhĩ Kỳ Theo ghi nhận của Khoa Thủy sản (Trường Đại học Aegean, Thổ Nhĩ Kỳ) chương trình nghiên cứu ứng dụng rạn nhân tạo đầu tiên của nước này được bắt đầu từ năm 1989. Do sự phát triển nhanh chóng của nghề khai thác thủy sản, đặc biệt là nghề lưới kéo đáy đã làm cho các hệ sinh thái biển bị tàn phá nghiêm trọng và nguồn lợi bị giảm sút nhanh chóng nên đã đe dọa đến sự phát triển bền vững của nghề cá nước này. Chính vì thế, Chính phủ nước này đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp kỹ thuật nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của nghề khai thác thủy sản. Với chương trình phát triển nghề cá ven bờ, cải thiện chất lượng môi trường sống cho các loài thủy sinh, ngăn cản nghề lưới kéo Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 192 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG hoạt động bất hợp pháp, bảo vệ bãi đẻ của cá, phát triển du lịch lặn biển và bảo vệ nghề khai thác quy mô nhỏ ven bờ họ đã xây dựng 08 vùng rạn nhân tạo với diện tích khoảng 1.500m3. Sau 8 năm thực hiện, kết quả đạt được là thành phần loài cá ở vùng rạn nhân tạo tăng lên khoảng trên 40%, môi trường sống được cải thiện và sinh kế của ngư dân nghèo ven biển được ổn định [5]. 2.3. Ở Anh Quốc gia này đã xây dựng rạn nhân tạo từ năm 1984, đến nay đã lắp đặt khoảng 35.000 đơn vị rạn, chia thành 6 vùng rạn ở vùng biển ven bờ. Mục tiêu của dự án xây dựng rạn nhân tạo tập trung vào 5 lĩnh vực chính: (1) Tạo điều kiện để phát triển du lịch lặn biển; (2) Khôi phục lại môi trường sống của các loài thủy sản; (3) Phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng ngư dân ven biển; (4) Giảm xung đột các hoạt động liên quan đến biển và (5) phát triển nguồn lợi thủy sản cho nghề cá thương mại. Việc xây dựng rạn nhân tạo không những làm tăng đáng kể nguồn lợi cá Tuyết, tôm Hùm, cá Hồng, cá Mú và các loài nhuyễn thể ở Vịnh Poole, Torness và Loch Linne mà còn tái sử dụng và giải tỏa sức ép các loại phế liệu trên bờ như lốp xe cũ, xỉ than từ nhà máy nhiệt điện. Đối với quốc gia này, các chương trình, dự án xây dựng rạn nhân tạo phục vụ nghề cá chủ yếu được tài trợ bởi các tổ chức phi chính phủ, chính quyền địa phương ven biển và ngư dân. Hình 1. Cấu trúc rạn nhân tạo ở Anh 2.4. Ở Mỹ Quốc gia này có nhiều chương trình xây dựng rạn nhân tạo, thiết lập trên nhiều vùng biển ở các Bang. Mục đích của họ là thu hút cá nhằm phát triển nghề cá giải trí, nghề cá thương mại, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, các chương trình này cũng nhằm mục đích xử lý chất thải trên đất liền. Chính vì thế, vật liệu sử dụng để làm rạn nhân tạo là các dạng rác thải lớn như bê tông, đá, gạch xây dựng, lốp xe, các loại ô tô, ca bin tàu lửa, các loại tàu biển. Các khu rạn nhận tạo đầu tiên được xây dựng ở Nam Carolina vào những năm 1980 bằng việc sử dụng các ngôi nhà cũ nát trên bờ. Vào thời điểm đó, có trên 80% các bãi rạn nhân tạo ở Mỹ sử dụng các vật liệu cũ. Hầu hết các bãi rạn này được xây dựng bởi các nhà từ thiện quan tâm đến sự phát triển của nghề cá nước nhà. Chính vì thế, các bãi rạn được xây dựng và bảo vệ rất thành công trên cơ sở quản lý dựa vào cộng đồng. Cụ thể, các điểm du lịch câu cá giải trí và lặn biển đã thu hút hơn 65% lượng khách so với các năm trước khi xây dựng rạn, lợi nhuận của nghề cá ven bờ tăng từ 5% lên 40% và nghề cá thương mại tăng từ 10% lên 15%. Đến những năm 1970, các nhà khoa học ở Mỹ bắt đầu thiết kế và thử nghiệm các loại rạn với các loại vật liệu khác nhau nhằm tạo nơi sinh cư tốt nhất cho các loài sinh vật biển. Kết quả cho thấy, các bãi rạn được chế tạo bằng bê tông cho hiệu quả cao nhất. Cụ thể, độ ổn định và tuổi thọ cao, không ảnh hưởng xấu đến môi trường, tạo môi trường cho thực vật, sinh vật bám trú và phát triển [1]. Hình 2. Sử dụng vật liệu cũ tạo rạn nhân tạo ở Florida (1: xác máy bay, 2: xác xe bọc thép) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 193 2.5. Ở Ấn Độ Vào những năm 60 của thế kỷ XX, với sự phát triển không có kiểm soát của nghề lưới kéo đáy đã làm cho năng suất đánh bắt ở các ngư trường sụt giảm nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến các cộng đồng ngư dân sống phụ thuộc vào nghề đánh bắt thủy sản. Để trả lại môi trường sống cho các loài hải sản, Chính phủ, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ đã lên kế hoạch, đầu tư phát triển hệ thống rạn nhân tạo dọc theo bờ biển ở Trivandrum. Sau 4 năm hoạt động, các nhà khoa học đã kết luận rằng: Tại những khu vực thả rạn nhân tạo có mức đa dạng sinh học cao hơn 90,8% so với các vùng lân cận không có rạn; năng suất đánh bắt cao hơn 70% đối với các loài cá, 60% cho động vật thân mềm, 87% cho các loại động vật không xương sống [9, 11]. Ở bờ biển Karaikal, Chính phủ đã có chương trình xây dựng rạn nhân tạo nhằm phát triển nguồn lợi thủy sản và tạo sinh kế cho cộng đồng ngư dân ven biển. Thông qua dự án này, môi trường sống của các loài sinh vật biển được phục hồi, tạo mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn của cá. Chính vì thế, mật độ cá tập trung dày hơn, phục vụ đánh bắt tốt hơn, giảm chi phí nhiên liệu nhiều hơn. Dự án cũng đã hỗ trợ cho 500 hộ ngư dân sống ở 4 làng cá trong khu vực vay vốn và chuyển đổi nghề nghiệp. Sau 2 năm thực hiện dự án, sản lượng cá đánh bắt tăng lên 30 lần [10]. 2.6. Ở Malaysia Khu rạn nhân tạo đầu tiên được xây dựng ở Sabah vào năm 1975 nhằm tăng năng suất sinh học, tập trung nguồn lợi thủy sản để phục vụ nghề cá giải trí và ngăn chặn nghề khai thác hải sản bằng lưới kéo. Tổng diện tích rạn san hô nhân tạo mà quốc gia xây dựng cho đến nay ước tính khoảng 30 km2 được chia thành 8 vùng rạn, độ sâu lắp đặt từ 5-30 mét. Vật liệu sử dụng để làm rạn nhân tạo bao gồm tàu thuyền cũ, lốp xe, máy móc hỏng, đá tảng, kim loại và sau này là bê tông cốt thép. Với chương trình xây dựng rạn nhân tạo này đã giúp cho khoảng 300 hộ ngư dân xung quanh khai thác có hiệu quả cao. Bên cạnh, đó ngành du lịch và dịch vụ cũng đạt được nhiều kết quả. Chính vì thế, họ đang tiếp tục thực hiện nhiều dự án tương tự để phục vụ phát triển kinh tế thủy sản và du lịch, giảm mức chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và vùng sâu, vùng xa [12]. 2.7. Ở Philippin Philippine là một quốc gia đầu tư khá mạnh vào việc xây dựng rạn nhân tạo, khởi đầu là dự án ở Dumaguete vào năm 1977. Đến nay, quốc đảo này đã xây dựng và lắp đặt được gần 100.000 đơn vị rạn, chia thành 11 vùng và đạt diện tích khoảng 40.000 km2. Sau khi dự án kết thúc, người ta đã đánh giá và có kết luận rất khả quan về việc sử dụng rạn nhân tạo trong phát triển nghề cá, du lịch và kinh tế xã hội của vùng ven biển. Cụ thể là lợi ích từ nghề cá thương mại tăng lên 30%, từ nghề cá giải trí tăng lên 31,5%. Qua 9 lần theo dõi (khoảng 25% diện tích) vùng rạn nhân tạo, kết quả đạt được là sản lượng đánh bắt ở rạn nhân tạo cao hơn 150 lần so với sản lượng ở các vùng rạn tự nhiên. Bên cạnh đó, sức sản xuất sinh học cũng được phục hồi đáng kể, chất lượng môi trường sống cho các loại sinh vật biển được cải thiện và đó là giá trị rất to lớn nhất mà dự án mang lại. Hình 3. Cấu trúc rạn nhân tạo ở Philippin 2.8. Ở Đài Loan Từ năm 1951 với chương trình cắt giảm số lượng tàu thuyền đánh cá để giảm cường lực khai thác, bảo vệ, khôi phục nguồn lợi hải sản và phát triển đa dạng sinh học của chính phủ. Số lượng tàu thuyền dư thừa đã được chính phủ mua lại gần 1.000 chiếc, số tàu này khi cắt giảm được đánh đắm tạo thành các bãi rạn nhân tạo cung cấp môi trường sống của các loài hải sản [2]. Năm 1974, Đài Loan tiến hành xây dựng các khu rận nhân tạo tại miền Bắc. Sau 1 năm thiết lập, kết quả thu được là rất khả quan, có 24 loài thủy sản đến sinh sản so với trước khi thả rạn. Năm 1990, các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu và xây dựng khu rạn nhân tạo ở miền Nam Đài Loan. Sau 1 năm khi thành lập, người ta đã ghi nhận là sản lượng đánh bắt tăng 1,6 - 2,7 lần so với trước khi xây dựng, năng suất đánh bắt của 1 tấm lưới rê trong bán kính 50m so với vùng rạn đạt 1,24 - 3,56 kg và ngoài bán kính đó chỉ đạt 0,45 - 0,95kg. Ở Hsinkang Pier, sau 6 tháng lắp đặt, họ đã khai thác được 20 tấn hải sản các loại, sản lượng trung bình trước khi làm rạn chỉ đạt 180 kg/tàu/ngày, nhưng sau đó đã tăng lên 400 kg/tàu/ngày. Bên cạnh sản lượng khai thác tăng lên, chi phí nhiên liệu còn được giảm xuống khoảng 15% so với trước khi xây dựng rạn. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 194 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Hình 4. Sử dụng lốp xe kết hợp bê tông làm rạn nhân tạo (1: Đài Loan, 2: Hồng Kông) 3. Vật liệu và cấu trúc rạn nhân tạo Các nhà khoa học đã tổng kết có 02 nhóm vật liệu chính được sử dụng để xây dựng rạn nhân tạo, tùy thuộc vào mục đích tạo rạn và vùng biển lắp đặt. Đối với nhóm vật liệu tự nhiên, bao gồm: Tre cây, cành cây, lá dừa, đá rạn, đá tảng, dây thừng, gỗ,... Được lắp đặt ở đại dương và vùng cửa sông phục vụ cho nghề cá thủ công, nghề cá thương mại và một số ít là nghề cá giải trí. Đối với nhóm vật liệu nhân tạo, bao gồm: Bê tông, cao su, nhựa PVC, thép, bồn chứa nhiên liệu, tàu thuyền cũ và các khối bê tông cốt thép được chế tạo chuyên biệt lắp ở đại dương và biển khơi phục vụ cho nghề cá thương mại, khôi phục môi trường sống và tập trung các đàn cá đại dương phục vụ khai thác. Cũng giống như các lĩnh vực khác, mô hình và cấu trúc rạn nhân tạo trên thế giới cũng được phát triển theo lộ trình phát triển của khoa học công nghệ. Vào thời kỳ đầu, hầu hết các loại rạn trên thế giới được chế tạo đơn giản hoặc chỉ đơn thuần là vật thể cũ (đồ dùng gia đình, cấu kiện bê tông từ nhà, cầu đường), đá tảng hay một số kết cấu bằng tre, gỗ, lốp xe, tàu thuyền cũ... [7, 8]. Tuy nhiên, các cấu kiện rạn nhân tạo tự nhiên và tái sử dụng ít hấp dẫn các loài sinh vật biển. Hơn nữa, một số vật liệu cũ sử dụng làm rạn nhân tạo có tác động không tốt đến môi trường nước và nguồn lợi sinh vật như lốp xe, xác máy và cấu kiện khác sắt [10]. Như vậy, trong quá trình xây dựng rạn nhân tạo phát triển nghề cá cần chú ý đến loại vật liệu nhằm đảm bảo độ bền cao, không gây tác động môi trường và nguồn lợi thủy sản. Cùng với lịch sử ra đời rạn nhân tạo, Nhật Bản là quốc gia khởi đầu cho việc nghiên cứu, thiết kế và thử nghiệm các cấu trúc rạn hiện đại phục vụ phát triển nghề cá. Đây là cơ sở làm nền tảng cho các nước và các nhà khoa học trên thế giới tiếp tục triển khai các nghiên cứu, ứng dụng vào từng khu vực với mục tiêu và cấu trúc rạn khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã kết luận rằng sử dụng rạn nhân tạo bằng bê tông đạt kết quả cao nhất, đó là: (1) Không tác động tiêu cực lên môi trường sống; (2) Độ bền lớn, dễ chế tạo và lắp đặt; (3) Kiến tạo được nhiều dạng hình thể, kích thước và khối lượng theo mong muốn và (4) có khả năng thu hút các các loài thủy sinh cao. Tuy nhiên, xây dựng rạn nhân tạo bằng bê tông cũng khá tốn kém và tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia, vùng miền mà lựa chọn phương án cho phù hợp [6]. Hình 5. Cấu trúc và kích thước một số rạn nhân tạo trên thế giới (1, 2: Pháp; 3, 4: Nhật Bản và 5: Hồng Kông) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 195 Cho đến nay, trên thế giới có rất nhiều loại cấu trúc rạn nhân tạo khác nhau và chưa có công trình nào khẳng định cấu trúc nào tối ưu nhất cho việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Các nhà khoa học cũng đã chứng mình rằng đối với các loại rạn có kết cấu phức tạp và đồ sộ có khả năng thu hút được nhiều loài sinh vật biển đến sinh sống. Ngược lại, các loại rạn có kết cấu đơn điệu, độ che phủ nhỏ sẽ ít hấp dẫn các loài thủy sinh. Bên cạnh đó, việc lắp đặt rạn nhân tao cũng ảnh hướng đến mật độ và số loài thủy sinh đến trú ngụ. Nếu lắp đặt rạn nhân tạo thành từng cụm, sẽ thu hút nhiều loài thủy sinh với mật độ cao hơn so với lắp đặt riêng lẻ. Vì vậy, khi xây dựng rạn nhân tạo để tăng cường, bảo vệ và phát triển nguồn lợi nên xây dựng quy mô đủ lớn, lắp đặt thành từng cụm để tăng độ che phủ lớn. 4. Khả năng ứng ụng ở Việt Nam Với chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km, trên 2.000 loài hải sản, mức đa dạng sinh học cao, có nhiều cửa cửa sông, rừng ngập mặn và bãi đẻ của nhiều loài hải sản - điều kiện tốt cho ngành khai thác thủy sản phát triển. Tuy nhiên, đội tàu khai thác hải sản của nước ta phát triển ngoài tầm kiểm soát đạt gần 130.000 phương tiện, cơ cấu ngành nghề không hợp lý (18,5% tàu lưới kéo, 41,4% tàu lưới rê, 5,7% tàu lưới vây, 17,1% tàu câu và số còn lại là các nghề khác) và tỷ trọng đội tàu khai thác ven bờ chiếm gần 92% nên đã gây áp lực lớn lên nguồn lợi hản sản và đặc biệt ở khu vực ven bờ [4]. Bên cạnh đó, công tác quản lý còn nhiều bất cập nên tình trạng vi phạm các quy định về quản lý khai thác của ngư dân rất phổ biến (100% tàu lưới kéo vi phạm quy định kích thước mắt được phép sử dụng ở đụt lưới) [3]. Chính vì vậy, nguồn lợi thủy sản đã và đang suy giảm rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sinh kế của ngư dân ven biển và chiến lược phát triển ngành thủy sản của nước ta. Để bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản phục vụ phát triển nghề cá theo hướng bền vững, ngoài các biện pháp đã thực hiện như hiện nay cần triển khai nghiên cứu và xây dựng các bãi rạn nhân tạo tại vùng biển ven bờ là rất cần thiết. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 2001. Một số vấn đề về sử dụng và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản. 2. Nguyễn Quang Hùng, 2004. Vai trò của rạn nhân tạo trong việc khôi phục và bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản. Proceeding of the 2nd Regional Workshop on Enhancing Coastal Resources. Training Department, SEAFDEC/TD, Thailand. Trang 4-8. 3. Nguyễn Trọng Lương, 2013. Báo cáo chuyên đề Thực trạng bảo quản sản phẩm trên tàu lưới kéo xa bờ tại Việt Nam. 4. Viện Kinh tế Quy hoạch Thủy sản, 2012. Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Tiếng Anh 5. Altan Lo and Adnan Tokac, 2002. Artificial reefs in Turkey. ICES Journal of Marine Science, 59: S192–S195. 6. Alevizon, W. S., and Gorham, J. C., 1989. Effects of artificial reef deployment on nearby resident fishes. 7. Artifi cial Reef Subcommittees, 2004. Guidelines for marine artifi cial reef materials. 8. Clark. S, A.J. Edwards, 1999. An evaluation of artifi cial reef structures as tools for marine habitat rehabilitation in the Maldives. 9. Collins, K., Jensen. A., Robert, P & Rajan. J.B., 1995. Artisanal artifi cial reefs in Kerala, India. 10. Collins. K. J. Collins, et al, 2002. Environmental impact assessment of a scrap tyre artificial reef. 11. Devaraj. M., 1996. Artifi cial reef for artisanal fi sheries enhancement an attempt off trivandrum coast. 12. Edward Wong Fa1 Hung, 1989. Artifi cial reef development and management in Malaysia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfung_dung_ran_nhan_tao_trong_viec_bao_ve_va_phat_trien_nguon.pdf
Tài liệu liên quan