Trong mắt truyền thông và các nhà QuẢn lÝ acb
Trên bước đường phát triển thành công chân chính của một
doanh nghiệp thường được sự ủng hộ từ các phương tiện
truyền thông đại chúng. Một mặt, các cơ quan truyền thông
là kênh chuyển tải các thông điệp và hình ảnh doanh nghiệp
muốn truyền đạt đến thị trường và khách hàng của mình.
Mặt khác, báo chí cũng đóng vai trò cầu nối gắn kết doanh
nghiệp với cộng đồng, giúp doanh nghiệp vừa đạt được mục
tiêu kinh doanh, vừa hoàn thành trách nhiệm của mình với
xã hội.
ACB là một ví dụ cho thấy sự hỗ trợ của các phương tiện truyền
thông đối với các hoạt động của ngân hàng thể hiện bởi một
tập thể gắn kết cũng như các cá nhân nổi bật.
Trong 15 năm hoạt động, đã có hàng trăm bài báo phản ánh sự
thành công của ACB. Xin giới thiệu một số bài báo tiêu biểu.
93
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trong mắt truyền thông và các nhà quản lý ACB, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch này.
TBKTSG: Thưa ông, ACB bắt đầu có ý
định gọi vốn của ngân hàng nước ngoài
từ bao giờ? Và hiện nay có phải là thời
điểm tốt để bán cổ phần?
- Ông NGuyễN ĐứC KiêN: Các ngân
hàng đều ý thức rõ hội nhập quốc tế đang rất
gần và đều phải xây dựng một chiến lược riêng
cho sự hội nhập đó, dựa trên mục tiêu, tiềm lực
tài chính, khả năng cạnh tranh. Từ nhiều năm
trước chúng tôi đã xác định chọn nhà đầu tư
nước ngoài để họ hỗ trợ trong cuộc cạnh tranh
sắp tới khi lĩnh vực tài chính mở cửa. Nói ngắn
gọn là ACB không tự làm hết mọi việc để cạnh
tranh, nhưng cũng không bán toàn bộ ngân
hàng, mà bán một phần.
Khi đã quyết định nhà đầu tư nước
ngoài. ACB làm thế nào để “bày tỏ” ý
định với các đối tác để họ lắng nghe và
thành thật với mình.
- Việc đầu tiên là quảng bá ý định vào một
thời điểm thích hợp. Năm nay, theo tôi, là thời
điểm tốt để bán cổ phần cho nước ngoài, có thể
nói là thời điểm tốt nhất từ trước đến nay do
mối quan tâm đến Việt Nam ngày càng lớn của
giới đầu tư - tài chính. Sau khi quảng bá, chúng
tôi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào khảo
sát tình hình ở ngân hàng. Khoảng 10 quỹ đầu
tư, ngân hàng nước ngoài đã tham gia khảo sát.
Chẳng hạn, Citibank đã cử một đoàn 50 chuyên
gia đến đánh giá ACB. Điều đáng nói là nhận
định của các quỹ, các ngân hàng nước ngoài về
ACB tương đối giống nhau và họ đưa giá chào
mua từ 5 triệu đồng/cổ phần trở lên.
Năm triệu đồng/cổ phần có phải là
mức giá các ông trông đợi?
- Giá là một yếu tố trong tiêu chí chấm điểm
chọn đối tác của chúng tôi, nhưng không phải
là yếu tố quyết định. Trên thang điểm 10, giá
chỉ có 1 điểm, 1 điểm nữa dành cho tiêu chí
vị thế toàn cầu, uy tín tại châu Á của đối tác,
8 điểm được dành cho yếu tố hỗ trợ kỹ thuật.
Chúng tôi thảo luận rất kỹ về cách hợp đồng hỗ
trợ kỹ thuật với từng người mua để có thể hiểu
họ mong muốn, kỳ vọng gì ở ACB. Hỗ trợ kỹ
thuật có nhiều mức độ, từ quản trị rủi ro, thiết
kế các sản phẩm bán lẻ đến đào tạo, kể cả đào
tạo trong trường lớp, trong công việc thực tế, cử
người sang làm việc cùng. Chúng tôi coi hỗ trợ
kỹ thuật của đối tác như một khoản đầu tư lâu
dài của họ.
Trong khi tổ chức đánh giá sơ bộ từng đối tác
dựa trên đề xuất của họ, chúng tôi chú ý đến văn
hóa kinh doanh. Nhà đầu tư được chọn cần có
văn hóa kinh doanh không quá khác biệt với văn
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
95
hóa kinh doanh ở Việt Nam, ở ACB. Văn hóa
kinh doanh giữa hai bên không giống nhau có
thể dẫn đến những xung đột kinh doanh sau này.
Thí dụ, ACB vẫn được xem là ngân hàng bảo thủ
trong tín dụng. Mọi quyết định tài trợ tín dụng
đều mang tính tập thể. “Văn hóa” tín dụng ACB
do đó, có tính bảo thủ. Một đối tác có “văn hóa”
tín dụng cấp tiến sẽ không thích hợp cho ACB.
Làm sao ACB có thể kiểm tra được sự
khác biệt, nếu có, giữa các cam kết của
người mua và tiềm lực tài chính thực tế
của họ? Việc chọn đối tác dựa trên đề
xuất của họ, tiêu chí của mình liệu có
thật sự hiệu quả?
- Trước khi quyết định chính thức chọn ai,
chúng tôi đi khảo sát từng đối tác ở nước ngoài
xem họ hoạt động như thế nào, thậm chí nghiên
cứu những cam kết mà họ đã từng làm khi mua
cổ phần của những ngân hàng ở Đông Nam Á.
Thực tế có sức thuyết phục lớn, giúp chúng tôi
đánh giá các cam kết một cách chính xác hơn.
So với các ngân hàng, các quỹ đầu tư chấp thuận
yêu cầu của ACB nhanh, cam kết hỗ trợ mạnh,
nhưng về kinh nghiệm kinh doanh tiền tệ, họ
không thể bằng các ngân hàng.
Sau cuộc thương thảo ở London cuối
tháng 4-2005, ACB đã chọn Standard
Chartered Bank. Ông đã có mặt trong
cuộc đàm phán kết thúc đó. Điều gì tác
động đến sự chọn lựa của ACB, thưa ông?
- Cam kết hỗ trợ kỹ thuật toàn diện, định
hướng vào doanh nghiệp nhỏ và vừa tại thị
trường Việt Nam và ưu thế bán lẻ của Standard
Chartered Bank. Ngân hàng này đặc biệt mạnh
về bán lẻ ở châu Á, họ hiểu châu Á, hiểu văn hóa
kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam. Tới đây, với
sự hỗ trợ của Standard Chartered Bank, ACB
sẽ phát triển kênh bán lẻ qua mạng và tung ra
những sản phẩm bán lẻ mới liên quan đến cho
vay tiêu dùng cá nhân, hộ gia đình, mua bán
nhà đất. Trong tài trợ mua bán nhà, chúng tôi
sẽ cho vay kỳ hạn dài, lãi suất cố định (hiện nay
cho vay dài hạn các ngân hàng đều áp dụng lãi
suất thả nổi - NV) và tham gia chứng khoán hóa
các dự án bất động sản (phát hành cổ phiếu các
dự án kinh doanh nhà đất). Thay bằng đầu tư
vào nhà, đất, người dân có thể đầu tư mua bán
cổ phiếu của các dự án đó.
Standard Chartered Bank có phải
là ngân hàng trả giá mua cổ phần cao
nhất không?
- Không. Một số quỹ đầu tư, ngân hàng chào
giá mua cao hơn mức giá 6,2 triệu đồng/cổ
phần của Standard Chartered Bank. Standard
Chartered Bank mua 56.000 cổ phần với giá
348 tỷ đồng. Số tiền này chúng tôi sẽ dành để
tăng vốn điều lệ từ 600 tỷ đồng hiện nay lên
950 tỷ đồng vào quí 3. Cổ đông ACB sẽ được
thêm cổ phiếu mà không phải đóng tiền, kể cả
Standard Chartered Bank.
Tác giả: Hải Lý
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 30-6-2005)
96
Cái bắt tay trị giá hơn 22 triệu uSD
giữa ACB và Standard Chartered
Bank sẽ đem lại những gì cho ACB
thưa ông?
- Ông Lý XuâN hải: trước hết là đem
lại cho ACB một nhà đầu tư chiến lược với một
chương trình hỗ trợ kỹ thuật đồ sộ, đã được thảo
luận kỹ càng và dự kiến sẽ kéo dài trong 5 năm
nhằm tiếp nhận các kiến thức và công nghệ mới.
Đặc biệt trong lĩnh vực NH bán lẻ, bao gồm xây
dựng chiến lược, quản lý rủi ro, xây dựng và phát
triển sản phẩm, kênh phân phối, ứng dụng công
nghệ thông tin, xây dựng thương hiệu và đào tạo
nhân sự. Nhiệm vụ của ACB là làm sao tiếp nhận,
xử lý và áp dụng kiến thức, công nghệ hiện đại đổ
vào thị trường VN một cách sáng tạo, đúng lúc, phù
hợp với văn hóa của khách hàng và thị trường VN
đã thu được hiệu quả lớn nhất.
Bằng cách này hay cách khác, các NH
nước ngoài đang dần thâm nhập vào thị
trường VN. Ông suy nghĩ gì về điều này?
- Các NH đánh giá VN là thị trường tiềm năng
mà các NH còn chưa khai thác hết, hệ thống các
sản phẩm, dịch vụ còn nghèo. Có hai cách mà các
NH nước ngoài thâm nhập vào thị trường VN.
Một là trực tiếp mở Chi nhánh hoặc NH 100%
vốn để tự khai thác thị trường. Hai là thông qua
các liên minh
chiến lược bằng cách
tham gia mua cổ phần của các
NH trong nước.
Với cách thứ nhất, theo tôi, các NH nước ngoài
phải mất từ 5 năm trở lên để hiểu được thị trường
trong nước cho việc mở rộng hoạt động. Cách thứ
hai là sự kết hợp công nghệ và kiến thức hiện đại
của NH nước ngoài với sự hiểu biết thị trường,
mạng lưới và nguồn nhân lực của NH trong nước
Biến thách thức thành cơ hội
Nhân buổi lễ ký kết hợp đồng hỗ trợ kỹ thuật phát hành thêm 8,56% cổ phiếu
cho Ngân hàng (NH) Standard Chartered Bank (Vương quốc Anh), cũng là lúc
ACB ra mắt vị Tổng giám đốc mới, ông Lý XuâN Hải.
Trao đổi với Nhịp Cầu về những thách thức và cơ hội của ngành NH nói
chung và ACB nói riêng trong quá trình hội nhập, vị Tổng giám đốc trẻ này đã
chia sẻ nhiều điều.
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
97
để cùng nhau khai thác thị trường và đôi bên đều
có lợi, như ACB - SCB và Sacombank - ANZ đã
làm. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng đối
đầu mà nên tận dụng thế mạnh và hợp lực cùng
nhau để phát triển, nhất là tại các thị trường mới
như VN. Điều này đặc biệt đúng trong quan hệ
giữa các NH thương mại trong nước với nhau.
Vậy, ACB sẽ đón nhận luồng gió mới
trên thị trường tài chính như thế nào?
- Nhận thức rõ tính biến động và sự phát triển
của thị trường đang diễn ra với tốc độ chóng
mặt, ACB đã liên tục cải tiến và thay đổi trong
việc áp dụng các kiến thức và công nghệ NH
mới. Chính vì vậy, “Quản lý sự thay đổi” là một
trong các khóa học đầu tiên được tổ chức cho các
thành viên Hội đồng quản trị và Ban điều hành
của ACB. Một sản phẩm dịch vụ mới ra đời sẽ
“sống” trong khoảng thời gian nhất định, sau đó,
thị trường đòi hỏi nó thay đổi để thích nghi hơn.
Một trong những lý do chính là bởi nhu cầu của
khách hàng ngày càng phong phú, đa dạng và
phức tạp hơn.
Trong quá trình hội nhập, ACB sẽ đối mặt với
nhiều thách thức. Nhiệm vụ của chúng tôi là
biến các thách thức này thành cơ hội để nhanh
chóng chiếm lĩnh thị trường mục tiêu.
Để giữ vững vị thế một NH bán lẻ hàng
đầu tại VN, ACB có dự định gì trong thời
gian tới?
- Từ đầu ACB xác định khách hàng mục tiêu
của mình là các cá nhân, doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Định hướng này là trọng tâm cho mọi hoạt
động NH mà quay xung quanh trên cái “nền” của
“văn hóa kinh doanh ACB” bao gồm: Sự ổn định,
đoàn kết nội bộ và tính chuyện nghiệp; hệ thống
quản trị và điều hành được phân định một cách
rạch ròi, minh bạch và hiệu quả. Chiến lược kinh
doanh rõ nét; liên tục đổi mới công nghệ, nâng
cao yếu tố nhân bản trong kinh doanh như đầu
tư cho nguồn nhân lực của NH và có trách nhiệm
với cộng đồng, xây dựng và phát triển dài hạn.
ACB đã lập kế hoạch tài chính 2005-2010 với
những chỉ tiêu cụ thể về vốn, nhân sự, quy mô tài
sản, chiến lược sản phẩm và kế hoạch mở rộng
kênh phân phối. Với chương trình hỗ trợ kỹ thuật
toàn diện và liên tục mà ACB đã ký với Standard
Chartered Bank, chúng tôi tin tưởng ACB sẽ giữ
vững vị thế số 1 của mình trong hệ thống các NH
bán lẻ tại VN.
MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT CỦA ACB
l Một trong những nH đầu tiên phát hành thẻ tín dụng quốc tế.
l Một trong hai nH đầu tiên có mạng quản trị trực tuyến (TCBS) và thực hiện cơ chế một cửa.
l nH đầu tiên tách bạch vai trò thẩm định và xét duyệt cho vay thông qua ban tín dụng và hội đồng
tín dụng.
l nH đầu tiên có hội đồng quản trị tài sản nợ-có (ALCo) quản lý rủi ro thị trường và kinh doanh ngân
quỹ tập trung.
l nH đầu tiên có cơ cấu tổ chức theo định hướng khách hàng.
l nH đầu tiên có kênh phân phối và cung cấp thông tin qua mạng internet, điện thoại di động, điện
thoại bàn và đặc biệt là dịch vụ tổng đài CallCenter247 (có thể giúp khách hàng ngồi tại nhà giao
dịch thuận tiện và an toàn).
l Hiện nay, ACB có trên 600 sản phẩm dịch vụ từ đơn giản đến phức tạp để phục vụ khách hàng
mục tiêu.
Tác giả: Tuyết Hà
(Nguồn: nhịp Cầu, 2-8-2005)
98
“Vị trí của tôi,
người khác có thể làm tốt”
Chưa một ngày học nghiệp vụ chính quy về nghiệp vụ ngân hàng, nhưng Lý
XuâN Hải (ảnh) đã “ẵm” danh hiệu “The Best Leader 2006 for VietNam”
do tổ chức The Asian Banker trao tặng. Anh cũng là người Việt Nam duy nhất
được xếp trong tốp 15 người lãnh đạo xuất sắc nhất của ngành tài chính - ngân
hàng khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
t
heo cái cách nói của vị tổng giám đốc
còn rất trẻ này thì: “Tôi chẳng có gì để
viết cả. Tôi sinh ra, lớn lên, toàn gặp
chuyện may mắn, được học hành đàng
hoàng, rồi về nước, rồi làm việc. Tất cả đều suôn
sẻ”. Nhưng kỳ thực “cái không có gì để viết” của
“ông sếp” Ngân hàng Á Châu này lại toàn chuyện
thú vị: chuyện Đông, chuyện Tây, chuyện cổ
phiếu, chuyện nợ xấu, chuyện gia nhập WTO….
Về nước từ những năm 1990, với tấm bằng PTS
vật lý lý thuyết, anh cũng bắt đầu bằng những
ngày “lang thang tìm việc”. Công việc phù hợp với
chuyên môn của anh thời ấy chỉ có thể là các viên
nghiên cứu, hoặc các trường đại học mà như lời
bạn của anh thì cái việc nghiên cứu đó nôm na
là “thỉnh thoảng cũng được đi nước ngoài, mỗi
chuyến đi nếu “tằn tiện” cũng kiếm được vài ngàn
đô, đủ sống trong một năm”. Nhưng ngày ấy, anh
nhận ra, nếu làm khoa học trong điều kiện “không
tài liệu, không phương tiện, không kinh phí” hoặc
kiếm tiền theo cách bạn anh nói thì chẳng thể gọi
là làm khoa học. Làm khoa học thì phải ra làm
khoa học, còn đã kiếm tiền thì ra kiếm tiền, không
thể nhầm lẫn 2 việc này được…
Có lẽ là anh may mắn, đúng như lời anh nói khi
không chọn “con đường khoa học”. Thời điểm
những năm 1990 của thế kỷ XX là giai đoạn bắt
đầu có những chuyển đổi trong hoạt động ngân
hàng từ bao cấp sang thương mại. Đây chính là
cơ hội cho những người “tay ngang” vì phần lớn
những người có chuyên môn về ngân hàng còn
quá ít và chủ yếu hoạt động trong ngân hàng nhà
nước. Nhanh chóng nắm lấy cơ hội, anh ngày
đêm tự học nghiệp vụ ngân hàng bằng cách ôm
sách đọc, nghiên cứu và bổ sung kiến thức bằng
các khóa học ngắn hạn và cũng bởi tin lời bạn
anh rằng “làm ngân hàng dễ hơn làm vật lý”.
Không biết là đùa hay thật nhưng anh bảo
rằng: Bây giờ đưa cho mình tờ tiền, bảo mình
phân biệt tiền thật, tiền giả thì chịu, nhưng làm
công tác quản lý thì cũng là làm việc với những
con số, điều này “gần” với chuyên môn hơn vì
ngày trước mình là dân chuyên toán, lý…”.
Lãnh đạo một hệ thống ngân hàng 80 Chi
nhánh, hơn 3.000 nhân viên với tổng tài sản
3,3 tỉ USD, nhưng khi nói về công việc của mình
Lý Xuân Hải cho rằng “vai trò cá nhân là không
đáng kể”. Anh cho rằng xây dựng ACB thành một
bộ máy hoàn chỉnh luôn có những “phụ tùng”
thay thế, vì vậy nếu người khác ngồi vào vị trí
hiện tại của anh đều có thể làm tốt.
Cái cách anh lạc quan về những vấn đề mà lâu
nay nhiều người vẫn cho là “nhạy cảm” cũng đến
lạ. Anh nói về “nợ xấu” như một việc bình thường
và hết sức đơn giản với nhận định, trong khoảng
10 năm nay nợ xấu trong hệ thống ngân hàng
Việt Nam đã được xóa nhiều bằng lợi nhuận và
bằng “trích lập dự phòng”. Điều đáng lo hiện nay
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
99
không phải là chuyện nợ xấu mà là chuyện nợ tốt
chuyển thành nợ xấu.
Sự tự tin của vị tổng giám đốc này còn thể hiện
khá rõ khi nói về chuyện “đương đầu” với các đại
gia tài chính khi gia nhập WTO. Anh nói, chuyện
gia nhập WTO, cạnh tranh trực tiếp với các tập
đoàn tài chính lớn nhất thế giới cũng như chuyện
“người thành phố đi lên rừng”. Các tập đoàn tài
chính lớn vào Việt Nam chẳng khác những thị
dân đi vào rừng, các ngân hàng trong nước hiện
vẫn đang có sở trường “ở trong rừng” nên quen
thuộc đường đi lối lại, đó là lợi thế về chính sách,
cơ chế của chúng ta... Vả lại người Việt Nam vốn
thông minh, khi phải đối diện với những đối thủ
lớn ắt sẽ có “mưu sâu kế lạ”. Tất nhiên đó không
phải là việc để chủ quan vì sớm muộn chúng ta
cũng phải hội nhập đầy đủ, từ đây tới đó, hẳn
chúng ta đủ sức để mạnh lên.
Nói về chiến lược cho ACB trong thời gian tới,
anh lại càng “lạ” khi xác định lấy rủi ro làm… cơ
hội. Hẳn nhiên đây không phải là chuyện lạ của
riêng anh mà là một chiến lược phát triển. Anh
cho rằng, kinh doanh tài chính đồng nghĩa với
rủi ro và rủi ro chính là cái đem lại tiền bạc. Điều
quan trọng là phải biết chia sẻ rủi ro, đó chính
là lý do ACB hướng tới việc bán lẻ chứ không
chủ trương chơi với “người khổng lồ”. Chính sức
sống mãnh liệt của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
nuôi lớn ACB một cách an toàn. Chiến lược này
được minh chứng một cách thuyết phục khi ACB
vẫn đang giữ vững vị trí dẫn đầu khối ngân hàng
thương mại cổ phần tại Việt Nam.
Tác giả: Lê Hiển
(Nguồn: Tin tức cuối tuần, 10-5-2007)
100
ACB:
Nâng cấp kỹ thuật cho tương lai
Tám năm trước, NHTMCP Á Châu (ACB) đã lựa chọn giải pháp ngân hàng
tổng thể (TCBS) của công ty OSI-Mỹ (Open Solutions Incorporation) làm cơ sở
cho dự án đổi mới Công nghệ ngân hàng của mình. Nhờ giải pháp này, ACB đã
tạo ra một hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại với cơ sở dữ liệu tập trung,
có độ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và trở thành ngân hàng hàng đầu trong
ứng dụng công nghệ thông tin tại Việt Nam. Phóng viên Thời báo Ngân hàng
có cuộc trao đổi cùng ông Lê Vũ Kỳ - Phó tổng giám đốc ACB, xung quanh
việc nâng cấp công nghệ từ phiên bản TCBS 2000 lên phiên bản TCBS 2007,
giúp ACB tiếp cận với công nghệ ngân hàng tiên tiến nhất đang được áp dụng
tại Mỹ, Canada và các nước tiên tiến trên thế giới. (Khánh Duy thực hiện).
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
101
Xin ông cho biết đôi nét về TCBS?
- TCBS là tên viết tắt từ sản phẩm công nghệ
ngân hàng lõi của Công ty OSI. Đây là thế hệ
công nghệ ngân hàng bán lẻ hoàn chỉnh, được
thiết kế theo kiến trúc khách/chủ với cơ sở dữ
liệu quan hệ Oracle. Hệ thống TCBSC cho phép
ngân hàng xử lý dữ liệu trực tuyến, tập trung
thông tin khách hàng, xứ lý các giao dịch tiền
gửi, tiền vay, cũng như cung cấp thông tin phục
vụ công tác điều hành ngân hàng.
Vậy quá trình triển khai hệ thống
TCBS tại ACB như thế nào thưa ông?
- Năm 1998, Hội đồng quản trị của ACB
đã quyết định đầu tư đổi mới công nghệ ngân
hàng và chọn TCBS - một sản phẩm hoàn
chỉnh của OSI. Dự án đổi mới công nghệ ngân
hàng giai đoạn 1 tại ACB đã hoàn thành vào
cuối năm 2001. ACB đã hoàn tất việc chuyển
đổi dữ liệu, xây dựng mạng diện rộng (WAN)
để kết nối tất cả các Chi nhánh, phòng giao
dịch với hội sở, cho phép khách hàng có thể
gửi, rút tiền, chuyển tiền tại bất cứ Chi nhánh,
phòng giao dịch nào của ACB. ACB cũng tái
tổ chức ngân hàng, nhằm phát huy tốt nhất
những ưu điểm của công nghệ… Nhờ vậy, ACB
là một trong những ngân hàng đầu tiên tại
Việt Nam hoàn thành đổi mới công nghệ, là
ngân hàng đầu tiên áp dụng cơ chế giao dịch
một cửa và cho phép khách hàng giao dịch tại
bất cứ Chi nhánh nào.
Theo ông thì TCBS đã đóng góp như
thế nào vào sự phát triển của ACB thời
gian qua?
- Việc thực hiện thành công dự án đổi mới
công nghệ và đưa hệ thống TCBS vào sử dụng
trên toàn hệ thống TCBS đã đóng góp tích
cực vào sự phát triển của ACB trong những
năm qua. Cụ thể: TCBS đã góp phần chuẩn
hóa sản phẩm, dịch vụ cũng như việc phục
vụ khách hàng thống nhất trên toàn hệ thống
góp phần thực hiện mục tiêu “Chỉ có một
ACB” trên toàn hệ thống. Bên cạnh đó TCBS
còn cho phép ACB nhanh chóng triển khai
các sản phẩm dịch vụ mới, đáp ứng những
nhu cầu phát sinh của khách hàng. Đồng
thời, với cơ sở dữ liệu tập trung, xử lý trực
tuyến, tạo điều kiện nâng cao năng lực quản
lý ngân hàng, tăng cường khả năng kiểm tra,
kiểm soát đảm bảo sự phát triển của ngân
hàng. Ngoài ra, TCBS còn tạo điều kiện cho
ACB đi tiên phong trong các sản phẩm công
nghệ ngân hàng như phone banking, internet
banking, call center, bao thanh toán, options
ngoại tệ và vàng, thẻ ATM hay gần nhất là tổ
chức sàn giao dịch vàng…
ACB hy vọng gì trong việc thực hiện
nâng cấp TCBS?
- ACB hiện đang sử dụng phiên bản TCBS
3.4 phiên bản năm 2001 của OSI. Hiện nay,
OSI đã đưa phiên bản 2007 với nhiều cải tiến,
bổ sung. Với việc nâng cấp lên phiên bản mới
ACB hy vọng quản lý tốt hơn quan hệ nhiều mặt
giữa ngân hàng và khách hàng, nhằm thông
hiểu hơn khách hàng và cung cấp các dịch vụ
phù hợp nhất cho khách hàng. Bên cạnh đó,
ngân hàng có khả năng nâng cao thêm một
bước trong quản lý hệ thống, quản lý an toàn.
Đồng thời có điều kiện xem xét và tiếp cận các
module mới các sản phẩm tích hợp với TCBS
đã được OSI phát triển. Trên thực tế, ACB
đang phát triển tốc độ cao, các chỉ số tài sản,
số lượng tài khoản, số lượng Chi nhánh luôn
tăng trưởng khoảng 40-50%/năm liên tục
trong nhiều năm. Việc nâng cấp này cho phép
ngân hàng chuẩn bị sẵn sàng cơ sở kỹ thuật cho
tương lai. Với khả năng xử lý và quản lý từ 5-10
lần khả năng hiện tại. Hơn thế nữa, ACB có cơ
hội tham gia và trao đổi kinh nghiệm với cộng
đồng các ngân hàng sử dụng TCBS. Hiện có
hơn 5.000 ngân hàng tại Mỹ và Canada đang
sử dụng TCBS.
Xin chân thành cảm ơn ông!
Tác giả: Khánh Duy
(Nguồn: Thời báo ngân Hàng, 14-6-2007)
102
Bước tiến mới của ACB
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) vừa được Hội đồng Tư vấn
doanh nghiệp ASEAN (ASEAN - BAC) trao cúp “Doanh nghiệp ASEAN xuất
sắc nhất” trong lĩnh vực đội ngũ lao động. ACB là một trong 12 doanh nghiệp
trong khối ASEAN nhận được cúp này
trả Lương, thưởng bằng
ngân hàng nướC ngoài
Để quản lý 4.000 nhân viên (tăng 1.200 nhân
viên so với cuối năm 2006). ACB đã áp dụng
nhiều chính sách đối với cán bộ công nhân viên.
Trước khi làm việc tại ACB, các nhân viên đều
được đào tạo nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức kinh
doanh, phong cách làm việc tại Trung tâm Đào
tạo nghiệp vụ. ACB là ngân hàng đầu tiên thành
lập trung tâm này. Không những vậy, các nhân
viên còn được tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ
tại ngân hàng và ngoài ngân hàng. Được sự hỗ trợ
của các cổ đông nước ngoài (Standard Chartered
Bank, Công ty Tài chính quốc tế (IFC), Connaught
Investor Ltd, Dragon Financial Holding Ltd, Co),
ACB còn cử nhân viên tham gia các khóa đào tạo
và thực tập tại nước ngoài. Các chi phí đều được
ngân hàng tài trợ.
Một trong những chính sách thúc đẩy năng
suất làm việc của cán bộ công nhân viên được
ACB áp dụng là chính sách lương, thưởng. Đầu
năm 2007, ACB tuyên bố mức lương và thu
nhập của cán bộ công nhân viên tăng bình quân
là 55%, mức lương dao động từ 30-100%. Với
mức tăng này, thu nhập của cán bộ công nhân
viên ACB ngang bằng với lương và thu nhập của
những nhân viên làm tại ngân hàng nước ngoài
hiện đang có mặt tại Việt Nam. Bà Đặng Thu
Thủy - Giám đốc quản trị nguồn lực ACB, nhận
xét: “Thu nhập là vấn đề nhạy cảm. Các doanh
nghiệp trong nước hiện nay đang sử dụng nguồn
lực còn lãng phí, cào bằng tiền lương. Trong
chính sách lương của ACB hiện nay có 30% dành
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
103
cho đào tạo. ACB trả thu nhập cho cán bộ công
nhân viên dựa trên công việc đạt được, mức độ
đóng góp của nhân viên đó vào sự phát triển của
NH, ACB trả lương dựa vào năng suất và mức độ
hoàn thành công việc, thưởng cho cán bộ công
nhân viên có những sáng kiến đóng góp”.
minh bạCh Cơ hội thăng tiến
Trong tình hình nguồn nhân lực ngành ngân
hàng đang thiếu trầm trọng như hiện nay, chính
sách tăng lương, thưởng chưa hẳn là biện pháp
căn cơ để giữ người tài làm việc. ACB còn áp dụng
các chính sách khác như chế độ nghỉ mát, xây
dựng nhà chung cư bán trả góp, tổ chức khám
bệnh định kỳ… Hiện nay, ACB đang áp dụng
chương trình quản trị viên tập sự nhằm phát
triển những nhân viên trong ngân hàng chưa
từng làm quản lý nhưng có nhiều tiềm năng. Sau
khi phát hiện những nhân viên này, ACB hoàn
toàn minh bạch trong việc nhân viên tiếp cận cơ
hội phát triển lên các vị trí cao cấp. Các trưởng
đơn vị không vì e ngại nhân viên dưới quyền qua
mặt mà tìm cách ngăn cản họ. Ngoài các chỉ tiêu
về kinh doanh, chỉ tiêu phát triển nhân viên vào
cấp quản lý cũng là một tiêu chuẩn đánh giá
thành tích công tác của các trưởng đơn vị. Bà
Đặng Thu Thủy cho rằng môi trường làm việc là
một yếu tố quan trọng trong việc giữ được người
tài. Môi trường làm việc tại ACB cho phép nhân
viên thấy trước khả năng sự thăng tiến của mình.
Chính sách đào tạo và nuôi dưỡng nguồn nhân
lực của ACB đã góp phần vào sự thành công
trong 15 năm qua của ngân hàng.
Tác giả: Thanh Xuân
(Nguồn: Thanh niên tuần san, 30-11-2007)
104
Tiệm cận chuẩn mực quốc tế
Là một ngân hàng (NH) có tốc độ tăng trưởng cao nhất ngành và tổng tài sản
lớn nhất trong khối NH TMCP, từ lâu NH TMCP Á Châu (ACB) đã chú trọng
đến hoạt động quản lý rủi ro. Điều này đã giúp ACB phát triển kinh doanh một
cách bền vững.
sử dụng vốn hợp LÝ
Với định hướng đa dạng hóa sản phẩm và
hướng đến khách hàng để trở thành NH bán lẻ
hàng đầu của Việt Nam, ACB đã thực hiện đầy
đủ các chức năng của một NH bán lẻ. Danh mục
sản phẩm của ACB rất đa dạng, tập trung vào
các phân đoạn khách hàng mục tiêu, bao gồm cá
nhân, DN vừa và nhỏ. Sau khi triển khai chiến
lược tái cấu trúc, việc đa dạng hóa sản phẩm,
phát triển sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của khách hàng đã trở thành
công việc thường xuyên và liên tục. Các sản phẩm
cúa ACB luôn dựa trên nền tảng công nghệ tiên
tiến, có độ an toàn và bảo mật cao. Trong huy
động vốn, ACB là NH có nhiều sản phẩm tiết
kiệm cả về VNĐ lẫn ngoại tệ và vàng, thu hút
manh nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư. Các sản
phẩm huy động vốn của ACB rất đa dạng, thích
hợp với nhu cầu dân cư và tổ chức. ACB là NH
đầu tiên tung ra thị trưởng sản phẩm tiết kiệm
có dự thưởng. Hình thức này đã được ACB phát
huy và đến nay thu hút mạnh nguồn vốn dân cư
và tạo nên sự khác biệt rất lớn của ACB so với
các NH khác.
Với nguồn vốn huy động khá lớn, ACB hoạt
động mạnh trên thị trường mở và thị trường
liên NH. ACB thường xuyên tham gia đấu thầu
và mua các loại trái phiếu chính phủ hoặc trái
phiếu đô thị với doanh số hàng ngàn tỷ đồng
hàng năm. Các hoạt động này góp phần làm tăng
thu nhập đáng kể cho ACB và giúp ACB có được
nguồn tài sản thế chấp lớn khi cần vốn cho nhu
cầu thanh khoản. Mặc dù gần đây phải chuẩn
bị nguồn vốn cho tăng dự trữ bắt buộc và mua
tín phiếu bắt buộc, ACB vẫn bảo đảm khả năng
thanh khoản và đáp ứng nhu cầu vay vốn của
khách hàng.
Ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc ACB, cho
biết trong bối cảnh NHNN siết chặt chính sách
tiền tệ để kiểm soát lạm phát, ACB cũng phải
hạn chế cho vay, tuy nhiên không có nghĩa là
ACB ngưng cho vay. Những khách hàng có nhu
cầu vốn vay để kinh doanh hoặc tiêu dùng với
phương án vay khả thi, NH thẩm định năng lực
trả nợ, đặc biệt là khách hàng có lịch sử trả nợ
tốt sẽ được ACB ưu tiên cho vay. Các sản phẩm
tín dụng của ACB hiện rất phong phú, nhất là
dành cho khách hàng cá nhân. ACB là NH đi đầu
trong hệ thống NH Việt Nam cung cấp các loại
tín dụng cho cá nhân như : cho vay trả góp mua
nhà, mua nền nhà, sửa chữa nhà, cho vay sinh
hoạt tiêu dùng, cho vay tín chấp dựa trên thu
nhập người vay, cho vay du học…
quản LÝ rủi ro Chặt Chẽ
Quản lý rủi ro và từ đó tận dụng cơ hội kinh
doanh, bảo toàn vốn cho cổ đông là một trong
các vấn đề được ACB đặc biệt quan tâm. Rủi ro
trong hoạt động NH được chia thành các loại
chính: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường (bao gồm
rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại
hối), rủi ro vận hành. Để quản lý các loại rủi ro
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
105
nói trên, tổ chức quản lý rủi ro của ACB được bố
trí từ hội sở đến các Chi nhánh và phòng giao
dịch trên toàn hệ thống. Hội đồng tín dụng là
cơ quan quản lý rủi ro tín dụng. Hội đồng ALCO
quản lý rủi ro thị trường. Phòng quản lý rủi ro
ở hội sở có chức năng tổng hợp, phân tích tình
hình hoạt động hàng ngày của ACB để hỗ trợ ban
điều hành, và hội đồng ALCO trong việc quản lý
rủi ro thị trường. Ban kiểm soát nội bộ có chức
năng giám sát sự tuân thủ các quy định pháp
luật, góp phần nâng cao quản lý rủi ro ở ACB.
Với hệ thống tổ chức quản lý rủi ro đã được xây
dựng hoàn chỉnh, với các chính sách quản lý rủi
ro ngày càng được hoàn thiện, việc bảo toàn vốn
của cổ đông của ACB luôn luôn được đảm bảo,
đồng thời tỷ suất lợi nhuận luôn tăng trưởng ổn
định và duy trì ở mức cao.
Thực tế việc NH đẩy mạnh tăng dư nợ, nhất
là mở rộng điều kiện cho vay tiêu dùng và cho
vay bất động sản sẽ là một thách thức cho các
NH về việc quản lý rủi ro. Đặc biệt rủi ro tác
nghiệp có thể là nguy cơ tiềm ẩn cho các NH
hiện đại. Nắm bắt được điều này, ACB từ lâu đã
phát triển theo hướng quản lý rủi ro theo chuẩn
mực quốc tế, là một trong những NH đầu tiên
có khả năng tiệm cận chuẩn mực của Basel 2 cả
về quản trị rủi ro và tỷ lệ an toàn vốn. Theo ông
Lý Xuân Hải, mặc dù năm 2008 sẽ là năm có
nhiều thách thức lớn cho ngành NH, trong đó
có ACB, nhưng ACB vẫn tự tin sẽ tiếp tục giữ vị
thế số 1 trong hệ thống NHTM CP và tiếp tục
là NHTM CP có quy mô tổng tài sản lớn nhất
trong khối NHTM CP, rút ngắn khoảng cách
đối với các NH quốc doanh. ACB đang từng
bước phát triển thành một tập đoàn tài chính
- đầu tư cung cấp các dịch vụ tài chính đa năng
theo mô hình quản trị tiên tiến với hoạt động
NHTM là hoạt động chính. Tác giả: Vĩnh Nghi
Nguồn: Sài gòn đầu Tư Tài Chính, 3-3-2008)
106
Ngân hàng của mọi nhà
Khởi lập ngày 4-6-1993, ACB đã khẳng định vị thế của mình trên thị trường
tài chính khi tiên phong hướng đến mô hình tập đoàn ngân hàng hàng đầu Việt
Nam. Tại đây các nhà quản trị chiến lược ngân hàng đang tạo ra giá trị tăng
trưởng bền vững bằng nhũng kết quả rõ ràng, hiện hữu và hết sức minh bạch.
giá trỊ thương hiệu
Tuy chưa có khảo sát hay thống kê thực tế về sức
tác động của một thương hiệu đối với cộng đồng,
song rất nhiều người Việt Nam khi nhắc đến ngân
hàng trong nước lại nghĩ ngay đến thương hiệu ACB
của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu. Đó là
bởi vì sự hiện diện của ACB đã trở nên gần gũi từ 15
năm qua, gắn kết khách hàng vào từng chiến lược
tiếp cận như ngân hàng, chứng khoán, vàng và địa
ốc-những lĩnh vực vốn dĩ đang thu hút sự quan tâm
của công chúng trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới. Đứng dưới góc độ dân sinh, sự phát triển
của ACB nói riêng và ngân hàng trong nước nói
chung đã phục vụ tốt cho việc cải thiện mức sống
cho từng gia đình ở thời kỳ mới. Rõ ràng hình thức
tích lũy vốn hoặc vay vốn ngân hàng đang dần tạo
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
107
ra những chuyển đổi nhất định trong ý thức người
dân về cách quản lý tài sản cá nhân và đầu tư mang
lại hiệu quả thời kinh tế thị trường.
Ngày nay, với tiềm lực tài chính mạnh, cung cấp
hơn 200 sản phẩm cơ bản, (600 sản phẩm tiện
ích), tổng tài sản đạt trên 87.000 tỉ đổng - đứng
đầu các ngân hàng cổ phần thương mại trong
nước, ACB nắm bắt cơ hội khi hệ thống ngân hàng
quốc doanh đang thận trọng thực hiện cổ phần
hóa, ngân hàng nước ngoài thì còn đang chịu giới
hạn về phạm vi kinh doanh, mạng lưới cũng như
nguồn lực để chủ động tiến tới mô hình tập đoàn.
Phân tích của các chuyên gia kinh tế gần đây cho
thấy, giá trị thị trường hiện tại của ACB đạt trên
3 tỉ USD. Nếu theo tốc độ tăng trưởng và chiến
lược phát triển như đã hoạch định, năm ACB tròn
18 tuổi chắc chắn sẽ đạt giá trị thị trường trên 8 tỉ
USD - con số được coi là mơ ước đối với tất cả các
doanh nghiệp trong nước và càng thể hiện rõ giá trị
ngân hàng này trên thị trường quốc tế.
thành tựu và Chiến LượC tương Lai
Trong suốt quá trình phát triển của mình, ACB
thực hiện hầu hết những chỉ tiêu tăng trưởng đã
đề ra từ cách đây nhiều năm. Tính riêng về vấn đề
nguồn nhân lực, nếu như ACB bốn năm trước có
hơn 1.430 người thì ngày nay đã đạt trên 4.527
người. Dự kiến đến cuối năm 2008, nguồn nhân
lực của ACB sẽ tăng đến 6.500 người và đến năm
2010 sẽ đạt đến khoảng 10.000 người. Ngoài ra
một trong những thành tựu mà ngân hàng này
tạo lập được trên thương trường đó chính là khả
năng tạo ra lợi nhuận cực lớn, tăng mạnh qua
các năm. Còn nhớ năm 2001, giai đoạn các ngân
hàng trong nước tăng tốc cạnh tranh thì ACB
đã trở thành một trong những đơn vị đạt mức
lợi nhuận “siêu cao”, ước tính trên 108 tỷ đồng
(trước thuế). Sau đó trải dài đến năm 2005, lợi
nhuận của ngân hàng này cũng ngày càng tăng
mạnh đến mức 391 tỷ đồng. Chính vì những lý
do đó, kết thúc năm tài khóa 2006, mọi người
không ngạc nhiên lắm khi lợi nhuận của ACB
tiếp tục đạt trên 687 tỷ đồng, tạo điều kiện cho
khởi đầu thuận lợi cho năm 2007. Và mới đây,
những tháng đầu năm 2008 khởi sự với không
ít dự báo về khó khăn, diễn biến phức tạp của thị
trường tài chính Việt Nam và thế giới thì đa phần
cổ đông ACB lại mỉm cười khi lợi nhuận công bố
năm 2007 tiếp tục đạt trên 2.000 tỷ đồng-dẫn
đàu khối ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh.
Thêm một thành tựu mà khi mọi người nhắc đến
ACB vẫn thường lưu ý. Đó là vấn đề dù với một chiến
lược kinh doanh năng động, nhưng ngân hàng cũng
cực kỳ chuẩn mực trong chính sách tín dụng và tài
sản đảm bảo. Đối với ACB, chỉ tiêu nợ xấu dưới 1%
luôn được các nhà điều hành đặt ra như giá trị bất
biến, nhằm cân bằng giữa mức độ tăng trưởng và
ranh giới của sự rủi ro. Nhiều người cho rằng chính
sách tự động bán hàng kiểu này đang gây khó khăn
cho việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, đặc biệt đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như các cá nhân,
thành phần chủ yếu sử dụng dịch vụ của ACB. Thế
nhưng sau nhiều năm liên tục áp dụng chính sách
này, tất cả những quan ngại trên đã không còn đủ
cơ sở khi mọi chỉ tiêu kinh doanh của ngân hàng đạt
được cũng song song vơi mức độ hài lòng từ khách
hàng. Liên tục nhiều năm liền, ACB được hàng loạt
tổ chức trong và ngoài nước đánh giá bằng những
danh hiệu như: Ngân hàng tốt nhất Việt Nam, Ngân
hàng bán lẻ xuất sắc nhất Việt Nam, Doanh nghiệp
ASEAN suất xắc…
Cách đây chỉ mới vài tuần lễ, lần đầu tiên tại Việt
Nam có 1 cuộc hội thảo tập trung chuyển về mô hình
quản trị ngân hàng theo định chế “tập đoàn”. Đó là
cuộc hội thảo do ACB tổ chức với tầm nhìn về năm
2010-2015, giai đoạn mà ngành tài chính Việt Nam
sẽ gặp cạnh tranh khốc liệt hơn do “ranh giới” hoạt
động của ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong
nước đã bị xóa bỏ theo cam kết gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Có thể nhiều ngân
hàng không chịu nổi áp lực cạnh tranh sẽ bị thôn
tính hoặc sáp nhập vào giai đoạn này. Tuy nhiên
chắc chắn rằng cổ đông ACB sẽ chỉ phải nhọc tâm
suy đoán ngân hàng mình đứng thứ mấy trong top
3 tập đoàn ngân hàng hàng đầu Việt Nam? Bởi lẽ
ngân hàng của mọi nhà sẽ mãi thành công.
Tác giả: Tường Minh
(Nguồn: Sài gòn giải phóng, 17-3-2008)
108
Vững vàng chiến lược phát triển
NHTM CP Á Châu (ACB) đã đưa ra mục tiêu đến năm 2010 - thời điểm tròn 18
năm hình thành và phát triển ACB - sẽ trở thành một trong 3 tập đoàn tài chính
NH hàng đầu Việt Nam.
biến tháCh thứC thành Cơ hội
Đến năm 2010, tập đoàn ACB có mục tiêu đưa
quy mô tổng tài sản lên 315.000 tỷ đồng, vốn chủ
sở hữu 15.000 tỷ đồng, lợi nhuận 7.000 tỷ đồng,
ROE đạt trên 40%, mạng lưới có 350 Chi nhánh và
phòng giao dịch, giá trị của ACB trên TTCK đạt trên
8 tỉ USD và đội ngũ CBNV đạt trên
10.000 người. Ông Nguyễn Đức Kiên,
Phó chủ tịch HĐQT ACB, cho biết:
Để đạt được những chỉ tiêu này, ACB
sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược tăng
trưởng nhanh, quản lý tốt, lợi nhuận
cao, trong đó ưu tiên cho mục tiêu tăng
trưởng. Từ đây đến năm 2010, ACB sẽ
thực hiện quản trị điều hành chuyên
nghiệp theo chuẩn mực và thông lệ
quốc tế; chuyên nghiệp hóa để nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ lãnh đạo và
CBCNV nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ của ACB;
đầu tư mạnh vào công nghệ, cơ sở vật chất, trụ sở làm
việc và đặc biệt là xây dựng hình ảnh “ACB - NH của
mọi nhà”.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, cạnh tranh trong
lĩnh vực NH đến năm 201 sẽ rất gay gắt, có nhiều
thách thức khách quan ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của NH. Tuy nhiên, mục tiêu của các NH nội
địa là phải biến thách thức thành hiệu quả. Phải
tìm kiếm cơ hội kinh doanh trong thị thường cạnh
tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong và ngoài
nước. Phải tận dụng cơ hội khi các NH quốc doanh
trong quá trình cổ phần hóa các NH nước ngoài
còn giới hạn nhất định và phạm vi kinh doanh và
chưa đủ mạng lưới cũng như nguồn nhân lực. Phải
dự đoán các diễn biến của thị trường tài chính của
năm 2008 để đưa ra quyết định kinh doanh phù
hợp. Đặc biệt các NH nội địa phải cần biết đến các
khó khăn của thị trường thành cơ hội kinh doanh,
tận dụng các cơ hội kinh doanh trong bối cảnh nền
kinh tế đang tăng trưởng cao nhiều năm liên tục.
tăng Cường kiểm soát rủi ro
Hiện nay ACB đang thực hiện chiến lược mở
rộng mạng lưới, tăng nguồn nhân lực, đào tạo lại
cán bộ nhân viên, tăng cường kiểm tra, kiểm soát
huy động sản phẩm đa dạng, cạnh tranh, với chỉ
tiêu chiếm 10% tổng tiết kiệm từ dân cư. ACB cũng
sẽ phát triển dư nợ, đồng thời nợ quá hạn phải thấp,
cụ thể ACB sẽ tăng tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản
từ 36% lên 50% vào năm 2010, nợ quá hạn dưới
1%. Lợi nhuận trên 40% vốn chủ sở hữu.
Ông Trần Mộng Hùng, Chủ tịch HĐQT ACB,
phân tích: “ACB sẽ chỉ phát triển nếu kiểm soát
được rủi ro trong quá trình tăng trưởng. Cụ thể
ACB sẽ kiểm soát rủi ro trong vận hành, rủi ro
trong kinh doanh, về con người, rủi ro do thay đổi
về quy định, chính sách… Chúng tôi rất tự tin cạnh
tranh, phát triển trong môi trường có nhiều NH
đang hoạt động. Chỉ ngại có những rủi ro về pháp lý
quản lý nhà nước. Ngòai ra NH có thể kinh doanh
lợi nhuận cao nhưng không phải lúc nào cũng giữ
giá cổ phiếu luôn cao được”.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược
NH (NHNN Việt Nam), đánh giá: “ACB là một
trong những ngân hàng TMCP có một thời gian
dài phấn đấu, đến nay đã đạt được vị trí vững chắc
trên thương trường. Rất nhiều NH muốn như ACB
nhưng không làm nổi vì HĐQT không được củng cố
vững chắc về sức mạnh và cách thức quản lý. HĐQT
của ACB là một tập thể trí tuệ không chỉ trong quản
trị chiến lược, hoạch định chính sách, mà còn trí
tuệ cả trong hành xử với các mối quan hệ phức tạp,
gắn liền quyền lợi cổ đông với khách hàng, nhân
viên. Đấy là cách quản lý khoa học dựa trên những
nền tảng chuẩn mực của quản trị khoa học”.
Tác giả: Vĩnh Nghi
Nguồn: Sài gòn đầu Tư Tài Chính, 13-3-2008)
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
109
Tiên phong đổi mới
Mọi thương hiệu đi lên từ không có gì phải trải qua 2 thời kỳ: đột phá và củng
cố vị thế. Thương hiệu đó trước tiên phải đưa ra thị trường một cái gì đó mới
mẻ, khác biệt, đủ quan trọng để gây ra sự chú ý của công chúng. Ngân hàng
cổ phần Á Châu (ACB) ngay từ khi ra đời đã xác định cho mình một hướng đi
mang tính tiên phong, tạo ra những bước đột phá về sản phẩm, công nghệ và
quản trị ngân hàng để bắt kịp với trình độ phát triển của các định chế ngân
hàng tiên tiến thế giới. Sau hơn một thập kỷ để phát triển, thương hiệu ACB
luôn được gắn liền với hình ảnh của một ngân hàng tốt nhất Việt Nam (Best
bank in VietNam) - một ngân hàng tiên phong trong đổi mới và phát triển
ngân hàng bán lẻ.
V
ới một quốc gia đang phát triển,
trình độ phát triển của hệ thống
ngân hàng nội địa so với chuẩn
mực chung của thế giới có thể là
rất lớn. Một ngân hàng trong nước có tốc độ
đổi mới nhanh, bắt kịp với mặt bằng chung
của thế giới sẽ nhanh chóng trở thành một
thương hiệu mạnh trong nước. Là một ngân
hàng cổ phần nhỏ ra đời từ năm 1993 tại TP
Hồ Chí Minh nhưng ACB lại nổi lên như một
ngân hàng tiên phong hàng đầu trong công
cuộc đổi mới để tăng trưởng, nỗ lực vươn tới
các chuẩn mực của thế giới trong lĩnh vực ngân
hàng bán lẻ.
Có năm yếu tố cơ bản cho thấy ACB là một
ngân hàng tiên phong:
Tốc độ. Một thương hiệu tiên phong cần có
tốc độ. ACB là một thương hiệu đi đầu trong
tăng trưởng. Từ một ngân hàng nhỏ, ACB nổi
lên như một định chế lớn nhất trong 37 ngân
hàng thương mại cổ phần, biểu hiện qua thị
phần lớn nhất, tốc độ tăng trưởng cao nhất.
Ngày nay, ACB có tổng vốn hóa thị trường của
cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi đạt 1,4 tỷ đô
110
la, gần gấp đôi đối thủ cận kề Sacombank. ACB
nắm giữ 6% thị phần huy động tiết kiệm của cả
nước, trên 57% thị phần thẻ tín dụng quốc tế,
trên 55% thị phần chuyển tiền nhanh Western
Union. Mạng lưới của ACB đã có mặt tại các địa
bàn trọng điểm phát triển kinh tế-xã hội trên
cả nước. ACB là ngân hàng có tổng tài sản lớn
nhất trong khối ngân hàng thương mại cổ phần,
đứng thứ 5 trong toàn ngành ngân hàng. ACB
có tốc độ tăng tưởng cao và bền vững, đạt gấp
2-2,5 lần tốc độ tăng trưởng của ngành trong
ba năm liên tiếp (2004-2006).
Nổi trội về sản phẩm và kênh phân phối. ACB
là ngân hàng có danh mục sản phẩm dịch vụ
được coi là vào loại phong phú nhất trong thị
trường ngân hàng hiện nay với hơn 200 sản
phẩm cơ bản (tương ứng với hơn 600 sản phẩm
tiện ích). Điều quan trọng là các sản phẩm của
ACB luôn dựa trên nền tảng công nghệ tiên
tiến, có độ an toàn và bảo mật cao. Điều này
đòi hỏi ACB cần phải tiên phong trong đổi mới
công nghệ. Khi doanh nghiệp quyết định thực
hiện đột phá cũng có nghĩa cần có nguồn đầu tư
lớn để có thể tạo ra những sản phẩm độc đáo.
ACB trở thành ngân hàng đầu tư lớn nhất vào
hệ thống công nghệ thông tin và được biết đến
là ngân hàng sở hữu khả năng công nghệ như
một năng lực cốt lõi. Công nghệ giúp ACB đột
phá trong sản phẩm để tạo nên những bứt phá
quan trọng, đặc biệt là trong phát triển các dịch
vụ ngân hàng điện tử.
Để đảm bảo tốc độ, ngoài phát triển sản phẩm,
ACB còn cần phải có khả năng tập trung cao để
đạt được quy mô cần thiết. Đó là việc sớm theo
đuổi một chiến lược mở rộng kênh phân phối ra
cả nước. Vào tháng 9-2006, ACB đã có một sở
giao dịch, 80 Chi nhánh và phòng giao dịch tại
những vùng kinh tế trọng điểm trên toàn quốc.
Vào năm 2007, với việc mở thêm từ 30-33 Chi
nhánh và điểm giao dịch, ngân hàng này hướng
tới sử dụng các điểm giao dịch làm nền tảng
phân phối nhiều loại sản phẩm nhằm vào đối
tượng khách hàng bán lẻ.
Tiên phong trong đổi mới quản trị ngân hàng.
Tăng tốc không có nghĩa là chỉ để đi đầu, mà
cần phải được kiểm soát tốt để đảm bảo an toàn
và hiệu quả. ACB được đánh giá là ngân hàng
quản lý tốt nhất trong khu vực ngân hàng cổ
phần, hiện đại hóa, có nguồn nhân lực chuyên
nghiệp và được đào tạo bài bản. Tăng tốc là
chấp nhận rủi ro nhưng cũng đòi hỏi năng lực
quản lý rủi ro. ACB kiểm soát được tốc độ tăng
trưởng theo ý mình nhờ có năng lực quản trị
ngân hàng và năng lực này cũng là một tính
cách thương hiệu của ACB
Chuyên nghiệp hóa quản lý là một ưu tiên.
Ngân hàng này tiến đến các chuẩn mực quốc tế
còn rất sớm như một cậu bé ham học hỏi. ACB đã
sử dụng kiểm toán quốc tế và bắt đầu tiếp cận các
nghiệp vụ ngân hàng hiện đại từ năm 1997, tái
cấu trúc theo định hướng hướng tới khách hàng
từ năm 2000, ứng dụng toàn hệ thống TCBS từ
năm 2002 và áp dụng ISO từ năm 2003. Ngân
hàng này cũng sớm tách bạch vai trò quản trị với
điều hành; thẩm định, chính sách và xét duyệt
trong hoạt động tín dụng; thành lập hội đồng
quản lý tài sản nợ - có (ALCO).
ACB là địa chỉ tin cậy đáng để đầu tư, một
cỗ máy gọn nhẹ và mạnh mẽ. Ngân hàng này
có khả năng khai thác tối ưu vốn cổ đông khi
trở thành ngân hàng thương mại cổ phần có lợi
nhuận lớn nhất, mức tăng trưởng trung bình
hàng năm là 40%. Chỉ số ROE luôn đạt tới mức
trung bình 27%, chỉ sau Vietcombank. ACB có
hệ thống quản lý rủi ro chuyên nghiệp thể hiện
qua danh mục cho vay chất lượng (Nợ quá hạn
dưới 1%, đảm bảo tài sản là bất động sản chiếm
85%). ACB đã công bố chính sách “cho vay an
toàn” và chính sách này đem lại hiệu quả. Số
liệu từ bảng cân đối kế toán cho thấy, ACB đầu
tư 50% vào các tín phiếu của Chính phủ và 50%
vào thị trường cho vay. Nó cho thấy ACB là một
thương hiệu rất thận trọng khi kinh doanh.
ACB được đánh giá là có đội ngũ quản trị
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
111
điều hành mạnh và tương đối chuyên nghiệp.
Khả năng đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân
lực, đặc biệt là nhân lực quản lý là một lợi thế
cạnh tranh mạnh của ngân hàng này. Với trên
2.000 nhân viên trong đó có 93% là đại học
và trên đại học được tuyển chọn, đào tạo căn
bản cả trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực là
một năng lực cốt lõi tạo thêm sự khác biệt cho
thương hiệu ACB.
Tiên phong trong mở rộng hợp tác. Hợp tác
để giải quyết bài toán vốn và kiến thức, hai
yếu tố then chốt của tăng trưởng.
Không có một cách nào nhanh hơn
và hiệu quả hơn là học hỏi kiến thức
từ những người giỏi hơn khi được
sát cánh cùng họ làm ăn chung.
ACB là một trong những ngân hàng
thể hiện năng lực hợp tác và học tập
đáng phải học hỏi trong thời kỳ hội
nhập. Học hỏi và hợp tác trở thành
một nhiệm vụ, một phần trong
chiến lược tăng trưởng. ACB là ngân
hàng đầu tiên chủ động hợp tác với
các nhà đầu tư nước ngoài và cũng
là ngân hàng có nhiều cổ đông chiến
lược là nhà đầu tư nước ngoài nhất (Bốn nhà
đầu tư là Standard Chartered, IFC, Jardines
và Dragron Capital cùng nhau nắm giữ 30%
cổ phần ngân hàng này) Các nhà đầu tư đã có
những đóng góp quan trọng cho ngân hàng
trong quản lý rủi ro, phân tích tín dụng, phát
triển sản phẩm và quản trị doanh nghiệp.
Chiến lược hóa. ACB là một trong số ít ngân
hàng, thành công trong việc lập và thực hiện
chiến lược. Chiến lược giúp ACB đi đúng hướng,
tập trung nguồn lực vào những mục tiêu ưu tiên
và do đó tạo nên bứt phá.
ACB tiên phong ngay từ chiến lược, biểu hiện
ở sự rõ ràng, tính chủ động và giá trị thực tiễn
của chiến lược. Thành công ngày hôm nay cũng
do ACB đã sớm có một chiến lược phát triển rõ
ràng cho từng giai đoạn, cụ thể ngay từ khi ra
đời. Trong những ngày đầu hoạt động, ACB đã
xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng bán
lẻ hàng đầu Việt Nam tại thời điểm đó, đây là
một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt
Nam, nhất là một ngân hàng mới thành lập như
ACB.
Ngân hàng này dũng cảm đổi mới chiến lược
khi thấy cần thiết. ACB từng thực hiện tái cấu
trúc trong 4 năm (2000-2004) và chuyển từ
“chiến lược các quy tắc đơn giản” (simple rule
strategy) sang “chiến lược cạnh tranh bằng
sự khác biệt hóa” (competitive
strategy of differenciation) vào
năm 2005. Trong chương trình
chiến lược năm năm và tầm nhìn
2015, ACB đặt ra mục tiêu trở
thành tập đoàn tài chính đa năng
hàng đầu Việt Nam với hoạt động
cốt lõi là ngân hàng thương mại
bán lẻ, hoạt động năng động, sản
phẩm phong phú, kênh phân phối
đa dạng, dựa trên nền tảng công
nghệ hiện đại, kinh doanh an toàn
hiệu quả, tăng trưởng bền vững,
đội ngũ nhân viên có đạo đức nghề
nghiệp và chuyên môn hóa cao.
Hầu hết các năng lực trên đều không đến từ
các mục tiêu ngắn hạn, mà là một quá trình
phấn đấu lâu dài của ngân hàng này. Bản thân
các mục tiêu đề ra của ACB đến năm 2010 như:
chiếm 10% thị phần huy động, 5% thị phần cho
vay, tổng tài sản đạt 11-12 tỉ đô la, vốn chủ sở
hửu trên 500 triệu đô la, ROE duy trì ở mức 27-
30%, ROA bình quân trên 1,2-1,5% cũng đều
là những con số phản ánh đúng thực lực hiện
có của ACB. Nó cho thấy vai trò của chiến lược
trong công tác điều hành thực sự có tính “định
hướng”, “dẫn dắt” chứ không chỉ làm cho có,
hay chỉ là mang tính hô hào, thiếu thực tiễn.
Chiến lược hóa giúp ACB sớm nhạy bén tham
gia vào lĩnh vực phi ngân hàng. Một lần nữa
ACB thể hiện được năng lực chớp thời cơ và tạo
112
ra sự bứt phá cho giai đoạn phát triển mới thông
qua chiến lược tăng trưởng “đa dạng hóa”. ACB
rất thành công khi đầu tư vào lĩnh vực phi ngân
hàng, đặc biệt là mảng dịch vụ chứng khoán.
Công ty Chứng khoán ACBS hiện đang là công
ty chứng khoán đứng thứ ba trong nước về thị
phần. Ngân hàng này cũng có Công ty Quản lý
nợ và Khai thác tài sản (ACBA) và sắp thành
lập Công ty cho thuê tài chính (ACBL). Nếu so
sánh với hoạt động cho vay của ngân hàng thì
đóng góp của các công ty này còn nhỏ, nhưng
các công ty này sẽ tạo ra tăng trưởng mạnh mẽ
cho ACB trong tương lai, góp phần hướng đến
cấu trúc mô hình tập đoàn (holding company)
trong vòng năm năm tới. Thương hiệu ACB
không còn giới hạn trong lĩnh vực ngân hàng
mà đang mở rộng trong các lĩnh vực như cho
thuê tài chính, bảo hiểm và đầu tư, những sản
phẩm sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn và được xem
là những sản phẩm chính cho sự tăng trưởng
của ngân hàng trong tương lai.
Có thể rút ra một số kết luận sau qua
thành công của ACB:
- Khả năng hội nhập tốt. ACB là thương hịêu
tiêu biểu cho sự năng động của một ngân hàng
thương mại cổ phần trong tiến độ hội nhập với
hệ thống ngân hàng thế giới trong bối cảnh
phần lớn thị trường ngân hàng do bốn ngân
hàng thương mại nhà nước chi phối và hầu
hết các ngân hàng có tốc độ hiện đại hóa còn
chậm do các hạn chế về mặt cơ chế quản lý hoặc
nguồn lực. Hội nhập là một năng lực có thể tạo
ra đột phá.
- Khả năng chớp thời cơ. ACB là thương hiệu
đi tiên phong trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ
và là thương hiệu thành công nhất trong lĩnh
vực này nhờ khả năng tiếp cận sớm công nghệ,
tri thức và nhân sự hiện đại, trong khi hầu hết
các ngân hàng thương mại nhà nước đều tập
trung cho mảng buôn bán truyền thống và chưa
kịp phát triển các sản phẩm bán lẻ, ngoại trừ
Vietcombank.
- Năng lực ra chiến lược và điều chỉnh. Do có
một chiến lược rõ ràng ngay từ giai đoạn đầu
phát triển nên ACB đã tập trung được nguồn
lực cần thiết (vốn, kỹ năng, quan hệ) cũng như
xây dựng được những năng lực cốt lõi then chốt
(công nghệ, nhân lực, mạng lưới phân phối)
để bứt phá nhanh chóng, vượt hẳn các đối thủ
khác và nằm trong nhóm dẫn đầu của khối các
ngân hàng thương mại cổ phần. Ngay từ đầu
ACB đã giao phó cho nó một nhiệm vụ bứt phá,
mà muốn bứt phá là phải thay đổi triệt để cách
kinh doanh hiện có của ngân hàng. Khả năng
điều chỉnh để nhanh chóng thích nghi với sự
thay đổi về môi trường cạnh tranh giúp cho
ngân hàng này luôn duy trì được những lợi thế
của mình và kịp đón đầu cơ hội mới.
- Thế mạnh sản phẩm. ACB đã khắc phục được
nhược điểm chính của ngân hàng Việt Nam là
“ngân hàng thì nhiều mà sản phẩm dịch vụ thì
ít”. Trong quá trình mở rộng quy mô, ACB đã
phát triển được rất nhiều sản phẩm mới, giúp
cho ngân hàng này trở thành một thương hiệu
đột phá và sáng tạo về mặt sản phẩm.
- Lợi thế tiên phong đã giúp cho ACB xây
dựng được bản sắc thương hiệu riêng, khác biệt
rõ rệt so với các đối thủ khác. Có thể phác họa
đôi nét về bản sắc thương hiệu ACB. Từ góc độ
sản phẩm ACB thể hiện những tính cách như
sáng tạo, đổi mới, hoàn hảo. Còn nếu xem ACB
như là một tổ chức, ngân hàng này lại thể hiện
những tính cách như tham vọng, danh tiếng,
chuyên nghiệp, thận trọng, cởi mở, thân thiện,
ham học hỏi. Dù gì thì những biểu tượng của
ACB cũng toát lên những yếu tố thể hiện cho
một tổ chức được quản lý hoàn hảo, sản phẩm
hoàn hảo và những mối quan hệ hoàn hảo, một
hình ảnh tiên phong trong đổi mới của nghành
ngân hàng Việt Nam.
ACB đang bước sang giai đoạn củng cố vị trí
tiên phong trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ và
mở rộng thương hiệu sang các lĩnh vực kế cận.
Dù việc phát huy vai trò tiên phong trong các
lĩnh vực mới là một thách thức đối với ACB vì
đòi hỏi những nguồn lực và kỹ năng mới, nhưng
những gì đạt được trong ngân hàng bán lẻ tại
Việt Nam là một lợi thế to lớn để thương hiệu
này vươn xa hơn trong tương lai.
ACB trong m
ắt truyền thông và viP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trong mắt truyền thông và các nhà QuẢn lÝ acb.pdf