Từ xa xưa người Việt Nam đã có nhận thức về mối quan hệ biện
chứng giữa con người với giới tự nhiên. Điều đó thể hiện qua những triết lý
được gửi gắm trong kho tàng tục ngữ. Bài viết phân tích các biểu hiện của triết
lý dân gian về nguồn gốc tự nhiên của con người, về khả năng cải tạo, chinh
phục tự nhiên của con người, về sự cần thiết phải tôn trọng, bảo vệ tự nhiên.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên trong tục ngữ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên...
103
TRIẾT LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI
VÀ GIỚI TỰ NHIÊN TRONG TỤC NGỮ VIỆT NAM
BÙI VĂN DŨNG*
Tóm tắt: Từ xa xưa người Việt Nam đã có nhận thức về mối quan hệ biện
chứng giữa con người với giới tự nhiên. Điều đó thể hiện qua những triết lý
được gửi gắm trong kho tàng tục ngữ. Bài viết phân tích các biểu hiện của triết
lý dân gian về nguồn gốc tự nhiên của con người, về khả năng cải tạo, chinh
phục tự nhiên của con người, về sự cần thiết phải tôn trọng, bảo vệ tự nhiên.
Từ khóa: Người Việt Nam, triết lý, mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người
đã có mối quan hệ với giới tự nhiên.
Con người vẫn có thể tồn tại được trong
một thời gian nhất định nếu bị tách rời
môi trường xã hội, nhưng con người
không thể sống nếu thiếu không khí để
thở, nước uống, thức ăn, không thể sản
xuất nếu thiếu đất, nước, ánh sáng... Đối
với những cư dân nông nghiệp lúa nước
vốn sinh sống, lao động phụ thuộc chặt
chẽ vào giới tự nhiên, thì người ta càng
ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa
con người và giới tự nhiên.
Người Việt Nam trong quá trình sống
gắn bó, đấu tranh, chinh phục tự nhiên
cũng đã nhận thức được một cách sâu
sắc mối quan hệ này, nhận thức đó thể
hiện qua những triết lý gửi gắm trong
kho tàng tục ngữ. Những triết lý đó là:
Thứ nhất, con người là sản phẩm của
tự nhiên, sống phụ thuộc vào tự nhiên
Trong khi các nhà triết học tốn rất
nhiều thời gian để tranh luận về nguồn
gốc của con người, thì nhân dân lao
động, từ rất lâu trước đó, đã nhận thức
một cách tự giác rằng: con người là sản
phẩm của giới tự nhiên và gắn bó khăng
khít với giới tự nhiên. Trong số 4.160
câu tục ngữ trong công trình Tục ngữ
Việt Nam (của Chu Xuân Diên - Lương
Văn Đang - Phương Tri) có 535 câu,
(chiếm 12,86 %) đề cập đến giới tự
nhiên. Điều ấy cho thấy, người Việt
Nam luôn xem tự nhiên và mối quan hệ
với giới tự nhiên là một trong những
mối quan tâm hàng đầu của mình.(*)
Khi khẳng định nguồn gốc tự nhiên
của con người, người Việt Nam có quan
niệm duy vật khi khẳng định: Người ta
là hoa đất. Con người không phải là
thực thể tách khỏi hoàn toàn giới tự
nhiên, mà bản thân con người là một
phần của giới tự nhiên. Tư tưởng đó thể
hiện một triết lý sâu sắc: Con người là
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Vinh.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014
104
tinh hoa của đất trời, là một thực thể
phát triển cao của giới tự nhiên, luôn
gắn kết với giới tự nhiên. Đây là quan
niệm duy vật. Đây cũng là một quan
niệm rất biện chứng.
Tuy nhiên, họ cũng có quan niệm duy
tâm khi lí giải nguồn gốc của con người.
Theo quan niệm của họ, trời và đất là
hai đối tượng tối cao của giới tự nhiên
có quyền năng tạo dựng ra muôn loài.
Điều đó thể hiện qua các câu tục ngữ
như: Trời sinh, trời dưỡng; Trời sinh
voi, trời sinh cỏ... Trời sinh ra và nuôi
dưỡng vạn vật theo quy luật riêng của
nó. Chính vì vậy, con người không nên
bi quan, mà nên có niềm tin vào sức
mạnh của tự nhiên. Tất cả mọi điều
trong cuộc sống có được dường như đều
là “nhờ trời”. Trong quan hệ với trời,
người là đối tượng bị phụ thuộc, không
ai có thể đoán được ý trời: Người tính
không bằng trời tính. Trời quyết định
mọi điều, từ tính nết cho đến sinh mệnh:
Cha mẹ sinh con, trời sinh tính; Trời
kêu ai nấy dạ. Không chỉ tạo sinh vạn
vật, trời còn tạo điều kiện sống cho tất
cả mọi người, không phân biệt đối xử:
Trời chẳng đóng cửa ai. Trời đại diện
cho công lý, công bằng xã hội: Trời nào
có dung kẻ gian, có oán người ngay.
Dù đôi lúc người Việt Nam cũng có
tư tưởng “coi trời bằng vung”, giận gì
thì người ta cũng nhằm trời mà kêu,
chửi, trút giận. Nhưng không thể phủ
nhận rằng, trong tiềm thức, người Việt
Nam luôn xem trời là đấng tạo sinh
muôn loài. Người Việt Nam có tục lệ
thờ cha trời, mẹ đất. Bánh chưng và
bánh dày cũng được hình tượng hóa từ
mô hình trời tròn, đất vuông. Có chuyện
gì thì người Việt Nam xưa và cả nay đều
“lạy trời”; thậm chí thần thánh hóa trời.
Chẳng hạn, người Việt Nam thường kêu
“trời ơi”; họ tin rằng con người nếu làm
điều gì trái với đạo trời, thì sẽ bị “trời
đày”, “trời đánh”... Đây thực sự là một
kiểu sùng bái tự nhiên, thần thánh hóa tự
nhiên - một quan niệm khá phổ biến
không chỉ ở Việt Nam. Quan niệm này
còn được thể hiện rõ nét hơn trong quan
niệm về ông bà thần Bếp (sứ giả của
Ngọc Hoàng xuống trần thế cai quản
mọi mặt cuộc sống của con người, hàng
năm về trời để bẩm báo). Trời như vậy
vừa là đấng liêng thiêng, chi phối cuộc
sống con người một cách toàn diện, lại
vừa là lực lượng bình thường. Điều đó,
thể hiện tính chất “nhị nguyên” trong
quan niệm về giới tự nhiên của người
Việt Nam.
Khi con người là một thực thể gắn kết
giữa cái sinh vật và xã hội, con người là
một phần của giới tự nhiên, thì mọi hoạt
động của con người không tách khỏi
giới tự nhiên mà gắn kết chặt chẽ với
giới tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa,
người Việt Nam đã nhận thức được thế
giới tự nhiên luôn vận động và biến đổi
theo quy luật khách quan mà con người
không thể chi phối: Sóng trước đổ đâu,
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên...
105
sóng sau đổ đó; Trăng đến rằm thì trăng
tròn/Sao đến tối thì sao mọc; Còn da
lông mọc, còn chồi nẩy cây. Vì là sản
phẩm của tự nhiên, nên con người sống
phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên và
không thể thoát khỏi những quy luật đó:
Chạy trời không khỏi nắng; Chạy mưa
không khỏi trời. Sự nhận thức này thậm
chí đã chứa đựng tư tưởng biện chứng
(dù vẫn còn sơ khai) về sự vận động,
phát triển của giới tự nhiên. Theo người
Việt Nam, sự vật trong tự nhiên phát
triển đến một độ nào đó (lượng) sẽ tạo
thành sự chuyển đổi về chất: Tre già,
măng mọc; Tức nước vỡ bỡ; Quá mù ra
mưa; Góp gió thành bão; Góp cây nên
rừng; Mèo già hóa cáo... Chính vì nhận
thức như vậy, nên người Việt Nam
thường có cái nhìn lạc quan, tin tưởng
vào tương lai và rất tôn trọng các quy
luật vốn có của tự nhiên.
Trong quá trình sống, do phải dựa vào
tự nhiên, phải thừa hưởng từ tự nhiên,
luôn cố gắng tìm cho mình cái ăn, cái
mặc, chỗ ở và luôn luôn đấu tranh với tự
nhiên để vươn lên với mức sống cao hơn.
Cho nên, người Việt Nam đã nhận thức
được sự tác động của tự nhiên đối với
sản xuất, vai trò quyết định của tự nhiên
đối với sản xuất nông nghiệp: Tháng
giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà;
Được mùa lúa, úa mùa cau; Được mùa
cau, đau mùa lúa; Được mùa quéo, héo
mùa chiêm. Trăng tỏ hay mờ cũng quyết
định đến sự sinh trưởng của vật nuôi, cây
cối: Tỏ trăng mười bốn được tằm/Tỏ
trăng hôm rằm thì được lúa chiêm;
Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu.
Hiệu quả sản xuất thậm chí phụ thuộc cả
vào số ngày trong một tháng: Thiếu
tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ.
Như vậy, có thể thấy, vì người Việt
Nam là những cư dân nông nghiệp lúa
nước, sinh sống và sản xuất phụ thuộc
phần lớn vào tự nhiên, nên mối quan hệ
giữa người Việt Nam với tự nhiên là vô
cùng khăng khít. Tự nhiên là nguồn gốc,
là môi trường sinh sống mà con người
phải tuân thủ “luật chơi” của nó. Điều
này phù hợp với tư tưởng của C.Mác
sau này khi ông khẳng định giới tự
nhiên là “thân thể vô cơ” của con người.
Dù con người có khả năng cải tạo, tác
động trở lại một cách chủ động và tích
cực, nhưng cả đời sống vật chất và tinh
thần của con người vẫn gắn bó khăng
khít với tự nhiên. Điều này khiến cho
người Việt Nam có thái độ tôn trọng,
sùng bái và ý thức bảo vệ tự nhiên tích
cực, tự giác.
Thứ hai, con người có khả năng
chinh phục và cải tạo tự nhiên
Một điều khá đặc biệt trong quan
niệm, cách ứng xử của con người Việt
Nam với tự nhiên là ở chỗ tuy nhận thức
mình là một bộ phận của tự nhiên, sống
phụ thuộc vào tự nhiên, nhưng người
Việt Nam cũng cho rằng, mình có khả
năng nhận thức, chinh phục và cải tạo tự
nhiên. Không thể ỷ lại thiên nhiên, không
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014
106
thể chỉ thừa hưởng những cái gì có sẵn
trong tự nhiên để thỏa mãn cho nhu cầu
của mình, mà cần phải nhận thức, lợi
dụng và cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải
phục vụ cho cuộc sống của mình.
Người Việt Nam luôn nhận thức được
ranh giới khác nhau giữa việc chinh
phục và chinh phạt tự nhiên. Tự nhiên
có đời sống riêng của nó mà con người
không thể thay đổi. Do vậy, bằng tư duy
biện chứng rất linh hoạt, uyển chuyển
của mình, người Việt Nam thiên về việc
chinh phục tự nhiên theo hướng lợi dụng
các quy luật tự nhiên để phục vụ lợi ích
của mình. Ví như, họ căn cứ vào thời
tiết nắng, mưa để sắp xếp công việc sao
cho phù hợp: Bao giờ đom đóm bay ra/
Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng;
Nắng sớm thì đi trồng cà, mưa sớm thì ở
nhà phơi thóc. Đây là một kinh nghiệm
dự báo thời tiết: vào thời vụ trồng cà,
nếu sáng sớm mà có nắng, thì chiều lại
mưa (lúc đó cà mới được trồng thì dễ
bén rễ), nếu lác đác mưa buổi sớm, thì
chiều sẽ nắng to (thóc phơi sẽ được
nắng). Họ còn căn cứ vào điều kiện địa
hình đất đai để quyết định canh tác cây
gì: Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy
lúa chiêm. Trong tục ngữ, nhân dân lao
động hay có xu hướng khuyên con
người lợi dụng, nương theo các hiện
tượng tự nhiên để hoạt động sao cho đạt
hiệu quả: Trồng trầu đắp nấm cho cao/
Che cho sương nắng khỏi vào gốc cây;
Mồng tám tháng tám không mưa/Bỏ cả
cày bừa mà nhổ lúa đi... Vì cây trầu
không thể chịu được địa hình đất trũng,
sương nắng sẽ làm cây chết, nên cần có
biện pháp khắc phục điều này bằng cách
đắp đất cao và che chắn mưa gió kĩ
càng. Hay nếu như tháng tám vào giai
đoạn lúa trỗ đòng, nếu có mưa thì lúa
tốt, không có mưa sẽ báo hiệu đại hạn,
mùa màng sẽ bị thất bát, có trồng cũng
thất thu, vô ích (Tất nhiên, đó chỉ là
trong điều kiện thủy lợi chưa phát triển,
sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào tự
nhiên). Có thể thấy, bản chất quá trình
chinh phục tự nhiên của người Việt
Nam là nương theo, lợi dụng quy luật,
điều kiện tự nhiên để định hướng hoạt
động hiệu quả, biến cái bất lợi thành có
ích chứ không phải là sự thay đổi tự
nhiên theo ý muốn của mình. Tư tưởng
của người Việt Nam truyền thống là
sống thuận hòa, làm bạn, hợp tác với tự
nhiên một cách linh hoạt, uyển chuyển
chứ không phải thống trị tự nhiên. Điều
này có nguyên nhân từ những hạn chế
về trình độ khoa học kỹ thuật cũng như
tư tưởng tôn trọng, thần thánh hóa tự
nhiên đã ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức
của người Việt Nam từ ngàn xưa.
Bên cạnh tư tưởng chinh phục tự
nhiên, thông qua tục ngữ, người Việt
Nam còn có nhận thức được khả năng
của mình trong việc cải tạo tự nhiên (ở
một mức độ nào đó). Mối quan hệ giữa
con người, xã hội loài người với giới tự
nhiên là mối quan hệ tác động qua lại
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên...
107
lẫn nhau, trong đó con người tác động
vào tự nhiên nhằm tạo ra những biến đổi
có lợi phục vụ cho lợi ích của mình. Sự
tác động đó không phải là vô thức mà là
một hoạt động có ý thức của con người.
Người Việt Nam rất đề cao công sức
của con người trong việc cải tạo thiên
nhiên, đặc biệt là các điều kiện thiên
nhiên trong nông nghiệp, để tạo ra hiệu
quả sản xuất cao. Lịch sử dân tộc đã cho
thấy, ngay từ thời xa xưa, người Việt
Nam đã biết đắp đập, be bờ chống lũ lụt;
đào kênh, mương để dẫn nước; vỡ
hoang, khai khẩn để mở rộng diện tích
canh tác... Chính vì vậy, người Việt
Nam nhận thức được sâu sắc ý nghĩa
của việc bỏ công sức, thời gian trong lao
động sản xuất để khắc phục những điều
bất lợi từ thiên nhiên. Họ biết rằng, nếu
lao động chăm chỉ, con người sẽ có cái
ăn, cái mặc, bởi vì trời, đất không phụ
người bao giờ: Tay làm hàm nhai, tay
quai miệng trễ; Một lượt tát, một bát
cơm. Nếu chăm chỉ làm cỏ cho lúa thì
hiệu quả mang lại ngang tầm với bón
phân cho đất: một nắm cỏ, một giỏ phân.
Mặc dù điều kiện khí hậu không thuận
lợi, nhưng nếu đầu tư chăm bón “mạ
già, ruộng ngấu”, thì sự bất lợi ấy trở
nên chẳng đáng kể: Tua rua thì mặc tua
rua/ Mạ già ruộng ngấu không thua bạn
hiền. Như vậy, dù có những lúc cái nhìn
của người Việt Nam về tự nhiên vẫn
mang màu sắc duy tâm, siêu hình,
nhưng người Việt Nam cũng đã nhận
thức được khả năng vươn lên làm chủ
của con người trong việc chinh phục và
cải tạo các điều kiện tự nhiên. Điều này
cho thấy tính chất duy vật trong cái nhìn
của người Việt Nam về tự nhiên.
Thứ ba, con người cần tôn trọng và
bảo vệ tự nhiên
Người Việt Nam rất tôn trọng các lực
lượng tự nhiên. Họ xem các lực lượng tự
nhiên là thứ của cải quý giá trời ban
tặng cho con người. Trong nông nghiệp,
đất và nước được xem như yếu tố hàng
đầu, quyết định hiệu quả sản xuất: Tấc
đất tấc vàng; Hòn đất nỏ bằng giỏ
phân; Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống... Gió cũng được xem như là lực
lượng hỗ trợ đắc lực, làm lao động của
con người đỡ tốn sức: Gió thổi là chổi
trời; Gió đông là chồng lúa chiêm/ Lúa
bắc là duyên lúa mùa... Trong quá trình
lao động sản xuất, người Việt Nam lại
có xu hướng xem tự nhiên là bạn, đối xử
rất thân tình: Con trâu là đầu cơ nghiệp.
Con trâu chính là tài sản quý giá, là điều
khởi đầu mang lại sự khá giả, gây dựng
cả cơ nghiệp cho gia đình. Người và trâu
không phải là quan hệ chủ - vật nuôi, mà
là những người bạn gắn bó thân tình,
cùng nhau làm việc như lời bài ca dao:
Trâu ơi, ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài
ruộng trâu cày với ta
Sự tôn trọng đối với tự nhiên còn thể
hiện ở chỗ, con người cần thiết phải tác
động vào tự nhiên, nhưng đó là sự tác
động có mục đích tính toán, có kế hoạch
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014
108
từ trước trên cơ sở tôn trọng tự nhiên,
tôn trọng các quy luật khách quan. Sự
tác động đó mang tính chủ động sáng
tạo, nhưng phù hợp với các quy luật của
tự nhiên mới mong mang lại kết quả
cao: Biết chiều trời, nước đời chẳng
khó. Chiều trời không gì khác chính là
biết hành động, tác động vào tự nhiên
đúng với các quy luật khách quan trên
cơ sở tôn trọng tự nhiên. Nhưng dân
gian vẫn sử dụng ngôn ngữ rất mềm
dẻo: “Chiều trời”. Chiều trời chứ không
phải sợ trời, kính trời. Hoạt động sản
xuất của con người chỉ có kết quả cao
khi sự tương tác con người - tự nhiên
phù hợp với quy luật tự nhiên.
Bên cạnh đó, người Việt Nam xem
mỗi lĩnh vực tự nhiên có một vị thần cai
quản. Với vị thần tự nhiên ấy, không ai
dám làm trái, mà luôn phải có thái độ
thăm dò: Trông trời, trông đất, trông
mây; Lạy trời mưa xuống/ Lấy nước tôi
uống/ Lấy ruộng tôi cày; Nhờ trời hòa
cốc, phong đăng/ Cấy lúa lúa tốt, nuôi
tằm tằm tươi.
Người Việt Nam ý thức được sự phụ
thuộc của mình vào thiên nhiên. Và
trong bối cảnh trình độ nhận thức còn
hạn chế, khả năng chinh phục tự nhiên
chưa nhiều, trước các thế lực có tính
chất tự phát của thiên nhiên, người Việt
Nam cổ xưa chỉ biết lạy trời, nhờ trời
cầu cho mưa thuận gió hòa để được
hưởng các ân huệ từ tự nhiên. Và nếu
biết thành kính với trời thì trời sẽ mang
lại những điều tốt đẹp trong cuộc sống:
nước uống, ruộng để sản xuất, sự no ấm,
mùa màng tốt tươi.
Tác động đến tự nhiên, cải tạo tự
nhiên là một thắng lợi của con người.
Tự nhiên tác động trở lại mang tính tự
phát. Sự tác động trở lại của tự nhiên có
lợi hay có hại đối với con người là phụ
thuộc vào việc con người tác động tích
cực hay tiêu cực đến tự nhiên. Đó cũng
là mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết
quả: con người tác động vào tự nhiên
như thế nào thì tự nhiên sẽ trả lại cho
con người sản phẩm tương ứng: Gieo gì
gặt ấy; Gieo gió gặt bão.
Bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XX, mối
quan hệ giữa con người với thiên nhiên
trên hành tinh chúng ta đã bị mất cân
bằng (do cạn kiệt tài nguyên rừng biển,
đất đai; do ô nhiễm khí hậu, nguồn nước
trầm trọng; do chất hóa học bị lạm dụng
trong sản xuất...). Dường như con người
đang nhầm lẫn giữa việc làm chủ và
việc phá hoại tự nhiên. Đáng nhẽ việc
cần làm nhất là tôn trọng, lợi dụng các
quy luật tự nhiên, tiến hành cải tạo để tự
nhiên phục vụ chúng ta hiệu quả hơn thì
con người lại không ngừng làm biến đổi
tự nhiên theo lợi ích chủ quan, trước mắt
của mình mà bất chấp quy luật. Đáng
nhẽ khai thác đi đôi với phục hồi thì con
người lại chỉ chú tâm khai thác một cách
triệt để, thậm chí lãng phí. Và tất yếu,
chúng ta phải đối diện với sự “báo thù”
dữ dội, khôn lường, các hiểm họa rình
Triết lý về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên...
109
rập từ tự nhiên: ô nhiễm môi trường; các
hiện tượng thời tiết cực đoan (bão, lốc
xoáy, lũ lụt, hạn hán); không còn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất...
Nguy cơ này đòi hỏi con người phải
lưu tâm hơn nữa đến các quy luật phát
triển sao cho sự phát triển của con người
có thể vẫn không làm tổn hại đến giới tự
nhiên, mà ngược lại, làm giàu cho tự
nhiên theo hướng con người hài hòa với
tự nhiên. Việc nắm các quy luật tự
nhiên, sự phát triển của nhu cầu ngày
càng kích thích thêm những hoạt động
định hướng của con người nhằm chinh
phục, chế ngự các thế lực, các hiện
tượng tự nhiên, bắt chúng phục vụ cho
con người. Thiên nhiên là một người
bạn của con người, vì thế nó không chịu
được thái độ đối xử dã man. Sử dụng
một cách hợp lí, tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên, có thái độ quan tâm và chí
tình đối với tự nhiên là điều cần thiết,
bắt buộc nếu muốn tồn tại và phát triển
bền vững trong tương lai.
Tóm lại, người Việt Nam có những
triết lý nhất định về mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên. Đó là biểu hiện
của một trình độ nhận thức nhất định về
thế giới tự nhiên trong điều kiện khoa
học kỹ thuật chưa phát triển cao. Nghiên
cứu triết lý của người Việt Nam về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên qua
tục ngữ, chúng ta có thể nhận thấy rằng,
người Việt Nam biết tôn trọng tự nhiên
và từ đó xây dựng được một lối ứng xử
với tự nhiên thể hiện một tầm văn hóa
cao. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ về
thái độ, cách ứng xử của mình với tự
nhiên trong thời hiện đại.)
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Hạnh Cẩm - Bích Hằng - Việt Anh
(2000), Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Chu Xuân Diên - Lương Văn Đang -
Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ Quang
Hào (2000), Từ điển Thành ngữ và Tục Ngữ
Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
4. Bùi Văn Dũng (2008), “Tư tưởng triết
học về nguồn gốc và bản chất con người trong
thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, số 5 (90).
5. Bùi Văn Dũng (2013), “Triết lý về giáo
dục trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68).
6. Vũ Hùng (1994), “Tìm hiểu những yếu tố
Triết học trong Tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí
Triết học, số 1.
7. Đinh Gia Khánh (1990), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên) - Nguyễn
Thúy Loan - Phan Lan Hương - Nguyễn Luân
(2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
9. Mã Giang Lân (1998), Tục ngữ, ca dao
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ, ca dao,
dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014
110
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23303_77898_1_pb_8018_2009662.pdf