Câu hỏi - Trả lời ôn tập Triết

1) Phân tích điều kiện ra đời và những ưu nhược điểm của sản xuất hàng hóa. Hãy liên hệ với thực tiễn Việt Nam? Định nghĩa: Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của XH thông qua trao đổi mua bán. Có 2 điều kiện: Thứ nhất là phải có sự phân công lao động XH, tức là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động XH vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động XH sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng hoá.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 7544 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu hỏi - Trả lời ôn tập Triết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tuần hoàn và trung chuyển là gì? Vì sao nói trong tính vận động 3 hình thái tuần hoàn CN của TB có khả năng tách rời nhau. Sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu của tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Tuần hoàn tư bản Chu chuyển tư bản Đối tượng nghiên cứu là mặt chất của sự vận động tư bản. Đề cập đến 3 giai đoạn tuần hoàn của tư bản, nêu công thức tuần hoàn tư bản, rút ra khái niệm tuần hoàn của tư bản; trình bày 3 hình thức tuần hoàn của TB công nghiệp. Đối tượng nghiên cứu là mặt lượng của sự vận động tư bản. Phải trình bày khái niệm chu chuyển tư bản, thời gian chu chuyển, số vòng chu chuyển, tư bản cố định, tư bản lưu động, căn cứ, ý nghĩa phân chia tư bản cố định, chu chuyển chung, chu chuyển thực tế và tác dụng. phương pháp tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. b. Căn cứ nào phân chia tư bản bất biến, khả biến, tư bản cố định và tư bản lưu động? nêu mối quan hệ giữa 2 cặp trên. Căn cứ và phân chia tư bản bất biến và khả biến, tư bản lưu động và cố định. Tư bản bất biến và tư bản khả biến. Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó, C.Mac gọi là tư bản bất biến. Bộ phân tư bản dung để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và biến đi trong tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hóa từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phân tư bản biến thành lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê ma tăng lên, tức là biến đổi về lượng, C.Mac gọi là tư bản khả biến. à Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai tro quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên. Tư bản cố định và tư bản lưu động. Căn cứ vào tính chất chu chuyển khác nhau, người ta chia tư bản sản xuất thành hai bộ phận: Tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất đồng thời là bộ phận chủ yếu của tư bản bất biến ( máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong quá trình sản xuất. Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Tư bản lưu động là một bộ phận là một bộ phận của tư bản sản xuất, gồm một phần tư bản bất biến( nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ..) và tư bản khả biến( sức lao động) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất. Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển cửa tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư trong năm tăng lên. à Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động không phản ánh được nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế. Nó là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định, vốn lưu động một cách có hiệu quả cao. Đặc biệt, với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, sự đổi mới tiến bộ của thiết bị, công nghệ diễn ra hết sức nhanh chóng, thì việc giảm tối đa hao mòn tài sản cố định, nhất là hao mòn vô hình là đòi hỏi bức xúc đói với khoa học và nghệ thuật quản lý kinh tế. Chu kì của khủng hoảng kinh tế là gì? Vì sao khủng hoảng kinh tế trong TB có tính chu kì. Những biểu hiện chủ yếu của các giai đoạn trong KHKT. Ý nghĩa nghiên cứu? Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng kế tiếp. Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Khủng hoảng kinh tế trong TB có tính chu kì. Khủng hoảng KT trong CNTB mang tính chu kì là do khủng hoảng là phương thức giải quyết tạm thời mâu thuẫn cơ bản của CNTB. Những biểu hiện chủ yếu của các giai đoạn trong KHKT. Khủng hoảng kinh tế gồm có 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Và mỗi giai đoạn có các biểu hiện khác nhau: Khủng hoảng là giai đoạn mà trong đó hàng hoá bị ứ đọng không bán được, giá hàng sụt, tiền tệ khan hiếm, nhiều xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp. Khủng hoảng công nghiệp và thương nghiệp đưa đến khủng hoảng cả hệ thống tiền tệ - tín dụng. Khủng hoảng đã phá huỷ nghiêm trọng lực lượng sản xuất xã hội. Tiêu điều là giai đoạn tiếp theo khủng hoảng. Trong giai đoạn này, sản xuất vẫn đình trệ. Cân bằng được lập lại ở trạng thái thấp. Công nghiệp và thương nghiệp hoạt động yếu ớt. Giá cả hàng hoá ở mức rất thấp. Tiền nhàn rỗi nhiều nhưng không có nơi đầu tư, tỷ suất lợi tức giảm xuống. Để thoát khỏi tình trạng trì trệ, các nhà tư bản lại đầu tư mới và tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Phục hồi là giai đoạn trong đó tư bản cố định tiếp tục được đổi mới, sản xuất được mở rộng đạt mức như trước khi nổ ra khủng hoảng. Trong giai đoạn này, đa số công nhân có việc làm, giá hàng tăng, lợi nhuận tăng lên. Hưng thịnh là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ kinh tế. Lúc này, mức sản xuất vượt quá mức cao nhất cuả chu kỳ trước. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, giá cả hàng hoá tăng lên, số người lao động và tiền lương cũng tăng lên. Guồng máy kinh tế dường như hoạt động hết công suất. Điều kiện của một cuộc khủng hoảng mới cũng dần chín muồi. Ý nghĩa nghiên cứu: Qua phần nghiên cứu, giúp ta hiểu rõ hơn về khủng hoảng kinh tế, để có kế hoạch làm giảm tối thiếu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Đồng thời cũng nêu lên khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản. Ta có thể dựa vào các thời kì của Khủng hoảng kinh tế để đưa ra các biện pháp, chính sách kinh tế để phát triển một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất cho đất nước nói chung và kinh tế nói riêng. Sự khác nhau căn bản về kinh tế giữa chủ nghĩa tb cạnh tranh va TB độc quyền là gì? Tại sao có sự khác nhau đó? Tại sao nói cạnh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền? Sự khác nhau căn bản về kinh tế giữa chủ nghĩa tb cạnh tranh va TB độc quyền. Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.Thực chất, đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động mới trong tình hình kinh tế. Chủ nghĩa tư bản độc quyền: được sinh ra từ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh khi tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến mức độ nòa đó sẽ dẫn đến độc quyền. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự dom độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh mà còn làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản với tư bản độc quyền vẫn có sự khác nhau về kinh tế . Sự khác nhau căn bản giữa CNTB cạnh tranh với CNTB độc quyền là: CNTB độc quyền có sự thống trị của các tổ chức độc quyền mang tính phổ biến, chúng chi phối sư phát triển của toàn bộ nền kinh tế, còn CNTB tự do cạnh tranh chưa có sự thống tri của các tổ chức độc quyền, trong nền kinh tế phổ biến là các nhà tư bản nhỏ, vừa. à nguyên nhân của sự khác biêt là do sự khác biệt của quy luật giá tri và giá tri thặng dư. Trong CNTB độc quyền, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luât lợi nhuận độc quyền cao. Từ đó sẽ dẫn đến các sự khác biệt jhacs như giá cả, quan hệ sản xuất…. Cạnh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền. Vì cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tâp trung sản xuất, tích tụ sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Vì vậy canh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền. Trình bày sư khác nhau về hình thức, biện pháp cạnh tranh trong giai đoạn tự do cạnh tranh và độc quyền? Vì sao nói độc quyền là kết quả tất yếu của cạnh tranh độc quyền, thời độc quyền làm cho cạnh tranh gay gắt hơn. . Sư khác nhau về hình thức, biện pháp cạnh tranh trong giai đoạn tự do cạnh tranh và độc quyền. CNTB tự do cạnh tranh CNTB độc quyền Trong nền kinh tế phổ biến là các nhà tư bản nhỏ, vừa có tiềm lực tương đương nhau, nên không có khả năng khống chế lẫn nhau. Giá cả được hình thành do sự tác động bởi các quy luật của thị trường. Quy luật giá tri biểu hiện thành giá cả sản xuất. Gsx= k+P. Quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân. Các hình thức cạnh tranh phổ biến là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Quan hệ sở hữu: là sở hữu tư nhân tư bản thuần túy, đa ssos là sở hữu của các nhà tư bản nhỏ, vừa. Trong nền kinh tế có sự thống trị của các tổ chức độc quyền có tiềm lực lớn. Các tổ chức độc quyền quyết định giá cả. Quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền (Gđq) Gđq=k+Pđq. Quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Các hình thức cạnh tranh phổ biến là: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các nhà tư bản ngoài độc quyền; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau; cạnh tranh trong nội bộ của tổ chức độc quyền. Quan hệ sở hữu: có sự điều chỉnh từ sở hữu tư nhân tư bản thuần túy, sang sở hữu tư nhân tư bản lớn, hỗn hơp của tập thể các nhà tư bản. b. Thời độc quyền làm cho cạnh tranhg gay gắt hơn. Mặc dù độc quyền ra đời từ cạnh tranh tự do nhưng sự xuất hiện các tổ chức độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, mà tồn tại song song với cạnh tranh. Những hình thức cạnh tranh chủ yếu là: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau; cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền; cạnh tranh giữa tổ chức độc quyền và tổ chức không độc quyền. Hơn thế nữa, cạnh tranh có xu hướng gay gắt thêm trong nội bộ ngành và giữa các ngành sản xuất với nhau vì quy mô và sức mạnh to lớn của các lực lượng tham gia cạnh tranh. Mặc dù độc quyền thay thế tự do cạnh tranh nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Cơ sở kinh tế của chúng chính là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa trên sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì sao trong chủ nghĩa TB, nhà nước lại có sự can thiệp vào kinh tế. Biểu hiện của sự can thiệp này là gì? Trong chủ nghĩa TB, nguyên nhân nhà nước lại có sự can thiệp vào kinh tế. Một là: Sự phát triển của LLSX dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hoá của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế. Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một só ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn. Ba là: sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước phải có chính sách để giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phat triển phúc lợi xã hội. Bốn là: Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ….trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước….  Năm là: Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các tổ chức liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích giữa các đối thủ trên thì trường thế giới. Đòi hỏi có sự điều tiết các quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trò quan trọng để giải quyết các quan hệ đó. Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH hiện thực và tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, đòi hỏi có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế. Biểu hiện chủ yếu của sự can thiệp. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền va nhà nước: Là sự thâm nhâp của các nhà tư bản độc quyền vào bộ máy nhà nước và ngược lại. Sự kết hơp về nhân sự dược thể hiện ở chổ thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cuong vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu về các tổ chức độc quyền. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước: Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiêm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tử bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân đồng thời làm gia tăng sở hữu nhà nước. Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiêp nhà nước trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội. Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều cách thức khác nhau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn ngân sách; quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau: 1/ bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản bằng viêc tham gia vao những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên cứu khoa học cao. 2/ giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn. 3/ làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước điều tiế một số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản: Sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiế quá trình kinh tế thông qua hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước. Đó là môt tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước bao gồm bộ máy quản lý gắn với hê thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiế sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền. Biểu hiện rõ nhất trong sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là các chính sách kinh tế trên hiều lãnh vực bao gồm: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát; chính sách kinh tế đối ngoại… Các công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hóa hay chương trình kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý. Xu hướng vận động của CNTB là gì? Vì sao tồn tại xu hướng đó? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này. Nguyên nhân tồn tại và xu hướng vận động của CNTB. Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lương sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao thi quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sử hữu, quản lý và phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Theo sự phân tích của Mác và Lenin, đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới – sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương thức sản xuất từ bản chủ nghĩa. Ý nghĩa việc nghiên cứu. Giúp ta nhận thức rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó, giai cấp sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân. Giá trị m là gì? Lợi nhuận là gì? Trình bày sự khác biệt của 2 phạm trù này? Tại sao nói lợi nhuận là biến tướng của giá trị thặng dư. Giá trị m và lợi nhuận. Giá trị m là giá trị thặng dư, là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao dộng do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thăng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm ma ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới. Lợi nhuận: giữa giá trị hoàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu về được một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này gọi là lợi nhuận. Sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Phạm trù giá trị thặng dư ohanr ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân. Phạm trù lợi nhuận chăng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư. C.mác viết:” Giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoa.” Vì vậy, phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta hiểu lầm rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Lợi nhuận là biến tướng của giá trị thặng dư. Để tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm hai phần là : lao động quá khứ (lao động vật hoá), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c) ; và lao động hiện tại (lao động sống), tức là lao động tạo ra giá trị mới (m + v). Đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì, chi phí lao động này gọi là chi phí thực tế của xã hội, chi phí tạo ra giá trị hàng hoá : W = c + v + m. Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hoá họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí này gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là k: k = c + v. Giữa chi phí sản xuất và giá trị hàng hoá khác nhau cả về chất lẫn về lượng. Cụ thể là : + Về chất, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản, nó không có quan hệ gì đến việc hình thành giá trị và quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị; còn giá trị hàng hoá là chi phí thực tế về lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. + Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) luôn nhỏ hơn chi phí thực tế, tức là nhỏ hơn giá trị của hàng hoá (W) (vì : k = c + v D thì G W, nên p > m. Nhưng trong toàn xã hội, do tổng giá cả bằng tổng giá trị hàng hóa nên tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Tức là cơ sở của lợi nhuận là giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư càng nhiều thì khối lượng lợi nhuận càng lớn và ngược lại. Song, cũng như giá cả xoay quanh giá trị của nó, trong hiện thực, mức lên xuống của lợi nhuận xoay quanh giá trị thặng dư. Lợi nhuận bình quân P là gì? Vì sao nói sự hình thành lợi nhuận bình quân phản ánh sự sai lệch….. dưới nhà TB làm thuê. Lợi nhuận bình quân. Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thi lượng lợi nhuận của tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, và do đó, nếu lượng tư bản ứng ra bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân. Vậy lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản thế nao, ký hiệu là P ngang. sự hình thành lợi nhuận bình quân phản ánh sự sai lệch. Lợi nhuận bình quân, một mặt phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra; mặt khác, nó vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân. Sự thực thì, lợi nhuận bình quân chỉ là giá trị thặng dư được phân phối lại theo tỷ lệ thích ứng với số tư bản đầu tư vào các ngành khác nhau, trong điều kiện tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Trước sau, giá trị thặng dư vẫn là cơ sở, là gốc rễ, còn lợi nhuận bình quân vẫn là hình thái biểu hiện cụ thể của giá trị thặng dư. Trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận bình quân vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư. Phân biệt sự sai biệt của địa tô chênh lệch 1 và 2? Ý nghĩa nghiên cứu. Sự sai biệt giữa địa tô chênh lệch 1 và 2. Địa tô chênh lệch trong chủ nghĩa tư bản là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó được sinh ra do độc quyền kinh doanh ruộng đất, nhưng vì có độc quyền sở hữu ruộng đất nên được trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Địa tô chênh lệch I liên quan đến độ tốt xấu của ruộng đất và vị trí của đất đai. Trong trường hợp, độ màu mỡ khác nhau, trên những mảnh đất có độ màu mỡ trung bình và tốt, địa chủ sẽ thu được địa tô chênh lệch I. Lợi nhuận siêu ngạch được trả cho địa chủ, với tư cách là người sở hữu ruộng đất, là địa tô chênh lệch I. Địa tô chênh lệch I có thể được hình thành do vị trí thuận lợi của đất đai. Địa tô chênh lệch II là địa tô thu được trên những ruộng đất được dùng thêm nhiều tư liệu sản xuất và lao động hơn trên cùng một diện tích. Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều là lợi nhuận siêu ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau. Chỉ khác là, một loại thì do đầu tư trên những thửa ruộng có điều kiện khác nhau (quảng canh), một loại thì do hiệu quả những lần đầu tư khác nhau trên cùng một thửa ruộng (thâm canh), còn giá cả sản xuất chung vẫn do giá cả sản xuất của tư bản đầu tư có hiệu quả thấp nhất quyết định. Ý nghĩa nghiên cứu. Giúp ta phân biệt được 2 loại địa tô chênh lệch, thấy rõ những mâu thuẫn của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa và biện bạch về nguyên nhân sự nghèo khổ của quần chúng, nguyên nhân làm cho ruộng đất ngày càng xấu là do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch thuộc về nhà tư bản. Do đó, nhà tư bản tìm mọi cách bòn rút đất đai, không chú ý đến cải tạo đất đai và làm cho độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm. Nhà tư bản nông nghiệp kinh doanh trên ruộng có năng suất thấp có phải nộp địa tô hay không? Vì sao? Cơ sở hình thành của loại địa tô này. Nhà tư bản nông nghiệp kinh doanh trên ruộng có năng suất thấp có phải nộp địa tô hay không? Vì sao? Dù đất tốt , trung bình hay thấp thì tư bản NN vẫn phải nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ . Vì dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , do có sự độc quyền tư hữu về ruộng đất nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất tư ban chủ nghĩa trong NN >> NN thường lạc hậu hơn CN >> Cấu tạo hữu cơ của TB trong NN > Với trình độ bóc lột ngang nhau , lượng TB ứng ra = nhau thì lượng GTTD trong NN bao giờ cũng cao hơn NN . Vì vậy nông sản dc bán ra theo GT chứ ko bán theo giá cả sản xuất chung . Phần chênh lệch giữ giá trị NS và giá cả sx chung cũng là phần chênh lệch giữa gttd được tạo ra trong NN và lợi nhuận bình quân sẽ dc giữa lại để nộp địa tô cho địa chủ . Cơ sở hình thành. Trong lịch sử, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp được hình thành theo hai con đường chính: Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm thuê. Đó là con đường của các nước Đức, Ý, Nga, . . . Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. Đó là con đường diễn ra ở các nước Pháp, Anh, . . . Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là sự tham gia của 3 giai cấp chủ yếu: chủ sở hữu ruộng đất (địa chủ), nhà tư bản thuê ruộng đất để sản xuất kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê cho nhà tư bản.  * Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa: Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho chủ đất dù thuê ruộng đất tốt hay xấu. độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối.. Cũng giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì phải thuê ruộng đất của địa chủ nên ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp còn phải thu thêm được một phần gía trị thặng dư dôi ra nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, do tính độc quyền trong sản xuất nông nghiệp, phần lợi nhuận siêu ngạch này được nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho chủ đất dưới hình thái địa tô. Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa (R) là phần lợi nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra và nhà tư bản thuê đất phải nộp cho chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô chính là một bộ phận gía trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp (lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp). Vì sao TBCN lại nhường 1 phần m cho nhà TB thương nghiệp? Căn cứ và cách thực hiện? TBCN lại nhường 1 phần m cho nhà TB thương nghiệp. Hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, các nhà tư bản thương nghiệp vẫn thu được lợi nhuận. Điều đó xuất phát từ chỗ, quá trình tạo ra giá trị thặng dư và phân phối giá trị thặng dư là hai việc hoàn toàn khác nhau. Thông qua cạnh tranh giữa các ngành, tư bản thương nghiệp đã tham dự vào việc phân chia giá trị thặng dư do tư bản công nghiệp tạo ra. Nếu nhà tư bản công nghiệp tự mình bán lấy hàng hoá, thì anh ta phải bỏ một phần tư bản của mình vào việc mở cửa hàng, thuê người bán hàng và vào các món chi tiêu khác có liên quan đến thương nghiệp. Muốn làm như thế, anh ta phải tăng thêm tư bản ứng trước, hoặc không tăng tư bản ứng trước thì phải giảm bớt qui mô sản xuất. Trong cả hai trường hợp đó, lợi nhuận của anh ta đều bị giảm xuống. Vậy thì, tốt hơn hết là nhà tư bản công nghiệp trao nghiệp vụ bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp rồi nhượng lại cho họ phần lợi nhuận tương ứng với lượng tư bản mà họ bỏ vào hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Khi đó, nhà tư bản công nghiệp có điều kiện tập trung toàn bộ sức lực, vốn liếng của mình vào việc đẩy mạnh sản xuất, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản, giảm được vốn bỏ vào lưu thông và chi phí lưu thông, do đó mà tăng lợi nhuận. Như vậy, nhà tư bản công nghiệp chia một phần lợi nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp là có lợi cho mình. Nhà tư bản công nghiệp bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp theo giá cả thấp hơn giá trị; nhà tư bản thương nghiệp thì lại bán hàng hoá cho người tiêu dùng theo đúng giá trị, do đó mà thu được lợi nhuận. Căn cứ và cách thực hiện. Căn cứ:Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa độc lập với tư bản công nghiệp. Sự phụ thuộc biểu hiện ở chỗ: tư bản thương nghiệp chỉ là sự vận động của tư bản công nghiệp trong lĩnh vực lưu thông nhằm thực hiện chức năng tư bản hàng hoá của tư bản công nghiệp, vì vậy nếu không có sản xuất thì cũng không có lưu thông. Tính độc lập của tư bản thương nghiệp biểu hiện: sự chuyển hoá cuối cùng của tư bản hàng hoá thành tiền đã trở thành chức năng của một ngành kinh doanh riêng biệt, tách rời các chức năng khác của tư bản công nghiệp; và mặt khác, thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra nhằm mục đích mua bán để kiếm lời, nên tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất, mà bao giờ cũng chỉ đóng khung trong lĩnh vực lưu thông. CÁCH THỰC HIỆN:Do tính độc lập và do những tất yếu kinh tế nói trên, tư bản thương nghiệp đã đóng một vai trò quan trọng đối với quá trình tái sản xuất của tư bản xã hội nói chung và tư bản công nghiệp nói riêng. - Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua-bán nên lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông sẽ nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này. Một nhà tư bản thương nghiệp có thể phục vụ cho lưu thông hàng hoá của nhiều nhà tư bản trong cùng một lĩnh vực sản xuất hay trong những lĩnh vực sản xuất khác nhau. - Tạo điều kiện cho người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nhờ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư. - Nhờ có tư bản thương nghiệp, thời gian lưu thông được rút ngắn, chu chuyển tư bản tăng nhanh, nhờ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm. - Nhờ có tư bản thương nghiệp, hàng hoá được sản xuất ra sẽ phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Nguồn góc của TB cho vay của CNTB, sự khác nhau giữa TB ngân hàng và TB cho vay, lợi nhuận ngân hàng và lợi tức cho vay. Nguồn gốc của tư bản cho vay. Trước chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay đã xuất hiện dưới hình thức cho vay nặng lãi. Lợi tức của tư bản cho vay nặng lãi thường ở mức rất cao, vì vậy nó đã kìm hãm sự phát triển sản xuất. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay là một bộ phận của tư bản tiền tệ trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp tách rời ra và vận động độc lập. Trong quá trình chu chuyển của tư bản, có những thời điểm, một số nhà tư bản có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, chưa có nhu cầu sử dụng, trong khi đó, một số nhà tư bản khác lại cần tiền để kinh doanh. Trong việc săn đuổi lợi nhuận, nhà tư bản nào cũng muốn bất cứ bộ phận tư bản nào của họ đều mang lại thu nhập, nên sẵn sàng đem cho vay số tiền để rỗi của mình, tức nhượng cho nhà tư bản khác tạm thời sử dụng số tư bản đó. Điều đó làm cho sự xuất hiện tư bản cho vay trở thành tất yếu. b. Sự khác nhau giữa TB ngân hàng và TB cho vay. Tư bản ngân hàng có điểm khác biệt với tu bản cho vay, thể hiện ở điểm sau: Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản tài sản, là tư bản không hoạt động. Vì vậy tư bản không tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức – thu nhập của tư bản cho vay chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân. Tư bản ngân hàng là tư bản chức năng, tư bản hoạt động nên tư bản ngân hàng cũng có tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Trong tự do cạnh tranh, lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng lợi nhuận bình quân. c. Sự khác nhau giữa lợi nhuận ngân hàng và lợi tức cho vay. Lợi tức cho vay vận động theo quy luật tỷ suất lợi tức, có giới hạn tối đa, tối thiểu, được quy định trước bởi bên cho vay và đi vay, chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung cầu tư bản cho vay. Lợi nhuận ngân hàng vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Phần 2 1/ Trình bày tư tưởng của chủ nghĩa Mác về tôn giáo? Đảng ta vận dụng quan điểm đó ntn để giải quyết vấn đề tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm và có nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận tính chất vai trò của tôn giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Để giải quyết vấn đề tôn giáo cần một thời gian dài, gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng. Quan điểm chung của chủ nghĩa Mác – Lênin gồm các vấn đề sau đây: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với cuộc vận động đoàn kết các tín đồ tôn giáo trong quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới - Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nên muốn làm thay đổi nó trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội. Muốn xóa bỏ những ảo tưởng trong đầu óc con người thì phải xóa bỏ nguồn gốc gây ra ảo tưởng ấy. Muốn đẩy lùi được những ước mơ về thiên đường hư ảo ở thế giới bên kia thì con người cần phải xây dựng cho được một “thiên đường” có thực ngay tại trần gian này. Đó là một quá trình lâu dài để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thông qua quá trình này mới tạo ra được khả năng gạt bỏ dân những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. - Để khắc phục những tiêu cực của tôn giáo còn cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền, giáo dục thế giới quan duy vật và biện chứng với nhiều hình thức. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân Tự do tín ngưỡng là một tư tưởng tiến bộ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong chủ nghĩa xã hội, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng là một nguyên tắc. Quyền ấy không chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn thể hiện trong thực tiễn của đời sống xã hội. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo Trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và tác động của mỗi tôn giáo đối với xã hội là không giống nhau và quan điểm, thái độ của giáo sĩ và giáo dân đối với các lĩnh vực xã hội cũng không hoàn toàn thống nhất. Vì vậy, khi thực hiện nhất quán nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với các vấn đề có liên quan với tôn giáo. Cần phân biệt rõ ràng hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo - Trong xã hội công xã nguyên thủy, tôn giáo chỉ thể hiện thuần túy về mặt tư tưởng, phản ánh nhận thức ngây thơ của con người về thế giới tự nhiên. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, tôn giáo không chỉ thể hiện ở mặt tư tưởng mà còn cả mặt chính trị. - Mặt tư tưởng thể hiện tín ngưỡng trong tôn giáo. Mặt chính trị, bên cạnh ước nguyện giải phóng của quần chúng chống lại sự nô dịch của các thế lực thống trị bóc lột, mặt chính trị còn thể hiện ở việc lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. 2/ Dân tộc là gì, các đặc trưng của dân tộc? Quanđiểm của Đảng ta về việc giải quyết vấn đề dân tộc ntn? Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất : Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó. Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Đặc trưng của dân tộc: + Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. + Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng ( trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia). + Có nét tâm lý riêng( tâm lí dân tộc): Nó biểu hiện sự kết tinh trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng, gắn bó với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc ( quốc gia dân tộc). Quan điểm của đảng: Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. - Phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng dân tộc. Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số. - Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong phú, giàu bản sắc dân tộc. 3/ G/c công nhận là gì? Phân tích điều kiện khách quan quy định sự hình thành lịch sử của g/c công nhân. Vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta tác động ntn đến g/c công nhận. Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao là lwucj lượng sản xuất cơ bản tiên iến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra của của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ. b. Điều kiện khách quan quy định sự hình thành lịch sử của giai cấp công nhân. Do điều kiện kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và với tính cách như vậy, nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chaasts họ la giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội hỏi chế đọ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. Điều kiện kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dưng và bảo vệ tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vố sản. Vấn đề công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước và giai cấp công nhân. Công cuộc đổi mới đất nước, công nghiệp hóa- hiện đại hóa, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp... "lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc" .  Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: "Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".  4/ Dân chủ là gì? Quan điểm của chủ nghĩa Mác về dân chủ. Hãy làm rõ thực trạng, phương hướng, giải pháp xây dựng dân chủ ở cơ sở mà anh chị đang công tác. Dân chủ - Quan niệm của Lenin về dân chủ. Ngay từ xã hội công xã nguyên thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã biết tự tổ chức ra những hoạt động có tính cộng đồn, các thành viên công xã đều bình đẳng tham gia vào mọi công việc của xã hội. Việc cử ra những người đứng đầu các cộng đồng và phế bỏ những người đứng đầu nếu không thực thi đúng những quy định chung được giao do mọi thành viên công xã quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đây được gọi là hình thức dân chủ sư khai, tor chức cộng đồn tự quản trong xã hội chưa có giap cấp. Vậy dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Quan niệm của Lenin về dân chủ: Dân chủ là nhu cầu khách quan của người lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Khi xã hội có giap cấp và nhà nước – tức là chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không thể có “ dân chủ chung, phi giap cấp, siêu giai cấp” mà ỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị. Dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. à Thực chất dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin là dân làm chủ. Thực trạng, phương hướng, giải pháp xây dựng dân chủ ở cơ sở mà anh chị đang công tác. Nhà trường cùng hội sinh viên đã xây dựng dân chủ một cách tốt nhất, đảm bảo mỗi sinh viên cũng như công nhân viên có được quyền dân chủ. Có rất nhiều câu lạc bộ đội nhóm mà sinh viên có thể tự do tham gia, tự do phát biểu, nêu ra ý kiến của bản thân mình. Ngoài ra trường còn có các phòng ban khác nhau để hỗ trợ sinh viên. Đó cũng là xây dựng một nền dân chủ. Sinh viên còn có thể tự quyết định ngành học, giờ học, giảng đường phù hợp với thời khóa biểu của mình. Bên cạnh đó, cần mở thêm các lớp có số lượng sinh viên đăng ký nhiều để sinh viên có thể đăng ký học mà không lo bị mất chỗ. 5/ Tại sao chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu rơi vào tình trạng sụp đổ, sự sụp đổ đó có nói lên rằng tương lai của loài người gắn liền với CNTB không? Vì sao? Nguyên nhân sụp đỗ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Đông Âu: 1/ Nguyên nhân chủ quan: Quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.  Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động.  Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ, khiến Đảng không phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân; vừa không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội..., dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn.  Một nguyên nhân chủ quan khác là đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “CNXH phát triển”...), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH.  Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà do quan niệm giáo điều về CNXH.  2/ Nguyên nhân trực tiếp: Lệch lạc về hệ tư tưởng XHCN và sự can thiệp từ bên ngoài. Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, “chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông nguỵ trang cho ý đồ phản bội. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây. Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hoà bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thoả hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hoà bình” trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu.  Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ. Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. b. Sự sụp đổ đó có nói lên rằng tương lai của loài người gắn liền với CNTB? Kẻ thù đã và đang ra sức khai thác sự kiện Liên Xô và Đông Ây sụp đổ để rêu rao về “ cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mac-Lenin nói chung.” Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình của chủ nghĩa xã hội trong quá trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mà loai người đang vươn tới. Tương lai của xã hội loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn trong thời đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCâu hỏi - trả lời ôn tập Triết.doc
Tài liệu liên quan