Sự nghiệp đổi mới với nội dung trọng tâm
phát triển kinh tế - công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là sự nghiệp cách mạng toàn
diện của toàn dân và yêu cầu đặt ra là toàn
dân được thụ hưởng thành quả của sự phát
triển đất nước. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ:
Dân là chủ và dân làm chủ. Quá trình này
hướng trực tiếp vào dân chủ hóa kinh tế và
dân chủ chính trị trong đời sống xã hội.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu then
chốt của toàn bộ quá trình dân chủ hóa xã
hội. Ở nông thôn, đây là quá trình thực hiện
và phát triển dân chủ từ cơ sở làng xã, đảm
bảo quyền dân chủ và làm chủ của nông dân
- nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính tích cực chính trị của người nông dân với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍNH TÍCH CỰC CHÍNH TRỊ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
VỚI VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN NAY
ĐOÀN THỊ MINH OANH*
Sự nghiệp đổi mới với nội dung trọng tâm
phát triển kinh tế - công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là sự nghiệp cách mạng toàn
diện của toàn dân và yêu cầu đặt ra là toàn
dân được thụ hưởng thành quả của sự phát
triển đất nước. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ:
Dân là chủ và dân làm chủ. Quá trình này
hướng trực tiếp vào dân chủ hóa kinh tế và
dân chủ chính trị trong đời sống xã hội.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu then
chốt của toàn bộ quá trình dân chủ hóa xã
hội. Ở nông thôn, đây là quá trình thực hiện
và phát triển dân chủ từ cơ sở làng xã, đảm
bảo quyền dân chủ và làm chủ của nông dân
- nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.*
Dân chủ hóa kinh tế và dân chủ chính trị
ở nông thôn nhằm tạo ra những xung lực vật
chất và tinh thần để khai thác, giải phóng
sức lao động của nông dân, đảm bảo sự ổn
định tích cực về chính trị, sự lành mạnh về
quan hệ xã hội ở nông thôn. Quá trình này
diễn ra với sự chi phối của rất nhiều yếu tố,
trong đó, cần đặc biệt chú trọng yếu tố tính
tích cực chính trị (TTCCT) của người nông
dân. Đây thực sự là động lực của phát triển.
Tính tích cực là “chủ động, hướng hoạt
động nhằm tạo ra những thay đổi, phát
triển”, biểu hiện ra trong thái độ, hành vi, cử
chỉ của con người. Tính tích cực gắn với
hoạt động chủ động, sáng tạo của con người
nhằm đạt tới mục đích đã định ra trong cuộc
sống. Có thể phân chia sự phát triển tính tích
* TS. Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội
cực thành 3 mức độ: tính tích cực mô phỏng
- bắt chước, tính tích cực tìm kiếm - sử
dụng, tính tích cực sáng tạo. Sáng tạo là
mức độ phát triển cao nhất của tính tích cực
vì nó tìm ra những cái mới, cách giải quyết
mới, không phụ thuộc vào cái đã có.
Tính tích cực trước hết thuộc về ý thức và
nó được nhận biết, thể hiện ra qua các hoạt
động cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính
bản thân mình. Nhận thức và hoạt động thực
tiễn – đó là chu trình của tính tích cực.
Nói đến tính tích cực xã hội là nói về toàn
bộ những biểu hiện của sự hoạt động có ích
về mặt xã hội của con người trong tất cả các
lĩnh vực sinh hoạt của xã hội: kinh tế, chính
trị, xã hội và tinh thần. Hay nói lên vị trí, vai
trò của con người với tư cách là chủ thể của
xã hội và lịch sử với thái độ tích cực, chủ
động của nó đối với môi trường sống..
Tính tích cực chính trị là một loại hình
của tính tích cực xã hội, nó gắn với hoạt
động chính trị của chủ thể chính trị. Điều
quan trọng nhất trong chính trị là thiết chế,
thể chế chính quyền nhà nước, việc quy định
các hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước, là sự tham gia vào công việc
nhà nước của mỗi công dân. Ở đây, tính tích
cực chính trị của mỗi con người được hình
thành, được biểu hiện trực tiếp ở yếu tố cụ
thể: vị trí, vị thế của công dân trong tham
gia vào công việc nhà nước như thế nào.
Tính tích cực chính trị một mặt chịu sự quy
định của điều kiện kinh tế xã hội, đồng thời
gắn bó chặt chẽ với các quá trình chính trị
và luôn biến đổi cùng những biến đổi của
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 4
quá trình chính trị. Cơ sở quan trọng nhất để
nhận biết tính tích cực chính trị là phải xem
xét các chủ thể chính trị đã hiện thực hóa
mục đích chính trị khi tham gia các quá trình
chính trị tiến bộ hay thoái bộ như thế nào.
Như vậy, có thể quan niệm tính tích cực
chính trị là toàn bộ những biểu hiện của sự
tự giác, chủ động, sáng tạo trong nhận thức
và hoạt động của một cá nhân, một cộng
đồng, một giai cấp, một chính đảng, một nhà
nước với tư cách là những chủ thể chính trị
khác nhau khi tham gia vào quá trình chính
trị trong từng thời kỳ lịch sử nhất định,
nhằm hiện thực hóa những mục tiêu chính
trị vì sự phát triển, tiến bộ của cộng đồng.
Tính tích cực chính trị có mặt đối lập của nó
là tính thụ động, bị động chính trị. Đó là thái
độ thờ ơ, dửng dưng đối với chính trị. Trạng
thái này phản ánh sự lãnh đạm đối với chính
trị, xa rời sinh hoạt chính trị, đấu tranh chính
trị. Như vậy, quá trình chính trị trở nên xa lạ
với công dân. Ở nước ta quá trình chính trị
đòi hỏi sự tham gia rộng rãi của nhân dân, từ
việc xác định mục tiêu chính trị đến hiện
thực hóa các mục tiêu đó. Muốn vậy, lợi ích
cá nhân với lợi ích chung và sự phát triển
của cộng đồng phải thực sự thống nhất. Như
vậy, tính tích cực chính trị của công dân là
toàn bộ những biểu hiện của sự tự giác, chủ
động, sáng tạo trong nhận thức và hoạt động
tham gia vào quá trình chính trị trên những
cơ sở, điều kiện xác định nhằm hiện thực
hóa mục tiêu chính trị tiến bộ, thúc đẩy sự
phát triển của cá nhân công dân và của cộng
đồng.
Tính tích cực chính trị tiềm năng trong
mỗi công dân, nó bộc lộ và được nâng cao
khi có những điều kiện nhất định. Tính tích
cực chính trị của nông dân nước ta sẽ phát
huy khi môi trường hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội phù hợp với trình độ, khả
năng của họ, với một thiết chế thuận lợi,
lành mạnh và quan trọng nhất là lợi ích được
đảm bảo và tăng lên.
Môi trường kinh tế nông nghiệp: Phải có
định hướng thông qua các chính sách kinh tế
cụ thể, được ưu tiên phân phối nguồn lực
hợp lý, công bằng trong phân phối và vừa
sức với các chủ thể kinh tế là người nông
dân.
Môi trường chính trị nông thôn. Hệ thống
chính trị với cấu trúc và cơ chế hoạt động
của nó phải là cơ sở, điều kiện cho phép
phát huy TTCCT của mỗi người. Quy chế
dân chủ ở cơ sở và các thiết chế của nó tạo
điều kiện cho nông dân phát huy TTCCT,
thực hiện quyền làm chủ trong sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội-thực
hiện mục tiêu chính trị tiến bộ .
Môi trường văn hóa nông thôn. Văn hóa
không chỉ cung cấp một cơ sở thỏa mãn các
nhu cầu và ham muốn thiết yếu của đời sống
tinh thần con người mà còn là cơ sở để phát
triển tâm lý, từ đó giúp cá nhân tăng cường
hoạt động nhân cách của chính mình. Văn
hóa chính trị gắn bó hữu cơ với TTCCT bởi
nó có mặt và thẩm thấu trong hoạt động
chính trị: từ tính chất cho đến bản chất và
mục đích chính trị, quy định mục tiêu chính
trị vì sự phát triển con người. Văn hóa chính
trị có cấu trúc phức tạp, cho nên một mặt
TTCCT công dân là nội dung của văn hóa
chính trị ở cấp độ chủ thể của nó, mặt khác
TTCCT của công dân được hình thành trên
cơ sở, điều kiện của văn hóa chính trị theo
cấp độ văn hóa thể chế, thiết chế, văn hóa bộ
máy quản lý nhà nước và xã hội. Nâng cao
văn hóa chính trị của nông dân nhằm giúp
họ ý thức rõ vị trí của mình trong hệ thống
quyền lực chính trị địa phương, của quốc
gia, làm cho các phẩm chất, năng lực của
con người chính trị ở họ trưởng thành hơn.
Đó là điều kiện để nông dân tham gia tích
cực, tự giác, hiệu quả vào công việc của
đảng, chính quyền, các đoàn thể ở địa
phương.
Môi trường xã hội nông thôn. Đó là đời
sống cộng đồng của nông dân, với việc bảo
đảm các nhu cầu cơ bản của cuộc sống và sự
phát triển của họ. TTCCT của nông dân
được thể hiện thông qua hoạt động không
Tính tích cực chính trị 5
tách rời các quan hệ xã hội. Cuộc sống của
mỗi người nông dân diễn ra ở gia đình, thôn
xóm, làng quê. Mọi nhu cầu và khả năng của
người nông dân hình thành và phát triển đều
phải diễn ra và thông qua các thiết chế xã
hội này. Các mối quan hệ trong xã hội nông
thôn phải hướng mạnh mẽ đến công bằng,
văn minh, là điều kiện để phát triển cá nhân,
phát triển gia đình, phát triển xã hội nông
thôn văn minh, tiến bộ. Cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường, đổi mới về chính
trị, sẽ xuất hiện những nhu cầu chính đáng
về quyền lợi kinh tế, quyền lợi chính trị,
quyền lợi pháp lý của các hội, hiệp hội, các
tổ chức mới... giúp cho nông dân có nhiều
cơ hội thực hiện quyền lợi chính đáng của
mình, khi họ là thành viên của các tổ chức
này.
Như vậy, phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội đáp ứng nhu cầu và lợi ích cơ
bản, chính đáng của nông dân, vì mục tiêu
tiến bộ xã hội đồng nghĩa với việc tạo tiền
đề và từng bước thực hiện sự phát triển tự
do, mọi mặt cho mỗi người nông dân. Đó
cũng là cơ sở để người nông dân phát huy
TTCCT, tham gia vào các quá trình chính
trị, cùng gánh vác và giải quyết các nhiệm
vụ chung, góp sức mình cho sự phát triển
cộng đồng.
Tiêu chí đánh giá mức độ của tính tích
cực chính trị của nông dân, qua đó đánh giá
tính tiến bộ - dân chủ của xã hội nông thôn,
tính hợp lý, tính khoa học, tính thực tiễn của
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tính hấp dẫn thiết thực về mặt thiết
chế của các tổ chức, đoàn thể quần chúng...
hiện nay, đó là:
1. Nông dân quan tâm tới mục đích của
Quy chế dân chủ ở cơ sở, của quá trình công
nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
2. Nông dân tích cực tham gia các hoạt
động chính trị - xã hội.
3. Nông dân lao động sáng tạo thực hiện
mục tiêu chính trị.
Vấn đề phát huy tính tích cực chính trị
của người nông dân thông qua việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong 10 năm
và 4 năm thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ
sở đã thu được những kết quả rất cơ bản
trong đời sống xã hội nông thôn: góp phần
nâng cao nhận thức, ý thức về dân chủ, về
quyền và nghĩa vụ của nông dân - công dân,
về vai trò và trách nhiệm của chính quyền
cơ sở đối với dân; góp phần nâng cao vị thế
xã hội người chủ của dân, rèn luyện năng
lực làm chủ của dân, thiết lập được mối
quan hệ tác động qua lại giữa dân và chính
quyền ở cơ sở, chính quyền có phần gần dân
hơn, tạo được lực đẩy chính trị - xã hội quan
trọng để thực hiện xóa đói giảm nghèo cho
nông dân... Song cũng không thể phủ nhận
một thực tế, việc triển khai Quy chế dân chủ
ở lúc khởi động, dân chúng rất hào hứng
nhưng về sau sự hào hứng đó giảm dần, bản
thân dân chúng cũng ít mặn mà với chính
những điều mà trước đó họ chờ đợi, tâm
đắc. Do vậy, vai trò tạo động lực cho
TTCCT của nông dân phải được nâng cao
về nội dung và yêu cầu thể hiện trong Pháp
lệnh dân chủ ở cơ sở. Cụ thể:
- Công khai và minh bạch tài chính ngân
sách, tiền của của dân đóng góp. Dân phải
được thực sự tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của chính quyền và xã. Đây là
điều dân mong đợi, bức xúc nhất nhưng
được đáp ứng ít nhất.
- Dân chủ trong kinh tế. Không có lợi ích
thiết thực cho dân thì dân sẽ không thể duy
trì lâu bền TTCCT để nhiệt tình và quan tâm
thực hiện quy chế, dần đẩy quy chế vào tình
trạng hình thức hóa, mất tác dụng. Hiện nay,
lợi ích, sự hưởng thụ lợi ích chính đáng,
công bằng cho người nông dân còn rất hạn
chế trong cả quy định và thực hiện.
- Điều kiện vật chất hỗ trợ để thực hiện
Pháp lệnh phải đảm bảo đáp ứng cho việc
phổ biến tường tận, họp bàn một cách thấu
đáo các chủ trương, chính sách, biện pháp
cũng như hiệu quả công việc đã thực hiện
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 6
được. Hiện nay, vật chất hỗ trợ thực hiện
Pháp lệnh còn rất hạn chế.
- Chế tài quy định trách nhiệm, nghĩa vụ
thực hiện Pháp lệnh đối với cán bộ, tổ chức
đảng, chính quyền và của chính quần chúng
phải đầy đủ, nghiêm khắc và nghiêm minh.
Những chế tài đã có chưa có sự hợp lý cần
thiết. Đây là kẽ hở dẫn đến nảy sinh và phát
triển sự lợi dụng, trì hoãn, hình thức hoặc
cực đoan, quá đà... trong thực hiện Pháp
lệnh dân chủ.
- Phải xác định rõ ràng, minh bạch mối
quan hệ giữa quản lý nhà nước ở cấp xã và
tự quản cộng đồng ở thôn, tránh chồng lấn,
hoạt động sai chức năng và thẩm quyền...
Hơn nữa, thực hiện vị thế và quyền làm
chủ của dân trong thực tế là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị. Do vậy, dân chủ ở cơ
sở không tách rời siêu hình với dân chủ ở
các cấp mà tinh thần dân chủ phải trở thành
mạch khí trong toàn bộ cơ thể xã hội.
Tổng hợp những hạn chế trên là một
trong những nguyên nhân chính yếu dẫn tới
vị thế là chủ và quyền làm chủ của nông dân
trong đời sống kinh tế, chính trị của mình
còn rất hạn chế, thậm chí chỉ còn là hình
thức. Do đó, TTCCT của nông dân chưa có
điều kiện để phát huy, chưa hữu dụng trong
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của xã hội
nông thôn.
Nhìn vào khía cạnh kinh tế, người nông
dân đã nhận được gì từ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trong thời
gian 15 năm qua? Xét chung trên bình diện
cả nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa như
cách thức hiện nay đã dẫn đến một số quyền
và lợi ích cơ bản, chính đáng về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của nông dân bị
ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực hoặc
bị vi phạm nghiêm trọng. Thực tế, chuyển
đổi sản xuất nông nghiệp vẫn diễn ra rất
chậm. Năng suất lao động toàn xã hội tăng
lên khá cao nhưng ở nông nghiệp thì chững
lại. Năm 2005, năng suất lao động nông
nghiệp chỉ tăng 3,7%, năm 2006 tụt xuống
còn 2,64%. Ngành công nghiệp hiện nay
chưa sản xuất được bao nhiêu máy móc và
vật tư cho nông nghiệp. 70% phân bón,
thuốc trừ sâu phải nhập khẩu, trong khi một
nửa sản phẩm làm ra của nông nghiệp cung
cấp cho xuất khẩu và khu vực đô thị. Sản
xuất nông nghiệp thu nhập quá thấp nhưng
nông dân lại phải chịu nhiều khoản phí và có
tiếng nói rất hạn chế trong những vấn đề liên
quan trực tiếp đến đời sống của họ và gia
đình. Theo báo cáo của 46 tỉnh, thành phố
và kết quả điều tra của Cục hợp tác và phát
triển nông thôn, số lượng, mức thu các
khoản đóng góp của nông hộ rất cao. Tình
trạng loạn thu phí và lệ phí ở nông thôn
trước hết là “con đẻ” của chính quyền địa
phương. Không ít địa phương lấy việc thu
phí, lệ phí làm nguồn để duy trì hoạt động
của chính quyền cơ sở. Việc chi tiêu không
công khai, minh bạch gây nên nỗi bức xúc
trong dân. Trình độ quản lý hay nói đúng
hơn là hiểu biết về pháp luật, về dân chủ của
cán bộ xã còn hạn chế dẫn đến việc người
dân phải gánh thêm nhiều khoản đóng góp
nặng nề. Chính sách tài chính đối với sản
xuất nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu
cầu sản xuất và phát triển sản xuất của người
nông dân. Ở Đồng bằng sông Cửu Long,
tình trạng nông dân mua chịu vật tư nông
nghiệp và phải trả lãi suất cắt cổ với mức
8%/tháng cho các đại lý cũng đang diễn ra
khá phổ biến. Nhiều bất cập khác, bức xúc,
nóng bỏng hơn như mất đất, không có việc
làm, nợ nần, con bỏ học, ít khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế... Ví dụ, từ năm 2000 đến
2008, cả nước có hơn 500.000ha đất nông
nghiệp bị thu hồi, bình quân mỗi năm nông
dân phải giao 74.000ha đất canh tác cho việc
phát triển khu công nghiệp và đô thị. Hiện
nay, sau rất nhiều phản đối gay gắt của công
luận với những phân tích, cứ liệu khoa học
về giá trị kinh tế, về vấn đề xã hội của việc
xây dựng sân gôn... thì cả nước hiện vẫn còn
có tới 27 dự án sân gôn ngoài quy hoạch có
ở 13 tỉnh, trong đó riêng Kiên Giang có 5 dự
Tính tích cực chính trị 7
án 1. Chắc chắn chủ dự án và ngay cả các tổ
chức trong hệ thống chính trị từ cơ sở đến
các cấp có thẩm quyền phê duyệt đã không
tính đầy đủ đến lợi ích cơ bản, chính đáng
của người nông dân trong những dự án này.
Đất đai – tư liệu sản xuất chủ yếu của người
nông dân cứ ”tự nhiên” mất một cách ”hồn
nhiên” bởi chính quyền sở tại của họ, mà sự
can dự của pháp luật để bảo vệ quyền chính
đáng của người công dân-nông dân chưa
xuất hiện kịp thời tại nơi sở tại, cũng như
chưa kiên quyết bảo vệ họ từ các cấp có
thẩm quyền, có trách nhiệm cao hơn. Vì
vậy, sau khi ruộng đất bị thu hồi, chỉ có 5 -
6% nông dân tìm được việc làm, 94% còn
lại phải xoay xở rất vất vả để kiếm sống.
Chính quyền địa phương nhiều nơi không có
hướng đi rõ ràng cho người nông dân mất
ruộng. Không nghề nghiệp, người nông dân
không có đất phải đổ về các thành phố lớn
làm đủ mọi nghề để mưu sinh với cuộc sống
tạm bợ... Sự vận động của xã hội nông thôn
Việt Nam hiện nay (đặc biệt rõ ở các địa
phương mà tiến trình công nghiệp hoá đang
được đẩy nhanh) đang tồn tại rất nhiều vấn
đề tiêu cực: sự ”chia cắt” các thành viên
trong gia đình, sự mất cân bằng trong lực
lượng lao động nông nghiệp, sự chững lại
của năng suất lao động nông nghiệp, sự ô
nhiễm nặng nề về môi trường tự nhiên, sự
quan liêu hóa của các thiết chế quan
phương, tệ nạn xã hội...
Với thực tế ấy, một bộ phận không nhỏ
trong nông dân tính tích cực của họ không
thể hướng tới những mục tiêu chính trị mà
đành quay trở vào sự mưu sinh thuần túy.
TTCCT của người nông dân theo yêu cầu
của các chủ thể chính trị (đảng, nhà nước,
đoàn thể chính trị-xã hội) không có điều
kiện để sinh dưỡng và biểu hiện. Việc
hưởng lợi từ quá trình công nghiệp hóa của
đất nước là cái gì đó còn rất xa vời với nông
dân.
Thực hiện công nghiệp hóa nông thôn
trên nền tảng chính trị - thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, nay là Pháp lệnh dân chủ ở
cơ sở, phải tạo ra cho được các điều kiện để
phát huy TTCCT của người nông dân. Về
tổng quát, nông dân phải được được tham
gia thực sự vào trong toàn bộ tiến trình kinh
tế - chính trị - xã hội - văn hóa. Trong đó,
trước hết phải dân chủ trong kinh tế để tạo
được động lực thúc đẩy kinh tế nông thôn,
kinh tế hộ nông dân, kinh tế của từng người
phát triển. Dân chủ trong kinh tế chẳng
những đảm bảo phát triển kinh tế mà còn
đem lại sự thụ hưởng lợi ích công bằng cho
mỗi người nông dân. Đây chính là động lực
thực sự của tính tích cực chính trị của người
nông dân, vì nó là đảm bảo quan trọng nhất
để lôi cuốn, thu hút nông dân phát huy
TTCCT của mình trong lao động sản xuất
phát triển kinh tế, xây dựng đảng, xây dựng
chính quyền và đoàn thể. Đem lại lợi ích cho
nông dân là cách tốt nhất để TTCCT của
nông dân có sức sống, là sức mạnh hiện thực
chứ không chỉ dừng lại ở tiềm năng. Tính
tích cực chính trị của người nông dân không
thể phát huy khi họ và gia đình họ, con cái
họ còn chưa có cái ăn hàng ngày, còn nghèo
khổ, còn thất nghiệp, thất học. Nông dân
quan tâm tới chính trị, tới các vấn đề xã hội
nói chung, một khi bằng cảm nhận thực tế
họ thấy rằng, đó là chính trị thiết thực, cần
thiết, có ích đối với họ. khi đó, dân chủ-
chính trị trở thành một giá trị thực tế chứ
không dừng lại là một khẩu hiệu đẹp đẽ.
V.I. Lênin từng nhấn mạnh, chính trị là
biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị là
kinh tế cô đọng. Chính trị xét đến cùng là
cuộc sống của nhân dân, là lợi ích và vận
mệnh của hàng triệu con người. Muốn nông
dân quan tâm tới chính trị thì mọi hoạt động
chính trị phải nhằm vào lợi ích thiết thân,
hàng ngày của họ, kích thích nhiệt tình sáng
tạo và hành động tích cực của họ bằng cách
đem lại cho họ những lợi ích chính đáng mà
họ đang quan tâm hàng ngày. Cái sự thật
hiển nhiên như C.Mác nói, trước hết, người
ta phải có cái ăn, cái mặc, nhà và đồ dùng
tối thiểu đã, nghĩa là phải tìm kiếm những
phương tiện sinh tồn tối thiểu rồi mới có thể
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 8
nghĩ đến và hoạt động văn hóa tinh thần,
làm khoa học, hoạt động chính trị, tôn giáo...
Đó chính là sự thật mà chính trị, nếu thực sự
dân chủ, tiến bộ, vì dân phải tính đến.
Công nghiệp hóa đất nước phải mang lại
sự biến đổi cuộc sống hàng ngày của người
nông dân, no đủ hơn, an toàn hơn, tiến bộ
hơn, tức là vấn đề an sinh và an ninh cuộc
sống của dân. Công nghiệp hóa dứt khoát
không đồng nghĩa với việc nông dân mất đất
- cuộc sống bấp bênh... như hiện nay ta đang
làm. Đất đai luôn là tư liệu sản xuất cơ bản
của nông dân, vì vậy vấn đề là làm gì, làm
thế nào để dân có đất sản xuất, có đất thì
làm sao cho đất sinh lợi, tổ chức dồn điền
đổi thửa, hoặc dồn điền (không mất quyền
sở hữu, sử dụng với đất) sao cho hợp lý, hợp
tình. Phải tổ chức lại sản xuất, cơ cấu lại
ngành nghề... đó trước hết là trọng trách của
Đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở - tức
thực hiện những nhiệm vụ, nghĩa vụ của hệ
thống chính trị đối với dân, cũng đồng thời
làm cho nông dân thực hiện tốt nghĩa vụ của
người chủ đối với chế độ của mình. Có thể
nói, chuyển động tích cực của kinh tế - xã
hội ở nông thôn là thước đo hiệu quả của
dân chủ nông thôn, của TTCCT của nông
dân.
Theo đúng tinh thần quý trọng sức dân,
phát triển sức dân, tiết kiệm sức dân của Hồ
Chí Minh, thì các khâu của quá trình chính
trị, người nông dân không đứng ngoài công
việc của chính quyền, mà họ thực sự được
biết, được bàn, được quyết định, được kiểm
tra, được giám sát hoạt động của tổ chức,
của cán bộ mà mình ủy quyền. Dân bộc lộ
những khả năng đó để làm gì? Để thực hiện
quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình, để
phát huy mặt tích cực, để phát hiện-khắc
phục-ngăn chặn và làm giảm thiểu những
mặt sai trái, tiêu cực, lãng phí gây tổn hại
sức người, sức của. Dân phải dùng Quy chế
dân chủ để tự bảo vệ mình, phát triển xã hội
- chế độ của mình. Chính nhờ sự tham gia
của dân chúng với TTCCT của mình mà dân
chúng trưởng thành, mà cán bộ được rèn
luyện, thử thách, giữ được sự liêm khiết
trong sạch, tổ chức được củng cố, có mối
liên hệ giữa dân với Đảng, với Nhà nước
được bền chặt. Chỉ khi nào, mỗi cán bộ cơ
sở, mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể
cơ sở và các cấp trên biết xuất phát từ dân
chủ mà tập trung mọi cố gắng để làm cho
sản xuất ở thôn xóm, ở từng hộ gia đình khá
lên, người nông dân được hưởng những điều
lợi, tránh được điều hại... thì khi ấy, người
nông dân sẽ ủng hộ những đề xuất của
Đảng, chính quyền, đoàn thể. TTCCT của
họ biểu hiện trực tiếp và hiệu quả thông qua
sự tham gia tích cực, chủ động và sáng tạo
vào quá trình ấy.
Để phát huy hiệu quả tính tích cực chính
trị của người nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa đất nước, quá trình công nghiệp
hóa nông thôn thì phải có sự hoạch định
chiến lược, chính sách một cách khoa học,
hợp lý của Nhà nước, trong đó không được
quên vấn đề an sinh, an ninh của nông dân,
nông thôn. Đồng thời phải có những đổi mới
mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, bộ máy,
nội dung và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị các cấp, nhất là ở cấp cơ sở.
Điều đó đòi hỏi những cải cách rất căn bản
về thể chế, tổ chức, con người.
____________________
Chú thích
1. Theo bản tin Bất động sản, Đài truyền hình Việt
Nam, ngày 5/11/2010.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, 2005. Thể chế
dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Xuân Đình, 2004. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở. Tạp chí Cộng sản (20), tr. 6-11.
3. Nguyễn Văn Long, 2003. Những hạn chế của lệ
làng cần khắc phục trong quá trình dân chủ cho xã
hội ở nông thôn. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (11),
tr. 6.
4. Trịnh Ngọc Oanh, 2003. Phát huy quyền ;àm chủ
của nhân dân, xây dựng hện thống chính trị cơ sở
vững mạnh. Tạp chí Cộng sản (11), tr. 45-49.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30758_103171_1_pb_3521_2012778.pdf