Tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản - Trường hợp huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận

2. Kiến nghị - Để mở rộng diện tích cũng như quy mô hoạt động nuôi trồng thủy sản, địa phương cần đầu tư kinh phí cho những hệ thống nuôi với công nghệ cao ở cách bờ trên 500m. - Tăng cường tập huấn kỹ thuật nuôi phù hợp với tình hình địa phương và đẩy mạnh công tác quản lý hoạt động nuôi trồng thủy sản, - Cần có cơ chế ổn định thị trường đầu ra cho sản phẩm và hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản địa phương trong các trường hợp rủi ro. - Để so sánh và định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản cho các địa phương cần thiết phải đánh giá khả năng phát triển bằng chỉ số. Do vậy, cần phải có phương pháp luận để xây dựng chỉ số phát triển bền vững phù hợp với điều kiện Việt Nam nhằm áp dụng đối với các nghiên cứu phát triển nuôi trồng thủy sản. - Các nghiên cứu tương tự nên được thực hiện ở nhiều địa phương để có thể so sánh số liệu thực tế và kết quả tính toán làm cơ sở xây dựng chỉ số phù hợp với điều kiện Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản - Trường hợp huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC TÍNH BỀN VỮNG CỦA HOẠT ĐỘNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN - TRƯỜNG HỢP HUYỆN ĐẢO PHÚ QUÝ, TỈNH BÌNH THUẬN SUSTAINABILITY OF AQUACULTURE ACTIVITIES: A CASE STUDY OF PHU QUY DISTRICT, BINH THUAN PROVINCE Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Đặng Thị Tem2 Ngày nhận bài: 29/7/2013; Ngày phản biện thông qua: 30/9/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013 TÓM TẮT Mô phỏng theo chỉ số bền vững đối với nuôi trồng thủy sản (Aquaculture Sustainable Index - ASI) được đề xuất bởi Pablo (2007), một nghiên cứu tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản tại huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận được thực hiện theo phương pháp có sự tham gia (Participatory Research) với công cụ phỏng vấn bán cấu trúc (Semi-strucrured interview). Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ số ASI = 2,31 thấp hơn giá trị bền vững nhất của bản thân chỉ số là 3,48. Điều đó chỉ ra rằng hoạt động nuôi trồng thủy sản của khu vực nghiên cứu chưa bền vững. Trong đó, giá trị chỉ báo sinh thái là 2,36; chỉ báo xã hội là 2,77 và chỉ báo kinh tế là 1,81. Do vậy, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần quan tâm nhiều hơn nữa trong việc định hướng, quy hoạch và quản lý hoạt động nhằm phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản. Từ khóa: nghiên cứu có sự tham gia, nuôi trồng thủy sản, chỉ số bền vững ABSTRACT Imitating Aquaculture Sustainable Index (ASI) raised by Pablo (2007), a study of sustainability of aquaculture at Phu Quy district, Binh Thuan province was carried out basing on Participatory Research method with a tool of Semi-strucrured interview. The results showed that ASI was 2.31, lower than the most sustainable value of index itsshelf being 3.48. This indicated that aquaculture activity of studied region was not sustainable in which, value of component indicator of Ecology, Society and Economy were 2.36, 2.7, and 1.81, respectively. Therefore, local government and functional organizations should take more concern about orientation, planning and management of activity in order to develop aquaculture sustainablly. Keywords: participatory research, aquaculture, sustainable index 1 ThS. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 2 KS. Đặng Thị Tem: Huyện đảo Phú Quý - Bình Thuận I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu vào năm 1980 trong Chiến lược bảo tồn thế giới (Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” (Nash và cộng sự, 2008). Trong báo cáo Brundtland năm 1987, “Phát triển bền vững” được định nghĩa “Là sự phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Phillip và cộng sự, 2001). Xem xét mối liên hệ giữa nuôi trồng thủy sản với phát triển bền vững, Phillips và cộng sự (2001) nhận định rằng đây là vấn đề phức tạp, rất khó để xác định và áp dụng cho nuôi trồng thủy sản. Để đạt được bền vững đến một mức độ như yêu cầu thực tế thì cần xem xét các vấn đề môi trường, kinh tế và xã hội trong phát triển nuôi trồng thủy sản. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Có những hướng dẫn chung để xem xét các vấn đề, ví dụ Quy tắc thực hiện nghề cá có trách nhiệm (The Code of Conduct on Responsible Fisheries - CCRF) được thông qua bởi FAO năm 1995. Quy tắc này đề cập tới sức khỏe động vật, an toàn và chất lượng thực phẩm, an toàn môi trường, trách nhiệm xã hội đi kèm với nghề cá. Nuôi trồng thủy sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong vấn đề thức ăn, môi trường nuôi, dịch bệnh và cả thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 (theo quyết định số 1690 của Thủ tướng Chính phủ), việc đánh giá tính bền vững đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản đóng vai trò rất quan trọng và cần thiết. Bài viết này đặt vấn đề nghiên cứu tính bền vững đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản địa phương qua nghiên cứu trường hợp huyện đảo Phú Quý. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được tiến hành tại vùng biển Lạch Dù, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2012 theo phương pháp nghiên cứu có sự tham gia với công cụ phỏng vấn mở đối với các hộ nuôi. Mô phỏng theo Pablo (2007), nghiên cứu này tập trung trong khu vực nuôi cấp huyện nên chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản (Aquaculture Sustainable Index - ASI) và các tiêu chí được xây dựng lại để phù hợp với tình hình thực tế. Trong nghiên cứu này, các chỉ báo - chỉ số và cách tính điểm nhằm đánh giá tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản được quy ước như sau: Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu (Nguồn: 1. Chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản (ASI) Chỉ số này phản ánh các khía cạnh sinh thái, xã hội và kinh tế của hoạt động nuôi trồng thủy sản. ASI được thiết kế ở đây bao gồm 3 chỉ báo riêng biệt là chí báo sinh thái (ecological indicator - ECO), chỉ báo xã hội (social indicator - SOC) và chỉ báo kinh tế (economic indicator). 1.1. Chỉ báo về sinh thái (ECO) Bảng 1. Mô tả các chỉ báo sinh thái trong nuôi trồng thủy sản Tiêu chí sinh thái Diễn giải các tiêu chí và hệ thống tính điểm Đối tượng nuôi Điểm số được đánh giá dựa theo mức độ tác động đến tính đa dạng sinh học và sinh thái địa phương trong trường hợp đối tượng nuôi thoát ra ngoài. Theo đó, loài nuôi có nguồn gốc địa phương có mức bền vững cao nhất là 3 điểm, loài nhập nội là 1 điểm. Loài có nguồn gốc quốc gia nhưng không có ở địa phương thì điểm số trung bình là 2 điểm. Loại thức ăn Thang điểm được xây dựng với việc đánh giá thức ăn tự nhiên đối với các đối tượng nuôi ăn thực vật (như động vật ăn lọc) có mức bền vững cao nhất tương ứng với 5 điểm. Thức ăn tổng hợp có điểm tương ứng là 4. Cá tạp có chất lượng tốt hoặc phế phẩm từ chế biến thủy sản là 3 điểm. Nguồn cá tạp có chất lượng xấu được xem là kém bền vững nhất tương ứng với 1 điểm, và hỗn hợp cá tạp có và không có chất lượng có điểm tương ứng là 2. Hệ thống nuôi Tính bền vững phụ thuộc dựa vào khoảng cách so với bờ kết hợp với kích thước hệ thống nuôi. Theo đó, vị trí bè nuôi có khoảng cách so với bờ lớn hơn 300 m được xem là bền vững tương ứng với 2 điểm, trường hợp còn lại tương ứng với 1 điểm. Đối với kích thước hệ thống, số lồng của bè nhỏ hơn hoặc bằng 8 được đánh giá là bền vững nhất, tương ứng điểm 4; số lồng lớn hơn 16 là kém bền vững nhất, tương ứng với 1 điểm; các trường hợp khác tương ứng lần lượt với 2 điểm (13 - 16 lồng) và 3 điểm (9 - 12 lồng). Nguồn gốc con giống Xem xét theo khía cạnh sinh thái, con giống tự nhiên được thu mua từ các chủ vựa sẽ kém bền vững nhất, tương ứng với 1 điểm. Con giống tự đánh bắt là 3 điểm. Con giống từ trại sản xuất có mức bền vững nhất là 5 điểm. Các trường hợp khác tương ứng với 2 điểm (vừa mua từ chủ vựa vừa từ đánh bắt) hoặc 4 điểm (tự đánh bắt và mua từ trại sản xuất giống). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5 Tác động môi trường Vệ sinh lồng bè là một hoạt động chăm sóc cá của người nuôi nhưng hoạt động này diễn ra thường xuyên sẽ không tốt cho môi trường xung quanh. Do đó, hoạt động này được thực hiện với tần suất lớn hơn 1 lần/7 ngày có mức bền vững thấp nhất, tương ứng với 1 điểm. Trường hợp vệ sinh lồng nhỏ hơn 1 lần/10 ngày được đánh giá là bền vững nhất, tương ứng với 3 điểm. Trường hợp trung gian tương ứng với 2 điểm. 1.2. Chỉ báo xã hội (SOC) Bảng 2 . Mô tả các chỉ báo xã hội trong nuôi trồng thủy sản Tiêu chí xã hội Diễn giải các tiêu chí và hệ thống tính điểm Trình độ người nuôi Đối với tiêu chí này, kinh nghiệm nuôi và trình độ học vấn được kết hợp đánh giá. Về khía cạnh học vấn, trình độ cấp III được đánh giá là bền vững nhất, tương ứng với 4 điểm; trình độ cấp 2 tương đương với 3 điểm; trình độ cấp 1 tương đương với 2 điểm; và mù chữ được xem là kém bền vững nhất tương đương với 1 điểm. Xét theo khía cạnh kinh nghiệm nuôi, hoạt động nuôi trên 8 năm là trường hợp bền vững nhất, tương ứng với 3 điểm; nuôi dưới 5 năm là kém bền vững nhất tương ứng với 1 điểm; trường hợp còn lại tương ứng với 2 điểm. Sử dụng thuốc và hóa chất Phương pháp và cách sử dụng thuốc có liên quan đến sức khỏe người nuôi và an toàn thực phẩm. Việc sử dụng thuốc không đúng cách và sử dụng các loại thuốc cấm sẽ gây nguy hại đến sức khỏe con người là trường hợp kém bền vững nhất, tương ứng với 1 điểm; việc dùng thuốc theo khuyến nghị được xem là bền vững nhất, tương ứng với 3 điểm; trường hợp còn lại tương ứng với 2 điểm. Quyền sử dụng mặt nước Tính công bằng xã hội ảnh hưởng đến điểm số. Trường hợp hoạt động nuôi có giấy phép và đóng thuế đầy đủ được đánh giá là bền vững nhất, tương ứng với 4 điểm. Trường hợp nuôi tự phát là kém bền vững nhất, tương ứng với 1 điểm. Các trường hợp khác tương ứng với 2 điểm (đã xin phép nhưng chưa có giấy phép) hoặc 3 điểm (có giấy phép nhưng không đóng thuế đầy đủ). Phát triển nhân lực nuôi trồng thủy sản Đối với tiêu chí này, tỷ lệ số hộ tham gia và hiệu quả lớp tập huấn được đánh giá cho điểm. Trường hợp hộ nuôi trồng thủy sản tham gia đầy đủ và hiệu quả lớp tập huấn được đánh giá tốt có mức bền vững cao nhất, tương ứng với 4. Ngược lại, tỷ lệ số hộ tham gia thấp (<40%) với hiệu quả kém được đánh giá có mức bền vững thấp nhất, tương ứng với 1. Các trường hợp khác có mức điểm trung bình, tương ứng với 2 điểm (tỷ lệ tham gia ≥40% hoặc đánh giá hiệu quả lớp tập huấn ở mức trung bình) hoặc 3 (tỷ lệ tham gia ≥70% hoặc đánh giá hiệu quả lớp tập huấn ở mức khá). 1.3. Chỉ báo kinh tế (EC I) Bảng 3. Mô tả các chỉ báo kinh tế Tiêu chí kinh tế Diễn giải các tiêu chí và hệ thống tính điểm Tính ổn định của thị trường đầu ra Thị trường đầu ra ổn định góp phần tạo thu nhập và phát triển nghề nuôi trồng thủy sản được xem là bền vững nhất, tương ứng với 2 điểm. Ngược lại, thị trường đầu ra không ổn định là kém bền vững, tương ứng với 1 điểm. Đóng góp của nuôi trồng thủy sản vào sinh kế Trường hợp bền vững nhất khi tỷ lệ đóng góp từ 90% trở lên, tương ứng với 4 điểm. Tính bền vững giảm dần khi tỷ lệ đóng góp thấp, với mức đóng góp nhỏ hơn 30% được xem là kém bền vững nhất, tương ứng với 1 điểm. Các trường hợp còn lại tương đương với 2 điểm (tỷ lệ đóng góp 30% - 50%) hoặc 3 điểm (tỷ lệ đóng góp 60% - 80%). 2. Công thức tính giá trị của chỉ báo theo các tiêu chí Sau khi đánh giá và cho điểm từng tiêu chí đối với n trường hợp khảo sát, giá trị trung bình của chỉ báo theo mỗi tiêu chí được tính theo công thức: Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Trong đó: Sdi - giá trị của chỉ báo theo tiêu chí tương ứng; i - trường hợp thứ i; wi - điểm số trường hợp thứ i; ni - số trường hợp ứng với wi và n là số mẫu khảo sát 3. Cách tính các chỉ số Giá trị của các chỉ báo (sinh thái, xã hội và kinh tế) được lấy trung bình theo điểm của mỗi chỉ báo theo các tiêu chí tương ứng bằng cách áp dụng công thức sau: Với: Mdj là giá trị của một trong ba chỉ báo được sử dụng, thể hiện giá trị của chỉ báo theo các tiêu chí tương ứng được ghi chỉ số theo i, chúng tạo nên mỗi chỉ báo và n’ là số lượng tiêu chí có trong mỗi chỉ báo. Chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản (ASI) được lấy trung bình dựa trên các chỉ báo sinh thái, chỉ báo xã hội và chỉ báo kinh tế, giá trị được tính theo công thức với Mdj lần lượt là các chỉ báo tương ứng: Với: ASI là chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản sản, thể hiện các chỉ báo được ghi chỉ số theo j. Nguồn số liệu sơ cấp được được dựa trên quá trình phỏng vấn trực tiếp người nuôi tại khu vực nghiên cứu thông qua bộ câu hỏi điều tra với số mẫu điều tra được lấy theo công thức sau: Nn = ———— (1 + N.e2) Trong đó: n - kích cỡ mẫu; N - tổng số hộ nuôi trong khu vực nghiên cứu; e - xác suất có khả năng gặp sai số loại 2 (thông thường 5%) (C.Bhujel, 2007). Dựa theo công thức trên, số mẫu được khảo sát là 85 hộ trong số 108 hộ nuôi trồng thủy sản tại địa phương. Số liệu thứ cấp sẽ được thu thập từ các báo cáo của Ủy ban Nhân dân huyện và từ các tổ chức, ban ngành, đoàn thể ở địa phương. Số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp sẽ được tổng hợp, phân tích và thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel (Version 2003). Thông tin sẽ được xử lý theo từng nội dung dựa trên phiếu câu hỏi điều tra. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Các chỉ báo liên quan đến tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản Qua quá trình khảo sát hoạt động, kết quả đánh giá được dựa trên 11 chỉ báo của vùng nuôi trồng thủy sản Lạch Dù thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 4. Kết quả phân tích tính bền vững nuôi trồng thủy sản thông qua 11 chỉ báo Các chỉ báo Giá trị tính toán Giá trị nhỏ nhất theo quy ước Giá trị lớn nhất theo quy ước Đối tượng nuôi 3,00 1 3 Thức ăn 2,02 1 5 Hệ thống nuôi Vị trí hệ thống nuôi 1,51 1 2 Kích thước hệ thống 3,48 1 4 Nguồn gốc con giống 4,36 1 5 Tác động môi trường 1,59 1 3 Trình độ người nuôi Trình độ học vấn 2,16 1 4 Kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản 2,25 1 3 Sử dụng thuốc và hóa chất 1,96 1 3 Quyền sử dụng mặt nước 3,79 1 4 Phát triển nguồn nhân lực nuôi trồng thủy sản Tỷ lệ người nuôi tham gia lớp tập huấn 3,55 1 4 Hiệu quả lớp tập huấn 2,71 1 4 Tính ổn định của thị trường 1,00 1 2 Đóng góp của nuôi trồng thủy sản vào sinh kế 2,62 1 4 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7 1.1. Các chỉ báo sinh thái (ECO) - Đối tượng nuôi Theo Quy tắc nghề nghiệp của ICES (International Council for Exploration of the Sea) năm 2005, tất cả loài mới được đưa vào nuôi đều mang đến những rủi ro tiềm ẩn cho vùng nuôi, dù loài đưa vào nuôi có mục đích hay là không. Nghiên cứu của Craig (1999) cũng nhận định có bốn tác động của loài mới đến môi trường sinh thái là tương tác loài ở dạng vật dữ và loài cạnh tranh, tương tác gen, lan truyền bệnh và thay đổi môi trường sống. Vì những loài nuôi thoát ra môi trường ngẫu nhiên hay cố tình đều tạo nên mối đe dọa đến hệ sinh thái địa phương nếu những sinh vật này không thể bắt giữ lại trong một thời gian, khi đó thế hệ con của chúng có thể sống sót và thích nghi với môi trường mới (ICES, 2005; FAO, 1995; dẫn theo Pablo, 2007). Theo kết quả khảo sát, đối tượng được nuôi là loài địa phương (cá mú đỏ và cá mú cọp), không có loài ngoại nhập. Theo đó, đối tượng nuôi ở khu vực nghiên cứu được xem là yếu tố bền vững nhất. - Thức ăn Trong thực tế, yếu tố thức ăn rất khó để đạt đến bền vững trừ khi phát triển việc nuôi các đối tượng ăn thực vật (như động vật ăn lọc); hoặc, ở mức thấp hơn, khi các nhà nghiên cứu tạo ra được loài thức ăn viên phù hợp cho cá nuôi. Trong các đối tượng nuôi trồng thủy sản, các loài tự dưỡng có bậc dinh dưỡng thấp, được xem là loài nuôi bền vững nhất về yếu tố thức ăn. Tuy nhiên, các đối tượng nuôi tại khu vực nghiên cứu là những loài ở bậc dinh dưỡng cao với yêu cầu cao về thành phần thức ăn đặc biệt là nguồn protein. Việc sử dụng thức ăn là “cá tạp” (trashfi sh) ở khu vực nuôi đã tạo ra một lượng lớn chất thải trong môi trường nuôi (Midlen và Redding, 1998), gây ô nhiễm môi trường, đồng thời có khả năng đưa đến sự căng thẳng về mặt thức ăn đối với các cộng đồng dân cư có thu nhập thấp và nguy cơ suy thoái nguồn lợi. Kết quả bảng 4 cho thấy giá trị bền vững của khía cạnh này được đánh giá thấp, tương ứng với 2,02 điểm. - Hệ thống nuôi Tại khu vực nghiên cứu, các hệ thống nuôi được đặt trong cùng điều kiện tự nhiên nên kích thước ô lồng, kích cỡ mắc lưới lồng là như nhau. Với mỗi ô lồng cách nhau từ 0,6 - 0,7m, tạo điều kiện cho dòng nước chảy giữa các lồng lưu thông tốt. Thêm vào đó, kích cỡ mắc lưới được thay đổi 2a = 1,5 – 3,5 cm là một sự điều chỉnh hợp lý, ngoài việc tạo cho nước ra vào lồng còn góp phần tăng hàm lượng oxi hòa tan. Tuy nhiên, việc chọn vị trí nuôi cũng là yếu tố quan trọng để hoạt động nuôi đạt bền vững. Người nuôi đặt bè ở vùng nước sâu trên 5 m và cách bờ trên 200m tập trung chủ yếu ở vực nước từ 200m - 400m. Đối với những bè cách bờ 200m - 300m thường có số lồng dao động từ 4 - 12 lồng, với những bè ở xa bờ hơn thường trên 12 lồng. Kết quả khảo sát cho thấy có 42 bè đặt ở khoảng cách dưới 300 m so với bờ, chiếm đến 49,41% tổng số hệ thống nuôi. Đây là những trường hợp được đánh giá có tính bền vững thấp. Tuy nhiên, số lồng của mỗi bè không nhiều, có 52 bè với số lồng nhỏ hơn 9, chiếm đến 61,18%; 25 bè có số lồng dao động từ 9 - 12, tương đương 29,41%. Điều này làm giảm áp lực về hàm lượng oxi hòa tan khi dòng nước chảy yếu, qua đó góp phần nâng cao tính bền vững của hoạt động nuôi (tương ứng 1,51 và 3,48 điểm). - Nguồn gốc con giống Hai đối tượng nuôi chính ở khu vực nghiên cứu đều là loài địa phương nhưng có nguồn gốc con giống khác nhau. Cá mú đỏ được đánh bắt ngoài tự nhiên, cá mú cọp được mua từ các trại sản xuất giống. Con giống ngoài tự nhiên được người nuôi tự đánh bắt hoặc thu mua trực tiếp từ ngư dân đánh bắt hoặc từ các chủ vựa. Việc thu mua cá giống có hệ thống đã thúc đẩy ngư dân khai thác nguồn lợi cá giống một cách ồ ạt vì lợi nhuận. Điều này gây ảnh hưởng đến nguồn lợi tự nhiên của đối tượng nuôi và cả những đối tượng khác không theo mục đích. Ngược lại, cá mú cọp giống mua từ các trại sản xuất có thể chủ động được nguồn giống và qua đó làm giảm áp lực đánh bắt ngoài tự nhiên. Do vậy, phần lớn người nuôi chọn cá mú cọp để nuôi. Kết quả khảo sát cho thấy có 83 trường hợp chiếm 97,65%; trong đó có 57 hộ, chiếm 67,06% nuôi 100% cá mú cọp; và 26 hộ còn lại chiếm 30,59% nuôi cả hai đối tượng gồm cá mú cọp và mú đỏ. Xem xét theo tình hình thực tế, nguồn giống cá mú cọp có thể thả quanh năm với lượng lớn nhưng không ảnh hưởng đến nguồn lợi ngoài tự nhiên. Do đó, tính bền vững nguồn gốc con giống ở khu vực nghiên cứu được đánh giá tương đối cao là 4,36 (bảng 4). - Tác động môi trường Vệ sinh lồng là một trong những hoạt động chăm sóc và phòng trị bệnh cho cá nuôi. Tuy nhiên, điều này ảnh hưởng đến môi trường xung quanh do chất thải từ xác rong tảo và một số sinh vật bám lâu ngày trên lưới. Kết hợp với hoạt động này, người nuôi còn tắm cá với nhiều loại thuốc và hóa chất. Nước ngọt pha thuốc sau khi tắm cá được đổ trực tiếp xuống biển. Do đó dư lượng thuốc và hóa chất tồn tại ở vùng nuôi có khả năng ngày càng tăng lên nếu hoạt động này diễn ra với mức độ cao. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Đây có thể là hành động đưa đến nguy cơ tiềm ẩn cho vùng nuôi địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy có đến 43 hộ nuôi vệ sinh lồng với tần số nhiều hơn 1 lần/7 ngày, 34 hộ là 1 lần/7 - 10 ngày và 8 hộ là thấp hơn 1 lần/10 ngày lần lượt chiếm tỷ lệ là 50,59%, 40% và 9,41%. Thực tế còn cho thấy các hệ thống nuôi có khoảng cách gần so với bờ có tần số vệ sinh lồng cao hơn những bè có khoảng cách xa bờ. Do vậy, xét về yếu tố tác động của môi trường, hoạt động nuôi ở địa phương rất khó đạt được bền vững với kết quả đánh giá là 1,59 điểm (bảng 4). 1.2. Các chí báo xã hội (SOC) - Trình độ người nuôi Thực tế tại khu vực nghiên cứu, người nuôi có học vấn thấp cùng với việc không có trình độ chuyên môn. Điều này đã hạn chế người nuôi trong việc nghiên cứu tài liệu cũng như tiếp cận với kỹ thuật nuôi mới. Hơn nữa, thông tin dịch bệnh và đặc biệt là thị trường luôn thay đổi nên việc cập nhật thường xuyên là một vấn đề cho người nuôi. Tuy nhiên, kinh nghiệm nuôi nhiều năm đã tạo nên tính bền vững khá cao trong hoạt động nuôi của vùng với giá trị được đánh giá là 2,25 điểm (bảng 4). - Sử dụng thuốc và hóa chất Kết quả khảo sát tại khu vực nghiên cứu cho thấy chỉ một vài trường hợp tuân thủ đúng theo hướng dẫn sử dụng thuốc và hóa chất của trạm khuyến ngư. Phần lớn (lên đến 70 trường hợp, chiếm tỷ lệ 82,35%) người nuôi sử dụng thêm thuốc của các cơ sở bán cá giống. Tuy họ không dùng các loại thuốc cấm nhưng luôn dùng thuốc theo cảm tính. Phần còn lại (tương ứng với 7,06%) sử dụng cả thuốc và hóa chất đã bị cấm. Điều đó nói lên ý thức người nuôi không cao trong việc dùng thuốc và hóa chất phòng trị bệnh cá. Do đó dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe người nuôi cũng như của người tiêu thụ sản phẩm do dư lượng trong thịt cá. Do thuốc và hóa chất được sử dụng chủ yếu theo cảm tính nên tính bền vững của hoạt động nuôi tương đối thấp với điểm số là 1,96 (bảng 4). - Quyền sử dụng mặt nước Người nuôi phải đóng thuế mặt nước hàng năm theo diện tích mà người nuôi sử dụng đã được đề cập trong quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của Chính phủ Việt Nam về việc giao và thuê mặt nước biển tại điều 16 và 17, mục 3, chương 2 của Nghị Định 31/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được tất cả người nuôi địa phương tuân thủ. Kết quả khảo sát cho thấy có 65 hộ nuôi, chiếm 76,47% thực hiện đầy đủ theo các yêu cầu quản lý nuôi trồng thủy sản địa phương nên yếu tố quyền sử dụng mặt nước có tính bền vững cao, giá trị đạt được là 3,79 điểm (bảng 4). - Phát triển nguồn nhân lực nuôi trồng thủy sản Phát triển nguồn nhân lực nuôi trồng thủy sản được đánh giá dựa trên tỷ lệ tham gia lớp tập huấn và đánh giá hiệu quả lớp tập huấn của người nuôi. Kết quả điều tra cho thấy phần lớn người nuôi tích cực tham gia lớp tập huấn, có 59 hộ nuôi tham gia đầy đủ chiếm 69,41%. Tuy nhiên hiệu quả lớp tập huấn không được đánh giá cao, chỉ có 10 trường hợp đánh giá tốt, 66 trường hợp đánh giá khá và 9 trường hợp còn lại là trung bình, tương ứng lần lượt với tỷ lệ 11,76%, 77,65% và 10,59%. Kết quả phân tích tính bền vững của hoạt động nuôi trồng thủy sản địa phương theo chí báo này là 3,55 và 2,71 lần lượt theo tỷ lệ người tham gia và hiệu quả của lớp tập huấn (bảng 4). 1.3. Chỉ báo kinh tế (ECO) - Tính ổn định của thị trường đầu ra Ở khu vực nghiên cứu, yếu tố thị trường đầu ra của sản phẩm nuôi trồng thủy sản rất khó đạt bền vững. Cá nuôi chủ yếu xuất sang thị trường nước ngoài. Tuy nhiên người nuôi không có cơ hội trực tiếp tiếp cận được thị trường tiêu thụ hoặc thông tin về thị trường. Do đó sản phẩm được thu mua thông qua thương lái. Điều này làm cho giá trị của sản phẩm dễ bị hạ thấp và thị trường đầu ra của sản phẩm không ổn định. Với hai đối tượng nuôi chính của địa phương, dòng cá mú đỏ được xem là có thị trường tương đối ổn định, giá bán không dao động nhiều và được người tiêu dùng ưa chuộng trong khi đó thị trường cá mú cọp luôn bất ổn. - Đóng góp của nuôi trồng thủy sản vào sinh kế Do hoạt động nuôi trồng thủy sản ở địa phương không tạo thu nhập ổn định và mang tính rủi ro cao nên chưa được hầu hết người nuôi xem đây là hoạt động tạo thu nhập chính của gia đình. Kết quả điều tra cho thấy chỉ hơn 60% hộ gia đình dựa vào chủ yếu nguồn thu nhập này với tỷ lệ đóng góp hơn 50%. Điều này cho thấy tính bền vững của hoạt động này chưa cao, với giá trị đạt được là 2,62 điểm trong khi giá trị được đánh giá bền vững nhất của khía cạnh là 4,0 điểm. Do vậy, khả năng đầu tư cho hoạt động này cũng hạn chế và chưa được nhiều người quan tâm. 2. Chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản của vùng nghiên cứu (ASI) Chỉ số bền vững nuôi trồng thủy sản (ASI) là sự kết hợp của ba chỉ báo gồm sinh thái (ECO), xã hội (SOC) và kinh tế (ECO). Giá trị các chỉ số được thể hiện ở bảng 5. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9 Bảng 5. Kết quả phân tích tính bền vững hoạt động nuôi của khu vực thông qua chỉ số ASI Chỉ số Giá trị tính toán Giá trị nhỏ nhất theo quy ước Giá trị lớn nhất theo quy ước Sinh thái (ECO) 2,36 1 3,80 Xã hội (SOC) 2,77 1 3,63 Kinh tế (ECO) 1,81 1 3,00 ASI 2,31 1 3,48 Bảng 5 cho thấy hoạt động nuôi trồng thủy sản ở vùng biển Lạch Dù, huyện Phú Quý chưa đạt bền vững với chỉ số bền vững 2,31 điểm, thấp hơn giá trị bền vững nhất của bản thân chỉ số là 3,48 điểm. Do đó, địa phương cần quan tâm nhiều hơn nữa trong việc định hướng, quy hoạch, phát triển và quản lý nuôi trồng thủy sản. Hoạt động nuôi trồng thủy sản trong khu vực nghiên cứu đạt bền vững không chỉ ảnh hưởng quan trọng đến người nuôi mà còn góp phần phát triển huyện đảo. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Chỉ số ASI = 2,31 cho thấy nuôi trồng thủy sản của khu vực nghiên cứu chưa bền vững. Trong đó, giá trị chỉ báo sinh thái là 2,36 (so với giá trị lớn nhất theo quy ước là 3,80); chỉ báo xã hội là 2,77 (so với giá trị lớn nhất theo quy ước là 3,63) và chỉ báo kinh tế là 1,81 (so với giá trị lớn nhất theo quy ước là 3,00). Thực tế cho thấy hoạt động nuôi trồng thủy sản địa phương còn nhiều vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là thị trường đầu ra. 2. Kiến nghị - Để mở rộng diện tích cũng như quy mô hoạt động nuôi trồng thủy sản, địa phương cần đầu tư kinh phí cho những hệ thống nuôi với công nghệ cao ở cách bờ trên 500m. - Tăng cường tập huấn kỹ thuật nuôi phù hợp với tình hình địa phương và đẩy mạnh công tác quản lý hoạt động nuôi trồng thủy sản, - Cần có cơ chế ổn định thị trường đầu ra cho sản phẩm và hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản địa phương trong các trường hợp rủi ro. - Để so sánh và định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản cho các địa phương cần thiết phải đánh giá khả năng phát triển bằng chỉ số. Do vậy, cần phải có phương pháp luận để xây dựng chỉ số phát triển bền vững phù hợp với điều kiện Việt Nam nhằm áp dụng đối với các nghiên cứu phát triển nuôi trồng thủy sản. - Các nghiên cứu tương tự nên được thực hiện ở nhiều địa phương để có thể so sánh số liệu thực tế và kết quả tính toán làm cơ sở xây dựng chỉ số phù hợp với điều kiện Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Craig Emerson, 1999. Aquaculture impacts on the environment. Cambridge Scientifi c Abtracts. 2. International Council for Exploration of the Sea (ICES), 2005. Report of the ICES - FAO Working Group on Fish Techonology and Fish Behaviour (WTFGFB) (18 - 22 April 2005). Rome, Italy. 3. Nash, C.E., Burbridge, P.R. and Volkman, J.K. 2008. Guidelines for ecological risk assessment of marine fi sh aquaculture. In M.G. Bondad-Reantaso, J.R. Arthur and R.P. Subasinghe (eds). Understanding and applying risk analysis in aquaculture. FAO Fisheries and Aquculture Technical Paper. No. 519. Rome, FAO: 135-151. 4. Pablo Trujillo, 2007. A global analysis of the sustainability of marine aquaculture. A thesis submitted in partial fulfi llment of the requirements for the degree of master of science. In the faculty of graduate studies. The university of British Columbia. 5. Phillips, M.J., Boyd, C. & Edwards, P. 2001. Systems approach to aquaculture management. In R.P. Subasinghe, P. Bueno, M.J. Phillips, C. Hough, S.E. McGladdery & J.R. Arthur (eds). Aquaculture in the Third Millennium. Technical Proceedings of the Conference on Aquaculture in the Third Millennium, Bangkok, Thailand, 20-25 February 2000: 239-247. NACA, Bangkok and FAO, Rome. 6. Ram C.Bhujel, 2007. Statistics for aquaculture, Asian Institure of Technology (AIT). Wiley- Blackwell.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_ben_vung_cua_hoat_dong_nuoi_trong_thuy_san_truong_hop_h.pdf