Như vậy, từ các hệ thống phân tầng xã hội mà loài người đã trải qua và cơ sở
lý thuyết xã hội học của nó đến các nghiên cứu trên thế giới, từ trong quá khứ lịch sử
đến khảo sát thực tiễn hiện nay ở nước ta đã cung cấp những căn cứ để chúng tôi đưa
ra dự đoán trên đây. Đó chính là những gợi mở mang tính lý thuyết trong phương
hướng nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự kiện - Nhận định Xã hội học số 1 (77), 2002 51
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và
áp dụng vào nghiên cứu phân hóa giàu nghèo
ở n−ớc ta hiện nay
Đỗ Thiên Kính
1. Giới hạn lịch sử của khái niệm phân tầng xã hội.
Có nhiều cách tiếp cận về phân tầng xã hội khác nhau trong truyền thống của
xã hội học. Chẳng hạn K. Marx chú ý đến phân tầng d−ới khía cạnh giai cấp xã hội.
Ông cho rằng, phân tầng là do quyết định của nhân tố kinh tế: quyền sở hữu t− liệu
sản xuất thuộc về ai. Do vậy, có thể phân chia các tầng lớp trong xã hội thành giai
cấp t− sản và giai cấp vô sản trên cơ sở mối quan hệ của họ với t− liệu sản xuất.
Trong khi đó, M. Weber cho rằng phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc
(hierarchical ranking system) các nhóm ng−ời vào những vị trí xác định liên quan
đến của cải tài sản, quyền lực chính trị và uy tín xã hội. Hệ thống xếp hạng cấp bậc
này là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định bền vững qua các thế hệ. Theo đó, phân
tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính chất cơ cấu của xã hội, trong đó các thành
viên sẽ khác nhau về khả năng thăng tiến (di động) bởi địa vị không giống nhau của
họ trong bậc thang xã hội.
Nh− vậy, cách tiếp cận kinh điển đã sắp xếp các thành viên trong xã hội theo
tối đa là ba chiều cạnh (dimensions). Các chiều cạnh này có mối quan hệ và độc lập
t−ơng đối với nhau. Sau này xã hội càng phát triển, các nhà nghiên cứu cho rằng phải
sắp xếp các thành viên trong xã hội theo nhiều chiều cạnh mới, khác nhau hơn và là
đa chiều (multidimensions), chứ không đơn giản chỉ một vài chiều nh− tr−ớc đây. Về
đại thể, có thể phân chia những vị thế của các thành viên trong xã hội đ−ợc sắp xếp
theo các chiều cạnh trên đây thành hai loại: địa vị gán cho (ascribed status) và địa vị
đạt đ−ợc (achieved status). Xã hội càng phát triển thì địa vị đạt đ−ợc càng nổi trội, còn
địa vị gán cho sẽ mờ dần, bởi vì tính cơ động xã hội ở từng cá nhân ngày càng cao.
Nhìn chung, trong lịch sử đã tồn tại các hệ thống phân tầng xã hội khác nhau:
• Hệ thống nô lệ phân chia thành hai tầng lớp chủ nô và nô lệ.
• Trong hệ thống đẳng cấp, những thành viên trong cùng đẳng cấp đều có
chung một địa vị đ−ợc gán cho có sẵn, chứ không phải là địa vị đạt đ−ợc (tức
là phải phấn đấu mới giành đ−ợc). Ví dụ, hệ thống đẳng cấp ở ấn Độ gồm
có: brahmane (tăng lữ), kshatriya (chiến binh), vaisya (thợ thủ công, nông
Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và ... 52
dân và th−ơng nhân), oudra (tôi tớ).
• Hệ thống phong kiến phân chia thành địa chủ và nông dân làm thuê
• Hệ thống t− bản phân chia thành giai cấp t− sản và giai cấp công nhân.
Trong các hệ thống phân tầng trên, những hệ thống đầu (nô lệ và đẳng cấp) có
tính cơ động thấp. Do vậy, các cá nhân th−ờng ở những địa vị gán cho. Xã hội càng
phát triển về sau (phong kiến, t− bản chủ nghĩa) do có tính cơ động cao, nên các cá
nhân th−ờng chiếm giữ những địa vị đạt đ−ợc.
Trong xã hội công nghiệp hiện nay, tính đa chiều trong phân tầng xã hội càng
nổi rõ, do vậy cách tiếp cận kinh điển ở trên có phần hạn chế. Khắc phục những hạn chế
này, các nhà nghiên cứu đã đ−a ra nhiều chiều cạnh và tiêu chuẩn khác nhau để xây
dựng những mô hình phân tầng khác nhau cho từng xã hội cụ thể. Ví dụ ở Mỹ, ng−ời ta
sắp xếp các thành viên trong xã hội vào các giai cấp trên cơ sở thu nhập và nghề nghiệp.
Căn cứ vào hai chiều cạnh (tiêu chí) này, phần lớn các nhà xã hội học đều thừa nhận ở
Mỹ có các giai cấp nh− sau (Ian Robertson: Sociology):
- Giai cấp th−ợng l−u: 1 % ~ 3 % (dân số)
- Trung l−u lớp trên: 10 % ~ 15 %.
- Trung l−u lớp d−ới: 30 % ~ 35 %.
- Giai cấp lao động: 40 % ~ 45 %.
- Giai cấp hạ l−u: 20 % ~ 25 %.
ở Nhật Bản, có nhiều cách phân chia tầng lớp xã hội n−ớc này sau chiến
tranh thế giới thứ hai. Trong đó, cách phân chia thành 7 tầng lớp là t−ơng đối điển
hình. Cách này dựa trên cơ sở địa vị làm việc (ng−ời chủ, hoặc ng−ời làm thuê), quy
mô kinh doanh và nghề nghiệp (Tominaga Kenichi, 1996):
- Nhà kinh doanh (thuê 5 ng−ời trở lên)
- Ng−ời lao động trí óc (viên chức) xí nghiệp lớn (có 300 lao động trở lên).
- Ng−ời lao động trí óc xí nghiệp vừa và nhỏ.
- Công nhân xí nghiệp lớn.
- Công nhân xí nghiệp vừa và nhỏ.
- Ng−ời tự doanh quy mô nhỏ (5 ng−ời trở xuống) ngoài nông nghiệp.
- Nông dân.
Trong hai xã hội Mỹ và Nhật Bản vừa kể, tính di động của các giai cấp và
tầng lớp rất mạnkh, do vậy vị thế của các cá nhân th−ờng đ−ợc thể hiện qua địa vị
đạt đ−ợc. Hai n−ớc trên (đặc biệt là Nhật Bản), sự phân tầng xã hội đã khác nhiều
so với lý thuyết kinh điển của K. Max và M. Weber. Hai n−ớc đã trải qua quá trình
công nghiệp hóa cao độ nên chiều cạnh biến đổi nghề nghiệp trở thành một trong
những tiêu chí chủ yếu để phân hạng các tầng lớp trong xã hội. Nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng, sự di động liên thế hệ trong cơ cấu phân tầng ở các xã hội công nghiệp
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Đỗ Thiên Kính 53
phát triển đều đ−ợc thể hiện qua sự chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp. Do vậy, xu
h−ớng cơ động theo cơ cấu nghề nghiệp (tức là quá trình chuyển đổi từ những
ngành nghề nông nghiệp truyền thống sang những ngành nghề phi nông nghiệp
của thời kỳ công nghiệp hóa) ở các n−ớc đều t−ơng tự nhau. Tiếp đó là yếu tố học
vấn, giáo dục cũng ảnh h−ởng đến quá trình này và trở thành tiêu chí quan trọng
bên cạnh nghề nghiệp (Ian Robertson: Sociology). Nh− vậy, trong xã hội công
nghiệp hiện đại ngày nay, yếu tố học vấn và nghề nghiệp trở thành những tiêu chí
rất quan trọng trong nghiên cứu cấu trúc xã hội. Bởi vì đây là hai yếu tố đóng góp
chính vào việc giành địa vị đạt đ−ợc của các cá nhân.
Còn ở Việt Nam thì sao? Chúng ta hãy điểm qua lịch sử d−ới đây.
2. Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong lịch sử (xem: Nguyễn Quang Ngọc, 1998).
2.1. Xã hội Việt Nam từ thời kỳ dựng n−ớc Văn Lang - Âu Lạc đến thời kỳ đầu
độc lập (thế kỷ thứ X):
Trong thời kỳ này có hơn 1000 năm Bắc thuộc của phong kiến ph−ơng Bắc (từ
năm 179 tr−ớc CN, sau thất bại của An D−ơng V−ơng cho đến năm 938, chiến thắng
Bạch Đằng). Đến cuối thời kỳ này, xã hội Việt Nam vẫn thuộc loại hình công xã nông
thôn (hoặc còn gọi là ph−ơng thức sản xuất châu á) và bao gồm ba tầng lớp chính:
- Tầng lớp thống trị: bao gồm quý tộc, quan lại và một số "thổ hào", "hào
tr−ởng", "lệnh tộc".
- Tầng lớp nông dân công xã: là nhóm ng−ời giữ vai trò lực l−ợng sản xuất chủ
yếu trong xã hội. Họ có nghĩa vụ đóng góp đối với công xã mình sinh sống và đóng góp
đối với nhà n−ớc thông qua tầng lớp thống trị ở công xã. Nhìn chung họ t−ơng đối tự do.
- Tầng lớp nô tỳ: nhóm ng−ời phục vụ trong gia đình quý tộc, hào tr−ởng.
Ba tầng lớp trên thể hiện địa vị gán cho trong xã hội là chủ yếu. Cơ cấu phân
tầng xã hội trong thời kỳ này có lẽ thể hiện theo tiêu chuẩn xếp hạng tài sản và
quyền lực của M. Weber.
2.2. Xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến (từ khi thoát khỏi Bắc thuộc cho tới
tr−ớc khi Pháp xâm l−ợc năm 1858):
Thế kỷ XI-XV, bức tranh toàn cảnh phân tầng xã hội ở Việt Nam bao gồm hai
mảng chính là vua-quan và bình dân. Vua quan là đẳng cấp bên trên, cầm quyền và
thống trị. Đại bộ phận còn lại là đẳng cấp bình dân bị trị, họ vừa là thần dân và vừa
bị bóc lột. Nhà vua đứng ở đỉnh tối cao, tầng lớp th−ợng l−u tiếp theo là hàng ngũ
quan lại các cấp (gồm quý tộc và quan liêu). Đông đảo quần chúng bình dân ở d−ới
đáy, bao gồm nông dân cày ruộng công làng xã và nộp tô thuế; nông dân tiểu t− hữu
và địa chủ bình dân; thợ thủ công và th−ơng nhân.
Riêng tầng lớp quý tộc - quan liêu, địa vị trong xã hội đ−ợc nhà vua gán cho.
Địa vị này không ổn định và th−ờng thay đổi khi triều vua thay đổi. Sự di động của
tầng lớp này không theo chuẩn lý thuyết của các nhà xã hội học kinh điển. Cuối
giai đoạn này có xuất hiện những ng−ời quan liêu nho sĩ đứng trong hàng ngũ quan
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và ... 54
lại. Tầng lớp nho sĩ xuất hiện là do năng lực học tập và phấn đấu của họ. Nh− vậy,
trong hàng ngũ quý tộc - quan liêu đã xuất hiện địa vị đạt đ−ợc ở tầng lớp nho sĩ do
yếu tố học vấn tác động. Nói cách khác, nhân tố học vấn đã tác động hình thành
nên tầng lớp nho sĩ. Sự di động xã hội của tầng lớp quan liêu nho sĩ chắc sẽ ổn định
hơn tầng lớp quý tộc đ−ợc nhà vua gán cho (ban cho).
Thế kỷ XVI - giữa XIX (1858), bức tranh toàn cảnh phân tầng xã hội ở Việt
Nam đ−ợc nhìn theo hai góc độ cơ cấu là giai cấp và đẳng cấp. Xét theo mối quan
hệ kinh tế - giai cấp đơn tuyến, giai cấp phong kiến (địa chủ) và nông dân phụ
thuộc là hai giai cấp trung tâm của xã hội Việt Nam. Xét theo cơ cấu đẳng cấp, tiêu
chuẩn để phân biệt đẳng cấp là sự kết hợp các yếu tố về chức t−ớc, tuổi tác và địa
vị. ở nông thôn có ba đẳng cấp chính: quan viên (quan lại văn võ, nho sĩ), dân
chính c− (dân đinh) và dân ngụ c−. ở đô thị đ−ợc phân chia thành tầng lớp quan
liêu (vua quan thuộc triều đình trung −ơng và chính quyền địa ph−ơng), thợ thủ
công-th−ơng nhân-nông dân (bộ phận đông đảo và là đẳng cấp bị trị) và nho sĩ.
Trong hai loại quan hệ cơ cấu trên, thì quan hệ đẳng cấp là nổi trội, còn quan hệ
giai cấp không phát triển. Ngoài hai góc độ cơ cấu trên, xã hội Việt Nam còn tồn tại
cơ cấu phân tầng theo tiêu chí nghề nghiệp: sĩ - nông - công - th−ơng. Sự xuất hiện
rõ rệt của tầng lớp nho sĩ thời kỳ này là tiếp tục khẳng định yếu tố tác động của học
vấn từ thời kỳ tr−ớc. Sự tác động này đã dẫn tới hình thành tầng lớp nho sĩ nổi trội:
"nhất sĩ, nhì nông", nh−ng ch−a bền vững. Bởi vì vẫn có tình trạng đảo ng−ợc:
"nhất nông, nhì sĩ".
Nh− vậy, các cơ cấu giai tầng (giai cấp và tầng lớp) thời kỳ phong kiến ở Việt
Nam là đan xen và chồng chéo nhau. Tính đa chiều (multidimensions) trong phân
tầng xã hội đ−ợc thể hiện rất rõ. Chúng dựa trên nhiều tiêu chí phân chia: chức t−ớc,
địa vị, quyền lực, tài sản, nghề nghiệp, tuổi tác và học vấn. Có lẽ di động xã hội chủ
yếu là di động ngang giữa các giai tầng, riêng tầng lớp nho sĩ thể hiện sự di động dọc
khá rõ, vì tầng lớp này ngày càng nổi trội và địa vị đạt đ−ợc ở họ cũng rõ nét.
2.3. Xã hội Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp (1858-1945):
Thời kỳ này, cơ cấu giai tầng trong xã hội phong kiến cũ vẫn giữ nguyên. Do
bị Pháp cai trị, cho nên giai cấp t− bản thuộc địa đã bao trùm toàn bộ cơ cấu giai
tầng cũ, đồng thời xuất hiện thêm một số tầng lớp mới là giai cấp công nhân và giai
cấp tiểu t− sản dân tộc (nho sĩ và trí thức mới). Có thể nói, bổ sung vào tính đa chiều
trong phân tầng xã hội ở giai đoạn tr−ớc, thời kỳ này xuất hiện thêm chiều cạnh
phân tầng xã hội theo lý thuyết giai cấp của K. Marx. Tính đa chiều trong phân tầng
xã hội ở Việt Nam ngày càng phức tạp thêm.
2.4. Xã hội Việt Nam thời kỳ từ 1945 đến tr−ớc khi "đổi mới" (1988):
Đầu thời kỳ này (1945-1954), có sự giảm dần cơ cấu nhiều giai tầng. Càng về
cuối giai đoạn (1955-1988), cơ cấu giai cấp càng nổi trội và thu gọn lại trong kết cấu
giai cấp công nhân, nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Các giai
cấp này t−ơng ứng với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đối với t− liệu sản
xuất. Đây là kết cấu giai cấp hình thức. Các giai cấp đều là anh em. Không có sự đối
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Đỗ Thiên Kính 55
lập và xung đột về ý thức giai cấp. Bởi vì cơ sở kinh tế quy định kết cấu giai cấp thời kỳ
này là chế độ công hữu duy nhất. Đa số dân c− trong các giai tầng đều sống trong tình
trạng nghèo đói. Cũng có sự chênh lệch mức sống vật chất giữa các tầng lớp, nh−ng
không lớn. Kết cấu hình thức này đ−ợc xây dựng theo lý thuyết h−ớng tới một xã hội
không còn giai cấp (chủ nghĩa cộng sản).
Đặc điểm nổi bật ở thời kỳ này là chiều cạnh phân tầng xã hội theo lý thuyết
giai cấp của Marx - Lenin giữ địa vị thống trị tuyệt đối. Đồng thời, có lẽ di động xã
hội cũng chủ yếu là di động ngang trong giai cấp. Di động dọc b−ớc đầu đạt đ−ợc ở
tầng lớp nho sĩ tr−ớc đây có lẽ phải tạm dừng, điều kiện xã hội đã kiềm chế sự thăng
tiến của các cá nhân. Điều này đã tạo nên sự trì trệ trong cả thời kỳ quan liêu bao
cấp và dẫn tới sự thay đổi trong thời kỳ "đổi mới" đ−ợc trình bày d−ới đây.
Qua quá trình chuyển biến các giai tầng trong lịch sử trên đây, chúng tôi xin
trích dẫn nguồn t− liệu lịch sử đã dựa vào nh− sau:
"Quá trình biến chuyển của cơ cấu xã hội trong tiến trình lịch sử Việt Nam cho
đến tr−ớc thời điểm đổi mới là hết sức lâu dài, chậm chạp, bị chi phối bởi quá nhiều
những tác động khách quan (...) Nó luôn bị ngắt quãng và biến dạng do những yếu tố
ngoại sinh tác động (...) đặc biệt quan trọng là sự xâm l−ợc và thống trị của các thế lực
phong kiến và đế quốc ngoại bang. Những yếu tố phát triển nội tại, tự nhiên của xã hội
Việt Nam hoặc là kết hợp, hoặc là bị chi phối bởi các yếu tố ngoại lai (...) đã tạo nên
những nét đặc thù của cơ cấu xã hội Việt Nam trong suốt quá trình biến chuyển (...) Quá
trình này đã tạo nên đặc điểm nổi bật của cơ cấu xã hội Việt Nam là một cơ cấu xã hội có
nhiều nét đặc thù với sự phân hóa xã hội, sự phân tầng giai cấp không rõ ràng, triệt để,
với sự bảo l−u quá lâu dài của tất cả các hình thái xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử (...)
Vì thế, nếu phân tích cấu trúc xã hội Việt Nam ta thấy rất rõ tình trạng chồng chất, đan
xen của nhiều hình thái xã hội khác nhau (...).
Xã hội Việt Nam vốn là một xã hội của c− dân nông nghiệp, trải qua tr−ờng kỳ biến
đổi cho đến ngày nay mà tỉ lệ c− dân nông nghiệp vẫn còn chiếm khoảng 80 % dân số cả n−ớc
thì có nghĩa là xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn còn là xã hội của c− dân nông nghiệp - nông
dân. Điều này đã chỉ ra một thực tế không thể phủ nhận đ−ợc là mặc dù chúng ta đã hoàn
thành cuộc cách mạng thay đổi địa vị các giai cấp một cách triệt để, nh−ng về mặt trình độ xã
hội ta vẫn còn thấp kém, lạc hậu. Cơ cấu xã hội Việt Nam kể từ trong chiều sâu của lịch sử
đất n−ớc chuyển đổi một cách hết sức nặng nề, chậm chạp. Chúng ta đã từng bị tụt hậu quá
xa so với thời đại và nguy cơ bị tụt hậu không phải là không còn đe dọa cuộc sống ngày nay!
Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp trồng lúa n−ớc, trong đó nông nghiệp luôn
luôn đóng vai trò cơ sở của nền kinh tế quốc dân, gia đình nông dân là tế bào, là đơn vị nền tảng
của xã hội. Đó chính là hằng số xuyên suốt lịch sử xã hội Việt Nam từ buổi bình minh của lịch
sử cho đến nay. Trên đất n−ớc ta quá trình phân công lao động xã hội (...) diễn ra (...) hết sức
chậm chạp và không rõ ràng gắn theo đó là sự mờ nhạt, trì trệ các quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và quá trình đô thị hóa (...) Khuynh h−ớng kết hợp một cách chặt chẽ cả ba thành phần
kinh tế nông - công - th−ơng nghiệp trong mỗi gia đình nông dân, mỗi làng xã vẫn là khuynh
h−ớng chủ đạo (...) Quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, kể cả khu vực nông thôn lẫn
thành thị là quá trình phát triển trên cái trục cơ bản kinh tế tiểu nông. Xã hội tiểu nông là một
xã hội mang nặng tính bình quân (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.T.K). Tuy trong xã hội vẫn luôn
luôn xảy ra tình trạng phân hóa giàu - nghèo, phân hóa giai cấp, đẳng cấp (...) nh−ng sự phân
hóa đó không rõ ràng, triệt để (...) ranh giới giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội không rạch
ròi, không dứt khoát và rất t−ơng đối (...) Đó là ch−a kể đến một thực tế là trong mỗi giai cấp,
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và ... 56
tầng lớp đều có chứa đựng những yếu tố đặc tr−ng của giai cấp, tầng lớp khác.
Tình hình trên dẫn đến một thực tế là ở n−ớc ta quan hệ giai cấp vừa chứa đựng
những mâu thuẫn vừa có những yếu tố t−ơng đồng, vì vậy mà trong xã hội tính chất đối
kháng giai cấp không gay gắt, quyết liệt nh− ở nhiều n−ớc khác (...) Nhìn chung trong toàn bộ
tiến trình lịch sử Việt Nam lúc nào quan hệ dân tộc, ý thức dân tộc cũng cao hơn, đậm nét
hơn, sâu sắc hơn quan hệ và ý thức giai cấp." (Nguyễn Quang Ngọc, 1998: 295-303). (Tác giả
có đảo lại trật tự đoạn trích dẫn đôi chút-Đ.T.K).
3. áp dụng khái niệm phân tầng xã hội trong nghiên cứu phân hóa
giàu nghèo ở Việt Nam trong thời kỳ "đổi mới" (từ 1988 đến nay).
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị tr−ờng
và thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu t− liệu sản xuất. Do vậy, các giai
cấp hình thức trên đây đã biến đổi và biến mất. Chẳng hạn nh− giai cấp nông dân
tập thể không còn nữa. Thay vào đó là các hình thức kinh tế hộ gia đình ngày càng
phát triển trong mọi lĩnh vực sản xuất. Do kinh tế hộ gia đình đ−ợc phát triển trong
cơ chế thị tr−ờng, cho nên tính bình quân của xã hội tiểu nông tr−ớc đây đang giảm
dần. Mặt bằng cuộc sống vật chất trong xã hội đã xuất hiện nhiều điểm gồ ghề và lồi
lõm: nhiều ng−ời có mức sống ngày càng khá hơn và trở nên giàu có; đồng thời cũng
có nhiều ng−ời bị nghèo đi t−ơng đối trong bối cảnh cả n−ớc vẫn còn 37,4 % dân số
(năm 1998) sống d−ới mức nghèo tuyệt đối (theo tiêu chuẩn quốc tế áp dụng cho các
n−ớc đang phát triển).
Dân số sống d−ới mức nghèo tuyệt đối đã giảm từ 58,1 % vào năm 1993 xuống
còn 37,4 % vào năm 1998 (Tổng cục Thống kê, 2000: 263). Cùng với quá trình giảm
nghèo này, mức sống của đa số dân c− cũng đã tăng lên nhiều sau 5 năm (chi tiêu
dùng bình quân đầu ng−ời trong cả n−ớc đã tăng lên 1,43 lần từ năm 1993 đến năm
1998). Trong xã hội đang nổi lên vấn đề phân hóa giàu nghèo về mức sống vật chất
thay cho đa số dân c− đã từng sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt đối tr−ớc đây.
−ớc tính tr−ớc thời kỳ đổi mới năm 1988, Việt Nam có tới 75 % dân số (Bộ Kế hoạch
và Đầu t− - Ngân hàng Thế giới, 2001) sống d−ới mức nghèo tuyệt đối. Các giai tầng
định hình trong xã hội theo nghĩa đầy đủ của phân tầng xã hội là ch−a có. Bởi vì từ
trong lịch sử đã dẫn trên đây, ở Việt Nam lúc nào quan hệ dân tộc, ý thức dân tộc
cũng cao hơn, đậm nét hơn, sâu sắc hơn quan hệ và ý thức giai cấp. Đồng thời, nền
kinh tế thị tr−ờng và chế độ đa hình thức sở hữu ở Việt Nam cũng đang hình thành
và khuôn theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Điều này dẫn tới khó xảy ra quá trình
phân tầng xã hội theo cấu trúc các giai tầng đ−ợc định hình rõ rệt theo các lý thuyết
xã hội học kinh điển. Hơn nữa, các n−ớc trên thế giới hiện nay đã và đang trải qua
quá trình công nghiệp hóa, chịu sự tác động của toàn cầu hóa. Thuật ngữ giai cấp,
giai tầng đang chìm lắng. Một số vấn đề khác nổi lên: tình trạng nghèo đói, bất bình
đẳng và phân hóa giàu nghèo, xã hội tiêu dùng, vấn đề ô nhiễm môi tr−ờng, v.v...
Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh này, do đó, tính đa chiều trong phân tầng xã hội
cũng sẽ thể hiện và đ−ợc áp dụng nghiên cứu cho Việt Nam.
Tr−ớc hết và nổi lên ở Việt Nam là tính đơn chiều (một chiều cạnh) theo mức
sống (thu nhập, chi tiêu, tài sản) đ−ợc áp dụng trong nghiên cứu phân hóa xã hội.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Đỗ Thiên Kính 57
Các nhà nghiên cứu th−ờng dùng khái niệm phân hóa giàu - nghèo theo mức sống để
thể hiện trạng thái phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, khi nói về
thực trạng phân tầng xã hội ở n−ớc ta, có thể khẳng định rằng đang tồn tại khá phổ
biến sự phân tầng xã hội theo mức sống (tức là phân hóa giàu - nghèo). Bởi vì hiện
t−ợng phân hóa giàu nghèo diễn ra ở mọi nơi (nông thôn, đô thị và các vùng - miền
địa lý khác nhau) và ngày càng doãng ra. Chênh lệch về chi tiêu dùng giữa nhóm 20
% dân số giàu nhất và nhóm 20 % dân số nghèo nhất đã tăng từ 4,6 lần năm 1993
lên 5,5 lần năm 1998 (Tổng cục Thống kê, 2000: 269). Ngoài ra, trong nhận thức của
đa số dân c− đ−ợc thể hiện qua ngôn ngữ của đời sống hàng ngày và từ ngữ báo chí,
cũng xuất hiện rất nhiều chủ đề phân hóa giàu nghèo. Do vậy, chọn lựa cách tiếp cận
(chiều cạnh) phân hóa giàu nghèo để tìm hiểu phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay
là hợp lý. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy đặc điểm nổi bật của phân hóa giàu nghèo
ở Việt Nam hiện nay là phân hóa vùng/khu vực (Đỗ Thiên Kính, 2000).
Tiếp theo chiều cạnh mức sống sẽ là những chiều cạnh gì cần chú ý? Tức là,
ngoài tiêu chí mức sống (thu nhập, chi tiêu, tài sản) sẽ đ−ợc bổ sung những tiêu
chuẩn nào khác để xếp hạng thứ bậc trong nghiên cứu phân tầng ở n−ớc ta trong thời
gian tới? Dự đoán có thể là những chiều cạnh thuộc về nghề nghiệp và học vấn sẽ
đ−ợc dựa vào để xếp hạng thứ bậc trong nghiên cứu phân tầng ở Việt Nam trong
t−ơng lai. Dự đoán này dựa trên những cơ sở sau đây:
Nghề nghiệp và học vấn là hai yếu tố đóng góp chính vào việc giành địa vị đạt
đ−ợc của các cá nhân. Xã hội càng phát triển thì địa vị đạt đ−ợc càng nổi trội.
Do vậy, hai yếu tố này cũng sẽ nổi trội theo để trở thành tiêu chuẩn xếp hạng
thứ bậc trong nghiên cứu phân tầng.
Trong xã hội công nghiệp hiện nay, thu nhập, nghề nghiệp và học vấn đã trở
thành tiêu chuẩn để xếp hạng cấp bậc trong hệ thống phân tầng xã hội ở các
n−ớc (Anh, Mỹ, Nhật Bản). Đặc biệt, tiêu chuẩn nghề nghiệp rất đ−ợc coi
trọng. Những nghiên cứu về cơ động xã hội ở các n−ớc công nghiệp phát triển
chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn nghề nghiệp. Đó là sự cơ động (di động) theo cơ
cấu nghề nghiệp (kể cả di động dọc liên thế hệ và cơ động ngang giữa các
nhóm ngành nghề). Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất n−ớc. Do vậy, khi thực tiễn xã hội biến đổi căn bản trở thành một
n−ớc công nghiệp hóa thì trong nghiên cứu phân tầng có thể cũng áp dụng
những tiêu chí này nh− các n−ớc trên thế giới.
Trong lịch sử Việt Nam, tính đa chiều trong phân tầng xã hội rất rõ và dựa trên
nhiều tiêu chí để xếp hạng thứ bậc. Trong đó, đã từng tồn tại cơ cấu phân tầng theo
tiêu chí nghề nghiệp: sĩ - nông - công - th−ơng. Trong cơ cấu này, yếu tố học vấn đã
đ−ợc thể hiện thông qua tầng lớp nho sĩ. Thực tế lịch sử này là cơ sở để chúng ta dự
đoán trong t−ơng lai, bởi lịch sử là một dòng liên tục, không hề gián đoạn.
Nghiên cứu so sánh một số xã vùng đồng bằng sông Hồngi gần đây chứng tỏ rằng
nhân tố thuộc về ngành nghề có tác động mạnh nhất đến phân tầng mức sống.
Đồng thời, sự tác động này cũng tăng dần theo trật tự phát triển kinh tế ở các xã.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Tìm hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử và ... 58
Làng xã nào có sự chuyển đổi ngành nghề từ nông nghiệp sang phi nông càng
nhanh thì có mức sống càng cao và sự tăng giàu, giảm nghèo càng lớn. Kết quả
nghiên cứu còn cho biết,cùng với sự phát triển của kinh tế tăng dần từ xã này
đến xã khác, thì tác động của yếu tố học vấn cũng rõ dần. Rất có thể đó là xu
h−ớng vận động của chúng (Đỗ Thiên Kính, 1999).
Tiếp tục đi tìm câu trả lời cho xu h−ớng vận động trong nghiên cứu đã dẫn
trên đây, một kết quả nghiên cứu mới đã tìm ra sự tác động mạnh dần lên của nhân
tố học vấn đến nâng cao mức sống khi xã hội ngày càng phát triển. Kết quả này là sự
nối tiếp liên tục trong quá trình tìm tòi nghiên cứu. Phạm vi khảo sát đã mở rộng từ
nông thôn đồng bằng sông Hồng ra cả n−ớc và so sánh theo thời gian sau 5 năm từ
1993 đến 1998 (Đỗ Thiên Kính, 2000).
*
* *
Nh− vậy, từ các hệ thống phân tầng xã hội mà loài ng−ời đã trải qua và cơ sở
lý thuyết xã hội học của nó đến các nghiên cứu trên thế giới, từ trong quá khứ lịch sử
đến khảo sát thực tiễn hiện nay ở n−ớc ta đã cung cấp những căn cứ để chúng tôi đ−a
ra dự đoán trên đây. Đó chính là những gợi mở mang tính lý thuyết trong ph−ơng
h−ớng nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu t− - Ngân hàng Thế giới, 2001: Tăng tr−ởng kinh tế và phúc lợi hộ gia
đình: Các bài học chính sách của Việt Nam. (Tài liệu Hội thảo khoa học. Hà Nội, ngày 16-
18 / 5).
2. Đỗ Thiên Kính, 2000: Báo cáo kết quả đề tài Nghiên cứu định l−ợng về phân hóa giàu -
nghèo và vai trò của nhân tố học vấn trong việc nâng cao mức sống cho ng−ời dân Việt
Nam (Qua hai cuộc Khảo sát/Điều tra mức sống dân c− Việt Nam năm 1993, 1998).
3. Đỗ Thiên Kính (chủ biên), 1999: Tác động của chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp xã
hội đến phân tầng mức sống (Khảo sát mẫu 3 xã ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng);
Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp.
4. Ian Robertson: Sociology, tái bản lần thứ ba. Worth Publishers, inc. (Trích dịch từ mục
Sự phân tầng xã hội - tài liệu cá nhân)
5. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), 1998: Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử
Việt Nam; Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
6. Tominaga Kenichi, 1996: Tập bài giảng ở Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản tại Việt Nam.
(Tài liệu cá nhân)
7. Tổng cục Thống kê, 2000: Điều tra mức sống dân c− Việt Nam 1997-1998; Hà Nội: Nhà
xuất bản Thống kê.
i Đây là 3 xã ở nông thôn đồng bằng sông Hồng đ−ợc tác giả nghiên cứu vào những năm 1996-1998. Ba xã này có mức
sống khác nhau theo trật tự từ thấp đến cao là: Tam Sơn → Vũ Hội → Đa Tốn. Tác giả đã nghiên cứu so sánh một số
nhân tố tác động đến phân tầng mức sống ở 3 xã này với nhau nhằm đi tìm xu h−ớng chung của các nhân tố tác động.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_phan_tang_xa_hoi_trong_lich_su_va_ap_dung_vao_nghie.pdf