Tiểu luận Nhân tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài

Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.

doc53 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2271 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nhân tố thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để phục vụ các mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước nhằm giải quyết các vấn đề nan giải như vốn, công nghệ, trình độ tay nghề, trình độ quản lý, lãnh đạo...cũng như yêu cầu bức thiết về việc xây dựng nhieuf xí nghiệp, nhà máy mới, nhiều khu chế xuất, khu công nghệ kỹ thuật cao. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, khu vực có vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân và tốc độ tăng trưởng của khu vực này nhanh hơn khu vực kinh tế trong nước.Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây của Fredman (2000), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Nguyễn Mại (2004) đều rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền tác động tràn tích cực hữu hiệu. Phần dưới đây sẽ khái quát vai trò của FDI đến tổng thể nền kinh tế. I. FDI ĐỐI VỚI VỐN ĐẦU TƯ XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm hỗ trợ cho việc tăng vốn đầu tư phát triển nền kinh tế toàn xã hội, góp phần giúp Việt Nam khắc phục tình trạng thiếu vốn, từ đó tạo tiền đề tăng khả năng tái sản xuất xã hội cả về chiều rộng và chiều sâu. FDI đóng góp cao vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và là động lực cho phát triển ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao nhất cho đến nay. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP.. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội tăng dần qua các năm, từ 3,6% năm 1993, lên 10,3% năm 1999, dự kiến năm 2000 chiếm khoảng 10,4%. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước11. Khi nghiên cứu mô hình Harrod-Domar, chúng ta có công thức: g=s/k, trong đó g là tốc độ tăng trưởng kinh tế, s là tỷ lệ tiết kiệm và k là hệ số ICOR. Công thức trên nêu lên , tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) và hệ số ICOR. Vì vậy, nếu hệ số ICOR của Việt Nam là 4,8 muốn có g=8,5% thì phải tiết kiệm (đầu tư) 40,8%. nếu huy động vốn trong nước chỉ được 30% thì ít nhất phải thu hút đầu tư nước ngoài bằng khoảng 10,8%. Điều này cho thấy vai trò của FDI đối với quá trình phát triển. Theo tổng cục thống kê , nếu không có khu vực đầu tư nước ngoài hỗ trợ, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam chỉ đạt từ 4-6%/năm chứ khộng được 6-9%/năm như mấy năm vừa qua, và nếu không có sự tăng nhanh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp chỉ có thể ở mức 12,6%, 11,6%, 10,5% qua các năm 1995-1996-1997 (trong khi thực tế là 14,5%, 14,1%, 13,2%) Quá trình thu hút FDI tại một số địa phương đã tạo cơ hội cho việc hình thành những khu vực kinh tế trọng điểm mà các địa phương ở gần nhau đã liên kết thành những khối thống nhất, vừa nâng cao lợi thế từng vùng đồng thời làm điểm tựa cho nền kinh tế quốc gia.(Năm 1993, khu vực có vốn FDI mới chỉ tạo ra 7.4% GDP cho thành phố Hồ Chí Minh thì năm 1997 đẵ tăng lên 15.7%, năm 1998 là 16.5% và 1999 là 18.1%). II. FDI VỚI VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP: Như trên đã đề cập, FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng chủ chốt như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng, sản xuất ô tô, công nghiệp thực phẩm v.v.. Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2000. Như vậy, một  nền kinh tế phát triển theo hướng CNH-HĐH phải được thể hiện ở tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng) trong GDP cao hơn khu vực I (nông nghiệp, thuỷ sản). Ở nước ta trong những năm qua nhờ có nguồn FDI nên cơ cấu của nền kinh tế cũng đã thể hiện rõ điều này. Ngoài ra, đối với các nước đang phát triển, khi có sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của các  doanh nghiệp trong  nước ''nóng lên'', buộc họ phải hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. BẢNG 1: Đóng góp của khu vực FDI vào nền kinh tế Việt Nam Năm Tỉ trọng vốn FDI/GDP (%) Tỉ trọng trong công nghiệp (%) 1991 1.5 22.4 1992 2.0 24.2 1993 3.6 26.0 1994 6.1 26.2 1995 6.3 25.1 1996 7.4 26.2 1997 9.1 28.9 1998 10.0 32.0 1999 12.2 34.4 2000 13.2 36.0 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) III. FDI ĐỐI VỚI VIỆC LÀM VÀ CẢI THIỆN NGUỒN NHÂN LỰC: Khu vực đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết việc làm ổn định cho hàng trăm ngàn người lao dộng Việt Nam, góp phần đào tạo nguồn nhân lực thích nghi với điều kiện làm việc ở trình độ cao. Từ năm 1989 đến hết năm 2005 đã có trên hai ngàn doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả và giải quyết việc làm ổn định cho 860.000 người lao động. Chưa kể hàng trăm ngàn người khác có việc làm theo mùa hoặc các dịch vụ khác có liên quan. Mức lương bình quân là 75-80 USD/tháng/người, cao hơn mức bình quân chung của các doanh nghiệp trong nước. Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm 1996 là 0,7%. Đối với TPHCM, các doanh nghiệp có vốn FDI đến hết năm 1997 đã thu hút tổng số 108.350 lao động trực tiếp, không kể lao động thời vụ và lao động gián tiếp, với thu nhập khoảng trên 800 nghìn đồng trở lên. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành14. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các qui trình công nghệ hiện đại15. Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc người lao động Việt Nam có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao tay nghề để được vào làm việc tại các doanh nghiệp này. Sự phản ứng theo dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã giúp cho lực lượng lao động Việt Nam có trình độ và tác phong làm việc hiện đại hơn. Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. IV. FDI VỚI NGUỒN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÁC CÂN ĐỐI VĨ MÔ: Đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng thu thuế và các khoảng nộp ngân sách trong giai đoạn đầu phát triển của Việt Nam. Theo đánh giá của Tổng cục Thuế thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp thuế nghiêm túc nhất. Từ năm 1988 đến hết năm 1999 khối các doanh nghiệp có vốn FDI đã đóng góp trên 80.000 tỉ đồng tiền thuế cho ngân sách nhà nước. Năm 1999 khu vực có vốn FDI đã đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 31% tổng số thu thuế nội địa.Tính chung các loại thuế thì khu vực có vốn FDI đóng góp khoảng 10-12% tổng thu ngân sách nhà nước. Bảng 2: Thuế thu được từ khu vực đầu tư nước ngoài (tỉ đồng) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2.650 4.300 5.600 6.370 7.750 10.700 12.200 13.000 12.000 (Nguồn: thu thập của TS.Hà Thị Ngọc Oanh) Tỷ trọng đóng góp nhỏ hơn các khu vực kinh tế khác là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trongthời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hàng năm. V. TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP: Tuy các dự án FDI vào ngành nông nghiệp không lớn ( khoảng hơn 950 dự án nông nghiệp trên cả nước so với tổng 8900 dự án đầu tư FDI cả nước) và số vốn mỗi dự án còn hạn chế nhưng các dự án này đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho khoảng 75 nghìn lao động trực tiếp tham gia cho các nhà máy, khu chế xuất..., đồng thời còn giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho các dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì...), góp phần quan trọng thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, ở một số địa phương , dự án FDI tạo việc làm cho khoảng ¼ dân cư trên địa bàn. Tạo điều kiện cho nông sản nước ta có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lợi thế về hệ thống phân phối của họ trên thị trường thế giới , khi có sự tham gia của họ vào ngành nông nghiệp thì tăng thêm cơ hội cho nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Đồng thời, với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài thì giá try của nông sản cũng được nâng cao, tăng thêm giá try xuất khẩu. Góp phần nâng cao việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của ngành nông nghiệp. Việc tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho ngành sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất , rừng, sông, hồ, biển...do có điều kiện đầu tư cho sản xuất, giảm thiểu tình trạng lãng phí tài nguyên đang diễn ra ở nhiều nơi do không có điều kiện đầu tư hoặc sử dụng không đúng cách. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài tương đối phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành, nguồn vốn được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông, lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy; Các dự án FDI đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới, công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao tính cạnh tranh của hàng nông lâm sản. Các chương trình mía đường, trồng và chế biến rau quả, chương trình trồng rừng, chuyển giao công nghệ mới, tạo ra các loại giống cây trồng, giống vật nuôi và các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động đạt hiệu quả hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Điều này cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước có được ‘tấm gương” để tự soi mình và hoàn thiện mình nhiều hơn. VI. FDI THÚC ĐẨY NGOẠI THƯƠNG PHÁT TRIỂN – CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI: Ông Lê Văn Được, Vụ trưởng Vụ đầu tư nước ngoài (Bộ Công Thương) cho biết, nguồn vốn lớn mạnh FDI đã tác động rất lớn đến cán cân xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những đã góp phần mở rộng thị trường ngoài nước, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam mà còn thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và các hoạt động dịch vụ khác. Đó là hoạt động kinh doanh khách sạn, dịch vụ, tư vấn, công nghệ. Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6 %13 năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. Kim ngạch xuất khẩu khu vực này tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Năm 1997, xuất khẩu đạt 1,79 tỷ USD, năm 1998 tăng 10% so với năm trước, năm 1999 tăng 30% và năm 2000 ước tăng khoảng 28%. Ước tính giai đoạn 1996-2000 kim ngạch xuất khẩu khu vực này đạt trên 10,5 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2000 chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của việt Nam, sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể, chẳng hạn như giày dép chiếm 42%, dệt may chiếm 25% và hàng điện tử, linh kiện, máy vi tính chiếm 84%. Cơ cấu hàng xuất khẩu tập trung vào những mặt hàng trụ cột trong 19 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như linh kiện điện tử, xe đạp, phụ tùng, hàng dệt may, giày dép… Khu vực có vốn FDI đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của TPHCM. Trong cơ cấu xuất khẩu của thành phố, tỉ trọng của khu vực FDI tăng dần từ 1.8% năm 1983 lên 11.5% năm 1997, năm 1999 là 17.5% và 17.2% năm 2000. Đặc biệt FDI vào Việt Nam đã giúp VN ngày càng sản xuất được nhiều hơn những mặt hàng thay thế nhập khẩu và xuất khẩu một số mặt hàng có hàm lượng chất xám cao. Khu vực FDI còn góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách về công nghệ giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới được nhập vào Việt Nam như thiết kế, chế tạo máy biến thế; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử, lắp ráp tổng đài điện thoại tự động kỹ thuật số, công nghệ sản xuất cáp điện, cáp thông tin… Nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, kiểu dáng đẹp, chất lượng đạt tiêu chuẩn Việt Nam, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời cũng đem lại những mô hình quản lý tiên tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại, điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Sự tham gia của các dự án FDI vào ngành công nghiệp đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Các dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp không chỉ khai thác thị trường trong nước mà còn góp phần làm tăng kim ngạch thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu. Trong điều kiện sản xuất nông lâm nghiệp còn thiếu vốn đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang tăng cường nguồn vốn quan trọng để nâng cao năng lực sản xuất, trang bị thêm công nghệ mới như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm Bên cạnh đó, các dự án FDI đã chuyển giao nhiều giống cây, con và các sản phẩm khác đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ, Đài Loan, châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Singapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải sản... Các công nghệ mới này góp phần thúc đẩy đa dạng hóa các sản phẩm nông lâm nghiệp, tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tóm lại, có thể thấy FDI đầu tư vào lĩnh vực xuất nhập khẩu đã góp phần làm tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, thúc đẩy ngoại thương phát triển, cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam. Có thể phân tích ảnh hưởng của FDI tới XNK Việt Nam bằng cách bổ dọc các ngành kinh tế thu hút vốn FDI: ngành công nghiệp, ngành dịch vụ, ngành nông nghiệp và lĩnh vực bất động sản. 1. FDI bị hút mạnh vào công nghiệp: Theo nhận định của Bộ Công Thương, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong công nghiệp có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường ổn định, được khuyến khích bằng các cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng nên phát triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác trong nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp đã gián tiếp đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, cũng như các kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc tận dụng trình độ chuyên môn kĩ thuật để tìm ra phương hướng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 2. Đầu tư FDI vào ngành dịch vụ tăng – một dấu hiệu đáng mừng: Là một nước tiếp nhận đầu tư, Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Việc mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngược lại, sự tăng trưởng và phát triển của các ngành dịch vụ cũng tạo điều kiện để Việt Nam tăng sức hấp dẫn và cạnh tranh thu hút FDI vào các ngành kinh tế khác. Trong số các ngành dịch vụ, lĩnh vực dịch vụ du lịch đang nổi lên là điểm sáng đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam với số lượng các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiến đầu tư tăng mạnh. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong phát triển du lịch nên việc phát triển xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm của ngành “công nghiệp không khói” nhờ vốn đầu tư FDI cần đươc tận dụng tối đa và có hiệu quả. 3. FDI trong ngành nông nghiệp - còn nhiều điều bất cập: Các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền nông nghiệp phát triển như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc luôn có tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp ổn định từ 13-21%. Ở Việt Nam, mặc dù nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia kinh tế nông nghiệp vẫn tiếp tục nhận định lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam luôn tiềm ẩn rủi ro từ nhiều phía, nhất là điều kiện tự nhiên, thị trường; lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi. Vì vậy, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung các dự án thu hồi vốn nhanh như sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến nông lâm sản thay vì triển khai các dự án phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng, chế biến các loại rau, quả xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao. Bên cạnh đó, việc triển khai các dự án FDI nông nghiệp thường được thực hiện tại các vùng nông thôn nhưng các nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Chính vì những bất cập này mà cũng gây khó khăn trong việc xuất khẩu mặt hàng nông nghiệp của nước ta. Nước ta có ưu thế lớn và cũng xuất khẩu chủ yếu mặt hàng nông lâm sản như gạo, chè, cà phê, cá, tôm…., nhưng với tình hình đầu tư FDI vào khu vực nông nghiệp như vậy thì có thể nói FDI chưa phát huy tác dụng thúc đẩy ngoại thương trong lĩnh vực nông – lâm- ngư nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy rằng, là một ngành kinh tế chính của đất nước, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng đối với cả kinh tế lẫn trong cả đời sống xã hội. Tuy nhiên, do những đặc điểm gắn liền với cách thức sản xuất của ngành mà ngành nông nghiệp vẫn chưa có được sự đầu tư thích đáng cho nhu cầu phát triển. Chính vì vây, yêu cầu phải tăng thêm thu hút đầu tư của từ nguồn trong nước và nước ngoài để tạo điều kiện cho ngành phát triển nhanh hơn và bền vững hơn. Yêu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại vào phát triển ngành là một yêu cầu khách quan đòi hỏi trong thời gian tới, Việt Nam phải có những chính sách, biện pháp, phương hướng tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp. VII. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG NAM Á 1997 ĐẾN FDI VÀO VIỆT NAM: Trong thập niên cuối thế kỷ XX, nguồn vốn FDI vào nước ta chủ yếu là của tư nhân, nhưng nó cũng đã phản ánh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế ngày một nhanh và mạnh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã dần chiếm vị trí lớn trong cấu thành nền kinh tế: khu vực này đã đóng góp trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước trong thời gian này. Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 nhưng đến đầu thập niên 1990 FDI mới bắt đầu tăng đáng kể khi nền kinh tế vĩ mô được ổn định, tốc độ phát triển kinh tế cũng lên quỹ đạo và ở mức tương đối cao. Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đô-la Mỹ. Tuy nhiên, con số FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên đến 8,6 tỷ đô-la Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loại các yếu tố tích cực khác như lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao. 1. 1991-1996: FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba, là các nước mạnh trong vùng (cụ thể là Malaysia, Singapore, Thái Lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được lợi thế từ các yếu tố này. Giai đoạn 1990-1996 tốc độ tăng vốn đầu tư là 30-40% trên năm. Tuy nhiên sau khi đạt đỉnh cao theo vốn đăng kí năm 1996, FDI giảm nhanh và trì trệ trong một thời gian dài. Từ năm 2003, FDI có khuynh hướng tăng trở lại nhưng với tốc độ rất yếu. Biểu đồ 1: Nguồn : Trần Văn Thọ, Biến động kinh tế Đông Á và con đường CNH Việt Nam(1), biểu đồ 12.1 (tr216) Cuộc khủng hoảng Đông Nam Á bùng nổ cuối 1997, mặc dù nền kinh tế Việt Nam thời điểm đó chưa mở cửa và hội nhập sâu rộng như bây giờ nhưng khủng hoảng cũng đã gây ảnh lớn đến nguồn FDI của Việt Nam. Một số dự án đầu tư của các nước trong khu vực vào Việt Nam không thực hiện được hoặc phải giải thể trước thời hạn, tình hình này diễn ra càng trầm trọng vào nữa đầu năm 1998. Từ bảng 1 cho ta thấy tổng vốn FDI đã giảm 54% vốn đăng kí và 27% vốn thực hiện trong 1998 so với đỉnh điểm 1996, một năm trước khủng hoảng. Bảng 1: Tổng vốn FDI vào Việt Nam (triệu USD) Năm Vốn đăng kí Vốn thực hiện 1991 1.388 221 1992 2.271 398 1993 2.652 1.106 1994 4.071 1.952 1995 6.616 2.652 1996 8.640 3.250 1997 4.524 2.950 1998 3.897 2.364 1999 4.667 2.197 2000 2.016 1.519 Nguồn: Hà Thị Ngọc Oanh, Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam(2), bảng 8 ( tr47) Nhật Bản là nước có vốn FDI lớn nhất tại Việt Nam 1998, nhưng so với năm 1997 thì số vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam của Nhật đã giảm hơn 71.65%!( biểu đồ 13.1 tài liệu (1))Xếp sau Nhật là Hàn Quốc, Pháp, Singapore… 2. 1997-1999: Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn. 3. 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn (2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ đô-la Mỹ, và Dự án XD-KD-CG Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ đô-la Mỹ. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. Có rất nhiều nguyên nhân làm FDI giảm xuống. Nguyên nhân thứ nhất là do sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công nghệ cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước châu Á. Tốc độ phát triển kinh tế trên 9% những năm 1995- 1996 không bền vững vì nó dựa vào vay mượn nứớc ngoài, đưa thiếu hụt trong cán cân thương mại những năm này lên đến 10% và cán cân thanh toán lên đến 6%. Tốc độ phát triển chậm lại từ năm 1997 đã đưa cán cân thanh toán gần đến cân bằng năm 1999. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn khu vực Đông và Đông Nam Á vào cuối năm 1997 có thể nói là có tác dụng tích cực đến nền kinh tế. Nếu không với số nợ nước ngoài tăng khỏang 2 tỷ USD mỗi năm do cán cân thanh toán thiếu hụt Việt Nam sẽ dễ dàng và nhanh chóng trở thành nước không có khả năng trả nợ nước ngoài. Nợ nước ngoài vào cuối năm 2000 là 12 tỷ USD, bằng 39.9% GDP sau khi đã được Nga và các nước phương Tây xóa nợ đáng kể - có lúc bằng 86% GDP) KẾT LUẬN: FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”. Như vậy, có thể thấy rằng, đối với Việt Nam, FDI được ví như là một ''cú huých'' để thúc đẩy nền kinh tế đi xa và tiến nhanh hơn. Do đó trong quá trình CNH-HĐH của Việt Nam hiện nay làm thế nào để tăng cường thu hút nguồn FDI là vấn đề được nhiều người quan tâm. CHƯƠNG IV: CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM Nhận thức được tác động tích cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp, nước ta đã tích cực chủ động điều chỉnh các chính sách cũng như tạo môi trường đầu tư phù hợp để thu hút tối đa nguồn FDI đồng thời phát huy nội lực của cả nền kinh tế cũng như trong từng ngành, địa phương trong các thành phần kinh tế, ban hành nhiều chính sách phù hợp để tăng khả năng huy động vốn tích cực từ nước ngòai. Tăng trưởng kinh tế nước ta những năm qua có mối quan hệ gắn bó với những động thái của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Khi vốn đầu tư được thu hút nhiều thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta tăng lên và ngược lại. Cùng với việc thu hút vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao trình độ công nghệ và quản lý kinh tế, đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ các chuyên gia, các nhà quản lý và công nhân lành nghề, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của nông thôn và thành thị ở nước ta. Từ đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất của nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự đổi mới và tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và dần thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển của Việt Nam so với các nước trong khu vực góp phần nâng dần vị thế chính trị và kinh tế của Việt Nam trên thế giới. Việc khẳng định tác động tích cực của FDI trong giai đoạn này là cần thiết để thực hiện nhất quán đường lối của Đảng về việc chủ động và khẩn trương hội nhập kinh tế với thế giới, tạo lập mội trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi nhất cho sự phát triển kinh tế trong nước, đồng thời thu hút ngày càng nhiều nguồn lực FDI từ bên ngoài.Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng sau: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định. Đồng thời xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các lĩnh vực, các địa bàn và các dự án ưu tiên tới khuyến khích đầu tư và điều chỉnh một bước giảm giá cũng như phí của các dịch vụ, sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi cho việc triển khai dự án đầu tư như thế chấp quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bảo lãnh đầu tư… Để đa dạng hóa các hình thức đầu tư nước ngoài chính phủ Việt Nam đã và đang chỉ đạo việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của các cấp nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của địa phương nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho các nhà đầu tư. Đơn giản hóa thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình và thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục, nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí kinh doanh tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện nước, thông tin cũng như nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật công nghệ để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Chính sách thu hút FDI vào nước ta giai đọan này thể hiện rõ thông qua Luật đầu tư nước ngòai qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung.Vào năm 1977 Việt Nam đã ban hành “Điều lệ đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đây là văn bản đầu tiên của nhà nước ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quan điểm của nhà nước Việt Nam đối với tư bản nước ngoài, với quan điểm “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam”. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện điều lệ này không được thực hiện vì nước ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam Campuchia từ năm 1977 và biên giới phía Bắc với Trung Quốc năm 1979. Đồng thời trong thời gian này Mỹ cũng tiến hành cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, nên các nhà đầu tư nước ngoài không thể tiến hành đầu tư tại Việt Nam. Vào tháng 12 năm 1987 Quốc hội Việt Nam đã thông qua “Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam” đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc về mọi phương diện so với Điều lệ năm 1977. Trong luật lợi ích kinh tế của đất nước được đặt hài hòa trong quan hệ với chủ quyền kinh tế. Đây là một luật mang sắc thái khuyến khích đầu tư và rất hấp dẫn các nhà đầu tư lúc bấy giờ. Tuy nhiên, nó cũng có những khuyết điểm như thiếu đồng bộ, không tạo được điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư trong nước có thể làm ăn với các nhà đầu tư bên ngoài. Các văn bản dưới luật không được ban hành một cách kịp thời. Đồng thời, luật đầu tư được ban hành trong khi chưa có các đạo luật cơ bản về kinh tế, do đó môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngòai còn thiếu ổn định. Để khắc phục những hạn chế của “Luật đầu tư nước ngoài” năm 1987, đến năm 1990 nước ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung đến 15 điều trong 42 điều của luật năm 1987. Điểm mới trong luật này là đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như cho các đối tác trong nước mở rộng hợp tác với bên ngoài. Trong Luật này quy định: “các tổ chức kinh tế tư nhân Viêt Nam được hợp tác kinh doanh với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện” do nhà nước Viêt Nam quy định. Và khẳng định: - Nhà nước đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư và giảm thuế cho các nhà đầu tư khi tỷ suất lợi nhuật của họ thấp hơn so với các xí nghiệp khác trong ngành. - Khuyến khích các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến và đầu tư vốn lớn vào Việt Nam. - Khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu… Đến năm 1992, Luật đầu tư nước ngoài tiếp tục được sửa đổi, nêu rõ hơn vấn đề kinh tế tư nhân tham gia đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư, trong đó mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư. Từ đó, mở ra các hình thức đầu tư nước ngoài mới, đó là: khu chế xuất và hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao(BOT). Đây là một bước tiến đáng kể về quan điểm: từ không chấp nhận trước 1977 đến chấp nhận đầu tư nước ngoài ở từng xí nghiệp, công ty và đến giai đoạn này là cho phép hình thành khu kinh tế nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, qua hai lần chỉnh sửa, Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có những nội dung chính sau: - Đảm bảo công bằng và đáp ứng những yêu cầu thỏa đáng của chủ đầu tư. - Các nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng hệ thống kế toán quốc tế… Giải quyết mâu thuẫn giữa các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam được giải quyết trên cơ sở trọng tài chính kinh tế quốc tế và Việt Nam nếu cả hai bên cùng đồng ý. - Việt Nam cam kết sẽ bồi thường cho các nhà đầu tư nước ngoài nếu hệ thống luật pháp Việt Nam có sự thay đổi gây ra những thiệt hại cho họ. - Việt Nam cam kết bảo vệ quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa. - Việt Nam cũng cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bằng phát minh sang chế của các nhà đầu tư nước ngoài. - Nhà nước Việt Nam cam kết không can thiệp vào công việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền góp vốn bằng máy móc, thiết bị và công nghệ. - Việt Nam cam kết đảm bảo việc chuyển lợi nhuận, tiền lãi, vốn , thu nhập, tiền lương và các tài sản khác của các nhà đầu tư và chuyên gia nước ngoài ra nước ngoài. - Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền đầu tư vào tất cả các ngành các lĩnh vực không cấm (trừ những lĩnh vực an ninh quốc phòng) không quy định vốn góp tối thiểu. - Các hình thức đầu tư chủ yếu dưới dạng: hợp đồng kinh doanh giữa các công ty nước ngoài và các công ty Việt Nam, xí nghiệp lien doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam ( chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) và doanh nghiệp nước ngoài; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Với những nội dung trên luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam lúc bấy giờ được xem là luật đầu tư thông thoáng nhất, do đó thời kì 1991-1995 là thời kì thu hút vốn đầu tư nước ngoài sôi động nhất. Đến 1996, Luật sửa đổi, bổ sung lần này khẳng định tính nhất quán trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thể hiện ở chỗ nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư vào Việt Nam. Luật mới bổ sung chi tiết các lĩnh vực được khuyến khích đầu tư, trong đó, khuyến khích đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, cũng như quy định các lĩnh vực, địa bàn không được đầu tư. Luật mới cũng quy định 3 mức thuế ưu đãi: mức thuế lợi tức 20% ( trước đó là 25%) đối với trường hợp khuyến khích đầu tư; 15% đối với dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích hơn và 10% đối với dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Về giảm miễn thuế, Luật mới quy định dự án được miễn thuế tối đa 2 năm kể từ khi có lãi và giảm 50% thuế lợi tức trong thời gian tối đa hai năm tiếp theo. Đối với các dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích, mức miển giảm tương ứng là 4 năm. Đối với trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư là 8 năm. Đối với thuế lợi tức từ chuyển nhượng vốn luật mới quy định là 25% lợi nhuận của bên chuyển nhượng. Trong trường hợp chuyển nhượng cho phía Việt Nam sẽ được miễn thuế lợi tức. Trong luật 1996 cho phép các liên doanh được liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, luật cũng luật hóa các quy định về các khu công nghiệp, các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT. Ngoài ra, luật mới cũng thể hiện thài độ tích cực cải cách thủ tục hành chính của chính phủ. Đó là quy định Chính phủ được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án FDI lên đến 40 triệu USD ( trước đó là 5-10 triệu USD). Luật còn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài khiếu kiện đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật, gây khó khăn, phiền hà của các công chức, viên chức cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, hướng sửa đổi của Luật 1996 lại giảm bớt ưu đãi, hạn chế các ngành nghề đầu tư, bổ sung danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, quy định tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hóa, nâng giá đất và giá đền bù giải tỏa, tăng tỷ lệ chia lãi cho Việt Nam mà không nâng tỷ lệ góp vốn… cũng như các quy định chặt chẽ của các luật kinh tế khác, đã làm giảm sút thu hút đầu tư nước ngoài trong thời kì này. Trước tình hình giảm sút thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dưới ảnh hưởng của luật 1996 vào ngày 20 tháng 5 năm 2000 một lần nữa Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại việt nam theo hướng thông thoáng hơn nữa, với các nội dung sửa đổi chính sách như sau: - Các nhà đầu tư nước ngoài được chuyển đổi hình thức đầu tư bằng cách tách hoặc sáp nhập. - Cho phép các nhà đầu tư được chuyển đổi quyền sở hữu vốn đầu tư và tiếp tục đa dạng hóa các hình thức đầu tư. - Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua ngoại tệ khi cần thiết và mở tài khoản tại các ngân hàng Việt Nam. - Các nhà đầu tư nước ngoài được quyền thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn tại các ngân hàng ở Việt Nam, kể cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. - Cụ thể hóa việc đền bù cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khi luật pháp Việt Nam thay đổi gây thiệt hại cho nhà đầu tư. - Mức thuế chuyển tiền được giảm xuống còn 3%, 5%, 7%. - Các dự án FDI đầu tư vào các vùng hoặc lĩnh vực đang được kêu gọi đầu tư được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu và phụ tùng trong vòng 5 năm. Những sửa đổi trên trong luật đầu tư nước ngoài ở nước ta đã tạo một sự thuận lợi, ổn định và thông thoáng và rõ ràng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào nước ta, tạo môi trường cũng như cơ sở cho chính sách thu hút FDI tại Việt Nam. CHƯƠNG V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM I. BÀI HỌC VỀ THỜI CƠ: FDI của Việt Nam sau chu kì tăng trưởng từ 1991 đến 1997 là thời kì suy thoái kéo dài trong những năm 1998 – 2000. Trước thời kì suy thoái này, tháng 7 năm 1995, nước ta đã có ba sự kiện quan trọng diễn ra trong cùng một tháng, đó là: chúng ta gia nhập ASEAN, kí hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Tiếp theo đó, tháng 2/1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lan rộng ra nhiều nước, gây thiệt hại nặng nề đối với các nền kinh tế vốn được coi là “sự thần kì Đông Á”, Việt Nam khi đó vẫn nằm ngoài ‘rìa” vòng xoáy của cuộc khủng hoảng. Những sự kiện này đã tạo ra những cơ hội to lớn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, lĩnh vực FDI nói riêng. Nhìn thấy cơ hội và biết nắm bắt nó để có thể làm lợi cho đấy nước giữ một vai trò quyết định trong vấn đề thu hút vốn FDI nhưng đáng tiếc, chúng ta lại không nhanh chóng tạo ra được một môi trường đầu tư thuận lợi khi có quá nhiều cơ quan, ban ngành với vô số các thủ tục phiền phức đã gây ra nhiều phản ứng tiêu cực từ các nhà đầu tư nước ngoài khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, vốn FDI cũng do đó mà ít dần. II. BÀI HỌC VỀ MỐI QUAN HỆ LỢI ÍCH LIÊN QUAN ĐẾN FDI: Nước ta thu hút FDI nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của các chiến lược phát triển, còn nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam chủ yếu nhằm mục đích lợi nhuận. Nước ta có quyền ban hành luật pháp, áp dụng các thủ tục hành chính còn nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn nước để thực hiện dự án. Vì thế, cần hài hòa lợi ích của cả hai bên trên cơ sở bảo đảm lợi ích chính đáng của đất nước, phỉa bảo đảm nhà đầu tư thu được lợi nhuận đến mức đủ hấp dẫn họ, đi cùng với sự hướng dẫn và hỗ trợ của cơ quan nhà nước trong việc cấp phép và triển khai dự án. Trong bối cảnh đang diễn ra cuộc cạnh tranh thu hút FDI khá gay gắt hiện nay, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng thể chế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để hài hòa được lợi ích đất nước với lợi ích nhà đầu tư thì mới có thể thu hút được nhiều FDI. Tuy nhiên cũng cần nhận biết giới hạn đáp ứng lợi ích nhà đầu tư trong khi hình thành chính sách và luật pháp, để không làm tổn hại lợi ích dân tộc. Trong các liên doanh giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam với nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn đến việc chia sẻ lợi ích giữa bên nước ngoài và bên Việt Nam, nếu hài hòa lợi ích thì thuận lợi, ngược lại khi có xung đột lợi ích thì gặp khó khăn. Riêng các liên doanh mà bên Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước thì tình trạng phổ biến là đại diện bên Việt Nam không đủ năng lực, thiếu đấu tranh bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mình, thướng phó mặc cho người nước ngoài điều hành kinh doanh, miễn là hàng tháng lĩnh những khoản tiền lương hậu hĩnh. Đây chính là một hạn chế, một sai lầm cần sớm được khắc phục bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp mà xa hơn nữa, đó chính là chủ quyền, là vị thế của cả một quốc gia. Các doanh nghiệp FDI phần lớn là tư nhân, một số liên doanh là hỗn hợp giữa tư nhân và nhà nước, do vây quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ chủ - thợ thường nảy sinh mâu thuẫn lợi ích. Mặc dù luật lao động đã quy định quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại hai vần đề cần lưu ý: - Người lao động thiếu hiểu biết về pháp luật, chưa được tổ chức công đoàn hướng dẫn việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ, đồng thời thực hiện nghĩa vụ lao động đối với doanh nghiệp. - Chủ doanh nghiệp thiếu tôn trọng luật pháp, chưa ứng xử phù hợp với văn hóa và tập quán người Việt Nam, không thực hiện đúng quy định của Chính phủ về tiền lương, thời gian lao động và các nghĩa vụ khác của DN đối với người lao động. Do đó, các cơ quan chức năng cần phải hướng dẫn người sử dụng lao động, nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ, tôn trọng văn hóa ứng xử, tập quán của người Việt Nam để từ đó giáo dục, tổ chức người lao động làm việc có kỉ luật, năng suất và đảm bảo công bằng. III. BÀI HỌC VỀ LỢI THẾ SO SÁNH: Mỗi nước đều tìm cách khai thác tối đa lợi thế so sánh của đất nước để thu hút nhiều FDI, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa nên lợi thế so sánh đã biến đổi khá nhiều. Chi phí lao động vẫn được các nhà đầu tư quan tâm, nhất là trong các dự án sử dụng nhiều lao động nhưng năng suất lao động mới là yếu tố quan trọng gắn với trình độ lành nghề, năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại của đội ngũ lao động được đào tạo có chất lượng với cơ cấu hợp lí. Trong khi ngày càng nhiều dự án FDI công nghệ đang được triển khai thì tình trạng thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực có tay nghề cao, kỹ năng lao động, đội ngũ nhà quản trị doanh nghiệp giỏi lại là nhược điểm lớn của nước ta. Hạ tầng kĩ thuật và kinh tế như đường giao thong, vận tải hàng không, hàng hải, đường bộ, chất lượng cung ứng điện, cấp thoát nước, mạng lưới thông tin và viễn thông, dịch vụ ngân hang, tài chính… không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đây là nhược điểm lớn nhất nhưng lại chậm được khắc phục nhất, gây ra sự e ngại đối với các nhà đầu tư đang có ý định rót vốn vào Việt Nam. Lợi thế nổi trội của nước ta là sự ổn định về chính trị gắn với thể chế kinh tế, an ninh và an toàn xã hội được đảm bảo so với nhiều nước trong khu vực. Do đó, để làn song FDI mang lại kết quả lớn hơn, Việt Nam cần phát huy lợi thế về ổn định chính trị, an toàn xã hội, thị trường tiềm năng; đống thời có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để hình thành đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ kĩ thuật, chuyên viên kinh tế, nhà quản lí có trình độ cao, xây dựng đồng bộ hạ tầng kĩ thuật và kinh tế đủ sức tiếp nhận nhiếu dự án FDI có quy mô lớn, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. IV. BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH: Việc theo đuổi chính sách khuyến khích FDI, đồng thời coi trọng chất lượng FDI là hai mặt có quan hệ hữu cơ của thể chế và chính sách của Việt Nam. Gia tăng về số lượng dự án và vốn FDI trong các ngành và lĩnh vực, trừ một số ngành, lĩnh vực có điều kiện hoặc cấm là nhiệm vụ có tính chiến lược, đồng thời đảm bảo chất lượng của FDI. Tuy nhiên, việc lựa chọn dự án FDI cẩn bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực. Theo TS. Trần Đình Thiên, Phó Viện trưởng Viện Kinh Tế Việt Nam thì chúng ta không nên “khoe khoang” con số vốn đăng kí FDI mà cần phải quan tâm đến con số vốn thực hiện cũng như thực trạng ngày càng dãn ra giữa hai con số này. Nếu khoảng cách giữa hai con số này ngày càng gia tăng thì không thể nói là thu hút FDI thành công, dù vốn đăng kí có lên tới hang trăm tỉ USD. Bên cạnh đó, từ khi Chính phủ phân cấp cho Chính quyền tỉnh, thành phố quyền hạn lớn hơn đối với FDI, bên cạnh mặt tích cực, đã xảy ra tình trạng mà các nhà kinh tế thế giới gọi là “cuộc chiến chào mời khuyến khích đầu tư”, tác động tiêu cực đến phúc lợi xã hội của địa phương tiếp nhận FDI do những ưu đãi không cần thiết, chỉ vì để cạnh tranh với địa phương lân cận. Thực tế đã chỉ ra rằng, ổn định chính sách FDI là đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư. Trường hợp Chính phủ thay đổi chính sách thì cần tạo thuận lợi cho họ, hết sức tránh gây ra tâm lí phản kháng vì làm thiệt hại lợi ích của nhà đầu tư; trong trường hợp bất khả kháng, khi Chính phủ áp dụng chính sách không có lợi cho họ thì cần thực hiện nguyên tắc “không hồi tố”, hoặc bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do chính sách mới gây ra. Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam không kém hấp dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và tính thực thi chính sách thấp là một trong những nguyên nhân làm giảm dòng vốn FDI đăng kí và gây khó khăn cho giải ngân nguốn vốn này. V. BÀI HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC: Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường thể chế và cơ sở hạ tầng thuận lợi, hấp dẫn để mọi ý tưởng mới, sáng tạo của cá nhân và tổ chức trong hoạt động đầu tư và kinh doanh được thực hiện có hiệu quả. Từ năm 1994, nhiều Bộ đã ban hành thông tư quy định thủ tục hành chính theo hướng “tăng cường quản lí nhà nước”, đẻ ra không biết bao nhiêu là “giấy phép con” kèm theo hồ sơ xin phép và lệ phí, gây ra phiền hà cho nhà đầu tư, tác động tiêu cực đến tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh ở nước ta. Đây là một bài học liên quan đến nhận thức và quan điểm về Nhà nước trong kinh tế thị trường – một nhà nước có hiệu năng cần phải: - Làm đúng chức năng đối với nhà đầu tư, tạo lập hành lang pháp lí thông thoáng, công khai và minh bạch, hướng dẫn và tạo điều kiện để nhà đầu tư nhanh chóng thực hiện dự án; xây dựng quy trình, quy chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế về xây dựng, môi trường, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ; trên cơ sở đó giám sát và kiểm tra thường xuyên, xử lí kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật. - Đặt trọng tâm công tác quản lí nhà nước FDI vào hoạt động xúc tiến đầu tư, bởi vì đây là công đoạn đầu tiên và quan trọng nhất để các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án ở Việt Nam. Hoạt động xúc tiến đầu tư phải đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài, không phải chỉ là giải thích môi trường, luật pháp như trong thời kì đầu, mà là các tư liệu cụ thể, chính xác tiềm năng kinh tế, nguồn nhân lực, dự án phát triển, các quy định về đất đai, ưu đãi thuế, tình trạng giao thông, nguồn điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, mặt bằng, điều kiện cư trú, đi lại, địa chỉ liên hệ khi cần thiết. - Cải tiến công tác thẩm định và cấp phép đầu tư, coi đây là thủ tục hành chính đầu tư đối với dự án FDI, các cơ quan nhà nước cần làm đúng chức năng của mình là hướng dẫn , hỗ trợ nàh đầu tư để dự án được cấp phép nhanh chóng. Nhà đầu tư là người bỏ vốn, biết tính toán hiệu quả kinh tế, các cơ quan nhà nước không nên và không thể làm thay đổi họ được. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tập trung vào công tác chuẩn bị trước dự án đầu tư – những điều kiện bảo đảm thành công khi triển khai thực hiện dự án FDI.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBai hoan chinh.doc
  • docDanh muc tai lieu tham khao.doc
  • docMuc luc.doc
  • docTrang bia.doc