Tiếp cận chuỗi giá trị nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản khai thác - Trường hợp mặt hàng cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa

- Tăng cường liên kết và hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi, cụ thể là: (1) Hợp tác cam kết với nhau thực hiện thống nhất về giá cả, bảo quản cá và thực hiện truy xuất nguồn gốc; (2) Hợp tác trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu đánh bắt đến khâu chế biến sản phẩm, tiêu thụ và phân phối; (3) Thiết lập các mô hình hợp tác dọc và ngang để tăng cường liên kết và hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi với sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. - Kiến nghị với chính quyền địa phương: (1) Cần có chính sách hỗ trợ các tác nhân trong chuỗi hợp tác chặt chẽ với nhau từ khâu khai thác đến thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ; (2) Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn và nâng cao nhận thức cho ngư dân và nậu vựa trong việc bảo quản cá sau thu hoạch; (3) Tuyên truyền, hướng dẫn và nâng cao nhận thức cho ngư dân về việc tuân thủ ghi chép nhật ký khai thác nhằm đảm bảo truy xuất nguồn gốc và thực hiện qui định IUU.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận chuỗi giá trị nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm thủy sản khai thác - Trường hợp mặt hàng cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 107 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC TIẾP CẬN CHUỖI GIÁ TRỊ NHẰM NÂNG CAO LỢI THẾ CẠNH TRANH CHO SẢN PHẨM THỦY SẢN KHAI THÁC - TRƯỜNG HỢP MẶT HÀNG CÁ NGỪ SỌC DƯA TẠI KHÁNH HÒA ACCESS VALUE CHAIN TO IMPROVE COMPETITIVE ADVANTAGE FOR MARINE FISHING PRODUCTS – THE CASE OF SKIPJACK TUNA IN KHANH HOA Phan Lê Diễm Hằng1, Nguyễn Ngọc Duy2 Ngày nhận bài: 03/4/2013; Ngày phản biện thông qua: 02/5/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013 TÓM TẮT Nghiên cứu tiếp cận phân tích chuỗi giá trị, trường hợp mặt hàng cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa nhằm đề xuất giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh và phát triển kinh doanh bền vững mặt hàng thủy sản này. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa đang có khả năng cạnh tranh yếu trên toàn chuỗi giá trị toàn cầu. Ngư dân, nậu vựa lớn và công ty chế biến thủy sản là những tác nhân then chốt trong chuỗi giá trị, nhưng họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường nước ngoài, chưa đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của khách hàng, và đang chịu sức ép mặc cả cao từ phía nhà nhập khẩu. Mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi thiếu sự gắn kết. Ngư dân là tác nhân chịu thiệt nhiều nhất với giá đầu ra thấp và rủi ro sản xuất cao. Nghiên cứu kiến nghị giải pháp tăng cường liên kết và hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi nhằm tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mặt hàng thủy sản này. Từ khóa: cá ngừ sọc dưa, chuỗi giá trị, lợi thế cạnh tranh, sản phẩm thủy sản ABSTRACT This research accesses value chain analysis for examining the case of the skipjack tuna in Khanh Hoa to suggest solutions to improve competitive advantage and develop sustainable business for this item. The research results demonstrate that the value chain of the skipjack tuna has weak competitive capacity in global value chain. Fishers, large traders and export seafood processing companies are the key actors of this chain, but they face with diffi culties in accessing information of foreign markets, unfulfi lling the strick requirements of customers, and disadvantages due to high barnaining power from the importers. Cooperation between the actors within the chain lacks linking closely. The fi shers get the most disadvantages for their low output price and high production risk. The research recommends solutions of strengthening links and cooperation among the actors in the chain to create long-term competitive advantage for this fi shery product. Keywords: skipjack tuna, value chain, competitive advantage, fi shery product 1 Phan Lê Diễm Hằng: Cao học Quản trị kinh doanh 2009 - Trường Đại học Nha Trang 2 ThS. Nguyễn Ngọc Duy: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khánh Hòa là một tỉnh nằm ở miền duyên hải Nam Trung Bộ có lợi thế phát triển ngành khai thác thủy sản. Sản lượng thủy sản khai thác biển của Khánh Hòa tăng bình quân 2%/năm từ năm 2009 đến 2011 và chiếm khoảng 80% tổng sản lượng thủy sản của cả tỉnh (Cổng thông tin điện tử Khánh Hòa, 2013). Sản lượng khai thác biển của tỉnh đạt khoảng 75.174 tấn trong năm 2011 (Cổng thông tin điện tử Khánh Hòa, 2013). Cá ngừ sọc dưa là sản phẩm khai thác biển có giá trị kinh tế cao, mang lại nguồn sinh kế chủ yếu cho ngư dân đánh bắt nghề lưới rê trong tỉnh, và là nguồn thu nhập quan trọng cho những tác nhân khác tham gia trong chuỗi (DANIDA, 2010). Tuy nhiên, hiện nay có nhiều thách thức trong sản xuất và phân phối sản phẩm thủy sản khai thác về các vấn đề liên quan đến đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, sản xuất thân thiện với môi trường và bảo vệ nguồn lợi. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 108 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Đây là những thách thức đòi hỏi xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm gắn kết chặt chẽ tất cả các tác nhân trong chuỗi nhằm đạt được mục tiêu là tạo lập lợi thế cạnh tranh có tính bền vững cho sản phẩm thủy sản khai thác trên thị trường quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu này tiếp cận chuỗi giá trị để phân tích chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản khai thác - mặt hàng cá ngừ sọc dưa ở thị trường Khánh Hòa nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể là: (1) Xác định các tác nhân và các mối liên kết trong chuỗi; (2) Đánh giá cách thức tổ chức, vận hành thị trường và tình hình cạnh tranh trong ngành; và (3) Đề xuất các kiến nghị về mặt chính sách để nâng cao lợi thế cạnh tranh lâu dài và phát triển kinh doanh bền vững. II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các tác nhân trong chuỗi bao gồm: ngư dân, chủ nậu vựa, công ty chế biến thủy sản xuất khẩu (CBTSXK), người bán sỉ và người bán lẻ. Nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp các tác nhân trong chuỗi. Số liệu thu thập gồm 40 mẫu hộ ngư dân, 4 nậu vựa, 5 công ty CBTSXK, 4 người buôn bán sỉ và 5 người bán lẻ. Số liệu nghiên cứu được điều tra trong năm 2012 cho năm 2011. 2. Phương pháp nghiên cứu Chuỗi giá trị là tập hợp tất cả các hoạt động để tạo ra một sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua những giai đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất, làm tăng giá trị và phân phối (Kaplinsky và Morris, 2001). Mô hình SCP (Structure–Conduct– Performance) của Bain (1951) tiếp cận theo chuỗi giá trị ngành hàng kinh doanh chỉ ra mối liên hệ giữa 3 nhân tố cấu trúc thị trường (S), sự vận hành (C) và kết quả thực hiện thị trường (P) trong chuỗi giá trị sản phẩm. Nghiên cứu này sử dụng mô hình SCP để phân tích chuỗi giá trị sản phẩm mặt hàng cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa. Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu và những hạn chế về dữ liệu, nghiên cứu này tập trung phân tích nhân tố cấu trúc thị trường và vận hành thị trường, cụ thể là: - Cấu trúc thị trường (S): xác định các tác nhân và các mối liên kết trong chuỗi giá trị, đặc điểm sản xuất kinh doanh của các tác nhân. - Vận hành của thị trường (C): cách thức xác định giá, các phương thức giao dịch và thanh toán, khả năng tiếp cận thông tin thị trường, khả năng kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc, và tình hình cạnh tranh trong ngành. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Cấu trúc và đặc điểm các tác nhân trong chuỗi Cấu trúc thị trường chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa gồm các tác nhân: ngư dân, nậu vựa lớn, công ty CBTSXK, người buôn bán sỉ và người bán lẻ. Sản phẩm cá ngừ sọc dưa được sản xuất và phân phối cho thị trường thông qua kênh chủ yếu là từ ngư dân đến các nậu vựa lớn và các công ty CBTSXK, sau đó xuất khẩu ra thị trường nước ngoài (hình 1). Hình 1. Kênh phân phối trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 109 Đặc điểm các tác nhân trong chuỗi: - Ngư dân khai thác cá ngừ sọc dưa phần lớn là những ngư dân đánh bắt xa bờ bằng nghề lưới rê với công suất từ 90 CV trở lên. Số tấm lưới sử dụng trong đánh bắt năm 2011 của các tàu được điều tra dao động từ 150 tấm đến 380 tấm. Các tàu hoạt động trung bình 10 đến 11 tháng trong năm với số chuyến đánh bắt trung bình khoảng 11,43 chuyến/năm. Số thủy thủ bình quân 11 người. Sản lượng bình quân cá ngừ sọc dưa của các tàu được điều tra là 135 tấn trong mùa vụ đánh bắt năm 2011. Tàu có sản lượng thấp nhất là 84 tấn và tàu có sản lượng cao nhất là 172 tấn. Sản lượng cá ngư dân khai thác được hầu hết bán cho chủ nậu vựa quen thuộc của họ. - Nậu vựa là những người thu mua cá trực tiếp từ ngư dân với sản lượng mua lớn. Hoạt động mua bán của họ diễn ra chủ yếu tại các cảng cá. Các nậu vựa lớn thường mua hết sản lượng cá mà ngư dân khai thác được. Họ chủ yếu phân phối trực tiếp lại cho các công ty CBTSXK. Theo điều tra, năm 2011 một số nậu vựa lớn có đơn đặt hàng trực tiếp từ các nhà nhập khẩu nước ngoài. Do đặc điểm xuất thân của họ từ gia đình có truyền thống khai thác thủy sản nên quan hệ mua bán giữa nậu vựa và ngư dân được duy trì bền vững qua nhiều năm. - Công ty CBTSXK là tác nhân rất quan trọng trong chuỗi. Họ chuyên thu mua cá nguyên liệu từ các nậu vựa lớn và có vai trò quyết định chi phối về giá cả trực tiếp đối với nậu vựa và gián tiếp đối với ngư dân. Họ cũng đặt ra các tiêu chuẩn về kích cỡ và chất lượng cho nguyên liệu cá ngừ sọc dưa. Sản phẩm chế biến của các công ty CBTSXK chủ yếu cung cấp cho các nhà nhập khẩu ở thị trường nước ngoài. - Nhà nhập khẩu là tác nhân cuối cùng trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa xuất khẩu. Họ luôn đặt ra yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Các nhà nhập khẩu chủ yếu ở thị trường Trung Đông và Châu Âu. Năm 2011, do thiếu nguồn nguyên liệu nên một số công ty chế biến thủy sản Thái Lan đã chuyển sang thu mua sản phẩm sơ chế từ các công ty CBTSXK Khánh Hòa. Họ cũng cạnh tranh trực tiếp các công ty chế biến trong tỉnh để thu mua cá nguyên liệu từ các nậu vựa. - Người buôn bán sỉ là những người mua cá từ các nậu vựa lớn hoặc ngư dân, sau đó họ bán lại cho người bán lẻ hoặc bán cho người tiêu dùng tại cảng. Đa số họ là những người bà con với các nậu vựa và ngư dân. Sản lượng mua của những người buôn bán sỉ khoảng 100 đến 500 kg/ngày. - Người buôn bán lẻ là những người buôn bán tại các chợ bán lẻ ở thành phố Nha Trang và các huyện trong tỉnh Khánh Hòa. Họ mua cá ngừ sọc dưa từ người buôn bán sỉ, sau đó bán lại trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Người bán lẻ rất đa dạng và họ mua bán nhiều loại cá khác nhau. 2. Tổ chức và vận hành thị trường 2.1. Phương thức giao dịch mua bán Các quan hệ mua bán trên thị trường theo phương thức tự do không có hợp đồng. Mối quan hệ mua bán ràng buộc giữa các tác nhân trong kênh chủ yếu dựa trên niềm tin cậy lẫn nhau thông qua thỏa thuận bằng miệng. Uy tín và trách nhiệm, tài chính sòng phẳng và rõ ràng, thanh toán đúng hạn là những nhân tố quan trọng nhất để duy trì mối quan hệ mua bán lâu dài và bền vững giữa các tác nhân trong chuỗi cung ứng cá ngừ sọc dưa. Hiện nay, ngư dân và công ty chế biến khó có thể tiếp cận được nhau trong giao dịch mua bán cá trên thị trường. Vì vậy, ngư dân không thể nhận đầy đủ giá trị mà họ tạo ra và các công ty CBTSXK khó có thể kiểm soát được chất lượng nguồn nguyên liệu. Các công ty CBTSXK và nhà nhập khẩu thường dựa vào hợp đồng được ký kết qua email hoặc fax để giao dịch. Sau khi thống nhất sản lượng, tiêu chuẩn chất lượng và giá cả, nhà nhập khẩu tiến hành đặt cọc và công ty CBTSXK tiến hành cung cấp hàng. Giao dịch hoàn tất khi nhà nhập khẩu thanh toán hết toàn bộ giá trị đơn hàng sau khi nhận được hàng. Nhìn chung hình thức thanh toán được sử dụng là người mua trả ngay một phần bằng tiền mặt cho người bán tại thời điểm giao hàng, sau đó vài ngày người mua thanh toán hết số tiền còn lại. Hình thức mua bán giao ngay với việc thanh toán ngay hoặc trong vòng một ngày thường được sử dụng giữa nậu vựa, người buôn bán sỉ và bán lẻ. 2.2. Quy trình xác lập giá Giá xuất khẩu cá ngừ sọc dưa của các công ty CBTSXK hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào giá của thị trường thế giới (giá nhà nhập khẩu), trên cơ sở đó các nhà chế biến định giá thu mua cho các nậu vựa. Thông qua hệ thống thông tin liên lạc các chủ nậu vựa đã nắm được thông tin về sản lượng khai thác được từ các tàu. Các chủ nậu tìm kiếm các công ty chế biến và tiến hành đàm phán thương lượng để xác định mức giá và sản lượng cung ứng trước khi họ định giá cho ngư dân. Các chủ nậu vựa sẽ ưu tiên cung cấp cho những công ty chế biến trả giá cao cho họ. Giá thu mua từ ngư dân biến động qua từng tháng, nhưng thường không đổi suốt một đợt thu mua Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 110 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG trong tháng và không chênh lệch nhau giữa các chủ nậu. Điều tra từ các chủ nậu vựa thấy rằng giá bán cá ngừ sọc dưa tăng bình quân 2,3%/tháng trong năm 2011 với mức giá cá trung bình 25.625 đồng/kg. Do sự khan hiếm tương đối về cung của sản phẩm này trên thị trường thế giới nên giá cá tăng qua các tháng trong năm 2011. Đối với giá mua vào của những người buôn bán sỉ, quyền định giá hoàn toàn phụ thuộc vào các chủ nậu vựa lớn. Người buôn bán sỉ mua bán với sản lượng nhỏ. Giá mua bán giữa người buôn bán sỉ và người bán lẻ phụ thuộc vào các yếu tố như: sản lượng cá lưu thông trên thị trường, sức mua của thị trường, chất lượng và kích cỡ cá, những thỏa thuận và thương lượng giữa họ. Với qui trình xác lập giá trên, người đóng vai trò điều tiết và chi phối thị trường trong nước là các công ty CBTSXK bởi sản lượng mua vào lớn. Các công ty chế biến không chịu ràng buộc hay sức ép lớn khi thu mua cá. Họ có quyền lựa chọn nhà cung ứng với các yêu cầu về giá cả, kích cỡ và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, quyền lực mặc cả của họ yếu hơn so với nhà nhập khẩu. Điều này chứng tỏ rằng chuỗi giá trị sản phẩm cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa có vị thế cạnh tranh yếu trên toàn chuỗi giá trị toàn cầu của sản phẩm này. Ngư dân là tác nhân gặp nhiều bất lợi nhất so với các tác nhân khác trong chuỗi. Nguyên nhân do họ bị hạn chế về thông tin thị trường và bị ràng buộc mối quan hệ với các nậu vựa, trong khi đó chưa có một cơ chế hợp tác dọc giữa tất cả các tác nhân trong chuỗi. 2.3. Khả năng tiếp cận thông tin thị trường Nghiên cứu tiến hành khảo sát các tác nhân trong chuỗi về khả năng tiếp cận thông tin thị trường bao gồm giá cả, cung cầu trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, yêu cầu về sản phẩm. Kết quả cho thấy 60% ngư dân cho rằng họ có thể dễ dàng tiếp cận được thông tin thị trường và gần 40% còn lại cho rằng khó tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng (bảng 1). Tuy nhiên, hầu hết những thông tin thị trường, giá cả ngư dân biết chủ yếu từ nậu vựa (55%) và người thân/bạn bè là ngư dân khác (40%). Các nậu vựa cho rằng họ dễ dàng có được thông tin (75%) và nguồn cung cấp thông tin chủ yếu từ người mua là các công ty CBTSXK (50%). Trong khi đó, khoảng 80% công ty chế biến gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường. Nguồn cung cấp thông tin cho công ty chế biến là các phương tiện truyền thông như internet và báo (60%) (bảng 1). Bảng 1. Khả năng tiếp cận thông tin thị trường của mỗi tác nhân Tác nhân Tỷ lệ trả lời về mức độ tiếp cận thông tin (%) Nguồn cung cấp thông tin Dễ dàng Khó khăn Rất khó khăn Ngư dân (n=40) 60 37,5 2,5 Từ nậu vựa: 55%; bạn bè/người thân: 40%; nguồn khác: 5% Nậu vựa (n=4) 75 25 0 Công ty CBTSXK: 50%, phương tiện truyền thông: 25%; nguồn khác: 25% CTCBTSXK (n=5) 20 60 20 Phương tiện truyền thông: 60%; người mua hàng: 20%; nguồn khác: 20% Người bán sỉ (n=4) 75 25 0 Bạn bè/người thân: 25%; trung gian khác: 75% Người bán lẻ (n=5) 60 40 0 Bạn bè/người thân: 60%; trung gian khác: 40% ( Nguồn: Điều tra 2012) Có thể nhận thấy rằng chuỗi giá trị xuất khẩu sản phẩm cá ngừ sọc dưa Khánh Hòa đang gặp bất lợi vì thiếu thông tin thị trường. Một trong những lý do là các công ty CBTSXK chưa đủ khả năng nghiên cứu và thu thập thông tin ở thị trường nước ngoài. Những thông tin mà các công ty chưa tiếp cận được có thể là: (1) Công nghệ và sản phẩm chế biến từ cá ngừ sọc dưa của nhà nhập khẩu nước ngoài; (2) Khách hàng đầu ra của nhà nhập khẩu, giá bán, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của họ; (3) Có bao nhiêu tác nhân tham gia vào chuỗi cung ứng từ nhà nhập khẩu đến người tiêu dùng cuối cùng; (4) Ai là người tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm này, họ ở thị trường nào và sức mua của họ; (5) Không có thông tin đầy đủ về sản lượng cung cầu của sản phẩm cá ngừ sọc dưa trên thị trường thế giới. Đây cũng là các lý do mà các công ty CBTSXK mặt hàng cá ngừ sọc dưa có sức mặc cả yếu trong việc thương lượng và đàm phán với nhà nhập khẩu. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 111 2.4. Khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm và thực hiện truy xuất nguồn gốc Vấn đề kiểm soát chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản được xem là một trong những điểm yếu của chuỗi giá trị sản phẩm cá ngừ sọc dưa tại Khánh Hòa. Qua khảo sát cho thấy phương pháp bảo quản cá sau thu hoạch của ngư dân vẫn còn thô sơ, chủ yếu dùng đá xay trong hầm lạnh chứa cá nên không đủ khả năng duy trì nhiệt độ bảo quản lạnh trong suốt thời gian khai thác, vận chuyển về cảng. Đa số tàu không có nhiệt kế kiểm tra nhiệt độ bảo quản và nhật ký giám sát. Các điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm và đảm bảo nhiệt độ cho cá trong quá trình bốc dỡ, bảo quản, vận chuyển tại cảng chưa đáp ứng đúng yêu cầu. Các chủ nậu vựa cũng sử dụng phương pháp ướp đá xay nhằm bảo quản cá thu mua từ ngư dân. Một số ngư dân và nậu vựa đã sử dụng các hóa chất bảo quản và thuốc kháng sinh để kéo dài thời gian bảo quản và vận chuyển. Điều này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu. Ý thức kiểm soát về chất lượng cá đối với người bán sỉ và lẻ còn nhiều hạn chế. Một số trung gian này sử dụng hóa chất trong quá trình bảo quản để cho sản phẩm tươi lâu hơn nhằm kiếm lời. Tuy nhiên, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm của các cơ quan chức năng tại các chợ tiêu thụ chưa được quan tâm triệt để. Chất lượng của mặt hàng cá ngừ sọc dưa trong quá trình chế biến tại các công ty CBTSXK đều được quản lý theo các tiêu chuẩn của hệ thống HACCP. Việc kiểm tra chất lượng được tiến hành xuyên suốt quá trình chế biến sản phẩm từ khâu đánh giá kiểm tra chất lượng cá nguyên liệu đầu vào đến các công đoạn sơ chế nguyên liệu. Tuy nhiên, các công đoạn chỉ tiến hành kiểm tra trên mẫu nên không tránh khỏi xác suất vẫn còn những sản phẩm chưa đạt yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản. Hơn nữa, các công ty được khảo sát đều đánh giá họ rất khó khăn kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào thu mua từ các chủ nậu vựa. Điều này tác động rất lớn đến lợi thế cạnh tranh mặt hàng này trên thị trường quốc tế. Thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm cá ngừ sọc dưa là một trong những khó khăn và thách thức lớn của các công ty CBTSXK. Các công ty rất khó khăn thu thập các thông tin về tàu khai thác, chủ tàu, phương tiện đánh bắt, ngư trường, giấy báo chuyến hàng trên biển. Trong khi đó, sự sẵn sàng hợp tác của chủ nậu vựa rất hạn chế, bởi vì: (1) nhận thức hạn chế của chủ nậu về thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm; (2) sự cạnh tranh thu mua nguyên liệu giữa các công ty chế biến làm giảm áp lực trách nhiệm của chủ nậu vựa trong việc thực hiện truy xuất nguồn gốc. Bên cạnh đó, việc thực hiện ghi chép nhật ký khai thác của ngư dân nhằm thực hiện truy xuất nguồn gốc chưa thực hiện nghiêm túc. Một số nguyên nhân tổng hợp từ điều tra ngư dân bao gồm: (1) ngư dân nhận thức chưa đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của họ về ghi chép đầy đủ các thông tin trong quá trình đánh bắt đối với việc hiện truy xuất nguồn gốc và bảo vệ nguồn lợi; (2) một bộ phận không nhỏ ngư dân trình độ thấp chưa biết phương pháp tiến hành ghi chép dữ liệu; (3) cạnh tranh trong khai thác làm cho ngư dân không sẵn lòng ghi chép đúng nhật ký khai thác; (4) thiếu sự tuyên truyền và hướng dẫn đầy đủ từ các cơ quan chức năng. 3. Đánh giá tình hình cạnh tranh trong ngành 3.1. Rào cản ngành và mức độ cạnh tranh trong ngành Ngư dân: chi phí vốn đầu tư đóng tàu và mua sắm ngư cụ khai thác cá ngừ sọc dưa của ngư dân là lớn. Sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào làm cho chi phí chuyến biển, nhân công và bảo trì tàu cao. Mặt khác, những người gia nhập vào ngành cần phải có kinh nghiệm trong nghề lưới rê, am hiểu về ngư trường cũng như đặc điểm di cư của loài cá ngừ sọc dưa. Vì vậy, rào cản gia nhập ngành hiện nay là cao. Ngoài ra, sự suy giảm nguồn lợi và rủi ro khai thác xa bờ cũng là yếu tố không hấp dẫn với những ngư dân nghề khác muốn vào nghề này. Chủ nậu vựa: rào cản gia nhập ngành là rất cao. Trở thành chủ nậu vựa đòi hỏi phải có tiềm lực tài chính mạnh cũng như sẵn sàng hỗ trợ và giúp đỡ ngư dân khi gặp khó khăn hoặc rủi ro trong hoạt động đánh bắt. Mối quan hệ giữa ngư dân và chủ nậu vựa là khá bền vững nên rất khó để cá nhân hay tổ chức nào gia nhập vào đội ngũ nậu vựa. Sự cạnh tranh giữa các nậu vựa không cao và họ có sức ảnh hưởng lớn đến ngư dân. Công ty chế biến: số lượng công ty CBTSXK mặt hàng cá ngừ sọc dưa tại thị trường Khánh Hòa không nhiều, nhưng sức ép cạnh tranh trong ngành là khá cao. Xu hướng các công ty chế biến thủy sản ngoài tỉnh và nước ngoài tìm đến thị trường Khánh Hòa để thu mua nguyên liệu đã làm gia tăng sức ép cạnh tranh. Đối với thị trường xuất khẩu cá ngừ sọc dưa, sự cạnh tranh giữa các công ty ngày càng trở nên gay gắt và hướng đến cạnh tranh về giá. Các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và nguồn gốc xuất xứ đang gây nên sức ép đối với các công ty CBTSXK trên địa bàn. Ngoài ra, để đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của khách hàng nước ngoài đòi hỏi các Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013 112 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG công ty phải đầu tư vốn lớn cho dây chuyền sản xuất, thiết bị cấp đông, áp dụng hệ thống kiểm soát chất lượng, tạo lập nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào ổn định, trong khi đó sự tiếp cận vốn trên thị trường khó khăn. Đây là những rào cản cao trong ngành này. Những người buôn bán sỉ có quy mô hoạt động không lớn, vốn kinh doanh đòi hỏi không nhiều, nhưng do họ có quan hệ thân quen với các nậu vựa và ngư dân nên có thể mua được cá với sản lượng nhỏ. Vì vậy, mức độ cạnh tranh giữa họ không cao do sự gia nhập ngành khó khăn. Đối với người bán lẻ, rào cản gia nhập và rút lui khỏi ngành thấp. Mức độ cạnh tranh cao giữa những người bán lẻ và áp lực cạnh tranh cao từ các sản phẩm thủy sản thay thế khác. 3.2. Mức độ khác biệt của sản phẩm Sự khác biệt về sản phẩm của cá ngừ sọc dưa có thể được xem không phải là rào cản cạnh tranh mạnh. Hầu hết hiện nay tất cả các tàu đều có cách đánh bắt và bảo quản giống nhau nên ít có sự khác biệt về chất lượng. Ngư dân bán xô tất cả cá khai thác được cho nậu vựa. Sau đó, các nậu vựa thực hiện phân loại cá để tiến hành bán cho công ty chế biến và các đối tượng mua hàng khác. Cá chủ yếu được phân thành 2 loại theo yêu cầu của các công ty chế biến. Loại I là nhóm cá đẹp có màu sắc tốt và chất lượng thịt cá cao, loại II có chất lượng thấp hơn. Các công ty CBTSXK thường xuất khẩu sản phẩm thô, hàm lượng giá trị gia tăng thấp như sản phẩm cấp đông nguyên con hoặc luộc đóng hộp. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu cho thấy các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa gồm có ngư dân, nậu vựa lớn, công ty CBTSXK, người buôn bán sỉ và người bán lẻ. Ngư dân, nậu vựa lớn và công ty chế biến thủy sản là những tác nhân then chốt trong chuỗi giá trị mặt hàng này. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi là không chặt chẽ. Ngư dân là tác nhân chịu thiệt nhiều nhất về giá đầu ra và rủi ro. Tác nhân đóng vai trò điều tiết và chi phối thị trường trong nước là các công ty chế biến thủy sản xuất xuẩu, nhưng toàn chuỗi sản xuất và xuất khẩu cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa đang chịu sức ép cao từ phía người mua do khả năng mặc cả mạnh của nhà nhập khẩu. Khả năng các tác nhân trong chuỗi, đặc biệt là các công ty CBTSXK, tiếp cận thông tin thị trường nước ngoài rất khó khăn, nên họ không có đầy đủ thông tin để mặc cả với người mua nước ngoài. Chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa có khả năng đáp ứng thấp các yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Vì vậy, có thể nhận định rằng chuỗi giá trị cá ngừ sọc dưa ở Khánh Hòa có vị thế cạnh tranh yếu trên toàn chuỗi giá trị toàn cầu của mặt hàng này. Để nâng cao lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm cá ngừ sọc dưa đòi hỏi hướng tiếp cận phát triển ngành theo chuỗi giá trị từ khai thác đến thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu. Vì vậy, một số giải pháp được kiến nghị bao gồm: - Tăng cường liên kết và hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi, cụ thể là: (1) Hợp tác cam kết với nhau thực hiện thống nhất về giá cả, bảo quản cá và thực hiện truy xuất nguồn gốc; (2) Hợp tác trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu đánh bắt đến khâu chế biến sản phẩm, tiêu thụ và phân phối; (3) Thiết lập các mô hình hợp tác dọc và ngang để tăng cường liên kết và hợp tác giữa các tác nhân trong chuỗi với sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. - Kiến nghị với chính quyền địa phương: (1) Cần có chính sách hỗ trợ các tác nhân trong chuỗi hợp tác chặt chẽ với nhau từ khâu khai thác đến thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ; (2) Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn và nâng cao nhận thức cho ngư dân và nậu vựa trong việc bảo quản cá sau thu hoạch; (3) Tuyên truyền, hướng dẫn và nâng cao nhận thức cho ngư dân về việc tuân thủ ghi chép nhật ký khai thác nhằm đảm bảo truy xuất nguồn gốc và thực hiện qui định IUU. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Cổng thông tin điện tử Khánh Hòa, 2013. Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa năm 2009, 2010 và 2011. Cổng thông tin điện tử Khánh Hòa, >, truy cập ngày 04/04/2013. Tiếng Anh 2. Bain J.S., 1951. Relation of Profi t to Industry Concentration: American Manufacturing 1936-1940. Quarterly Journal of Economics, 65(August): 293-324. 3. DANIDA, 2010. The Fisheries Sector in Vietnam: A Strategic Economic Analysis. Report of the Royal Embassy of Denmark in Vietnam (DANIDA), Hanoi, 12/2010. 4. Kaplinsky R. and Morris M., 2001. A Handbook for Value Chain Research. International Development Research Center, Ottawa, Canada, 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftiep_can_chuoi_gia_tri_nham_nang_cao_loi_the_canh_tranh_cho.pdf