3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP
3.1 Kết luận
Từ kết quả điều tra, khảo sát đã làm rõ thực trạng
chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường
thời gian qua trên các mặt về tổ chức giáo dục; về
thực trạng các thành tố cấu thành của quá trình
giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. Sự tác
động của GD trên tất cả các lĩnh vực trong
hoạt động GDQP&AN đã nâng cao nhận thức
toàn diện cho SV và các lực lượng có liên
quan đặc biệt về vai trò, ý nghĩa tầm quan
trọng của công tác GDQP&AN. Đồng thời,
CB, GV và SV hiểu biết hơn về âm mưu, thủ
đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch chống phá đối với cách mạng Việt Nam;
về yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước
tình hình mới và vai trò trách nhiệm to lớn
của thế hệ trẻ SV đối với sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc.
Với những phân tích, đánh giá chung cả về mặt
định lượng và định tính cho thấy, trong thời gian
qua, chất lượng GDQP&AN là cơ bản thuận lợi,
bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn
tại một số mặt hạn chế bất cập nhất định cần
được khắc phục. Đồng thời qua nghiên cứu thực
trạng, tác giả rút ra một số nhận định để nâng cao
chất lượng GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG,
cụ thể như sau:
Một là, đã có sự quan tâm chú trọng đúng mức
đối với việc không ngừng nâng cao nhận thức,
tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ CBQL,
GV, công chức, viên chức và SV toàn Trường về
vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác
GDQP&AN trước tình hình hiện nay.
Hai là, thường xuyên đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động
sáng tạo (lấy người học làm trung tâm) đã đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đổi mới giáo dục
toàn diện.
Ba là, coi trọng việc củng cố và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng (khoa, phòng,
ban, trung tâm, BM), các lực lượng hỗ trợ khác
trong công tác GDQP&AN.
Bốn là, quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ
đạo của cấp trên, vận dụng, tổ chức làm tốt công
tác bảo đảm về mọi mặt (Mục tiêu, nội dung,
chương trình GDQP&AN, tổ chức lực lượng GV,
cơ sở vật chất, hậu cần kĩ thuật, thao trường bãi
tập.) trong quá trình GDQP&AN cho SV.
3.2 Khuyến nghị một số giải pháp
Để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV
trong thời gian tới, cần quán triệt các yêu cầu có
tính nguyên tắc, đó là: Thực hiện đúng đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
GDQP&AN; Bám sát yêu cầu sự nghiệp đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan
điểm Đại hội XII/2016 của Đảng nhằm phấn đấu
trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.
116, 117); Quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ
của cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, nền an ninh nhân dân và chiến tranh nhân
dân; Đảm bảo vững chắc kết quả giáo dục, đáp
ứng yêu cầu xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực và
yêu cầu bảo đảm quốc phòng và an ninh trên địa
bàn. Trên cơ sở quán triệt các yêu cầu có tính
nguyên tắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN như
sau:
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ
chức, các lực lượng sư phạm chuyên trách,
đội ngũ CB, công chức, viên chức trong toàn
Trường với công tác GDQP&AN cho SV.
2. Xây dựng củng cố chất lượng, số lượng đội
ngũ GV GDQP&AN vừa hồng vừa chuyên và
hợp lý về cơ cấu tổ chức bộ máy; đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ GDQP&AN trước tình hình
mới.
3. Thường xuyên nâng cao vai trò trách nhiệm
cá nhân trong việc xây dựng chương trình chi
tiết môn học, biên soạn giáo án, kế hoạch bài
giảng đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với quá
trình giáo dục; tích cực đổi mới phương pháp
trong giảng dạy và sử dụng có hiệu quả các
phương pháp phù hợp với nội dung lý luận và
thực hành của môn học; nắm vững đặc điểm
và chất lượng từng đối tượng người học,
thông tin phản hồi từ SV để rút kinh nghiệm,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương
pháp giáo dục đạt hiệu quả.
4. Tham mưu kịp thời, đề xuất cấp trên, cơ quan
thẩm quyền về phương hướng đổi mới
chương trình, nội dung và đa dạng hóa cácAn Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
108
hình thức, phương pháp giảng – dạy, quản lý
chất lượng GDQP&AN.
5. Tiếp tục phát huy tính tích cực và hiệu quả
thực chất của môn học GDQP&AN theo niên
chế tín chỉ. Đồng thời triển khai vận dụng
đảm bảo thực hiệt tốt quy định về chuẩn đầu
ra, đề cương chi tiết môn học (theo
CDIO/2016) đã được Hiệu trưởng phê duyệt.
6. Tích cực xây dựng, ứng dụng, khai thác khả
năng của các phương tiện khoa học – công
nghệ ứng dụng trong dạy học GDQP&AN.
7. Phát huy tốt sự giúp đỡ của các tổ chức, các
lực lượng vũ trang nhân dân, chính quyền địa
phương đối với công tác giáo dục.
Qua tổng hợp kết quả nghiên cứu, đánh giá khảo
sát, bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) CB, GV và SV
đã chứng minh, việc áp dụng các giải pháp được
đề xuất sẽ đáp ứng yêu cầu đảm bảo nâng cao
chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường
hiện nay.
15 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Quốc phòng và an ninh cho sinh viên trường Đại học An Giang hiện nay - Trần Khánh Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
95
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG HIỆN NAY
Trần Khánh Mai1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 16/10/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
27/11/2017
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017
Title:
The reality and solutions in
enhancing the quality of
National Defense and Security
Education for students at An
Giang university at present
Keywords:
Realities, solutions, the quality
of National Defense and
Security Education, students,
An Giang university
Từ khóa:
Thực trạng, giải pháp,
chất lượng Giáo dục quốc
phòng và an ninh, sinh
viên, Trường Đại học An
Giang
ABSTRACT
National defense and security education is a regular strategic duty of the
Communist Party, Vietnamese people, and the whole political system. Together
with implementing the objectives, directions, responsibilities, requirements in
renovating the education and training according to the Resolution of the
Assembly 12 (2016), enhancing the teaching quality of National Defense and
Security Education for students at An Giang university is currently essential. In
order to evaluate of the reality of teaching and find out the solutions in
education quality enhancement, the survey was conducted from staff and
lecturers of National Defense and Security Education Department, and students
at An Giang University. The finding show that there are still existing
shortcomings in learning activities and the course assessment which are
necessary to be adjusted, and then to find out suitable solutions to contribute to
the quality in teaching and learning this course at the university.
TÓM TẮT
Giáo dục quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ có tính chiến lược, thường xuyên,
lâu dài, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.
Đồng thời việc quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu đổi mới
toàn diện giáo dục, đào tạo theo tinh thần Nghị quyết tại Đại hội XII (2016) của
Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và trong việc nâng cao chất lượng giảng
dạy giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên tại Trường Đại học An
Giang nói riêng hiện nay là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn. Để đánh giá đúng
thực trạng dạy học, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, tác
giả tổng hợp kết quả qua khảo sát bằng bảng hỏi của cán bộ quản lý, giảng viên
bộ môn Giáo dục Quốc phòng, sinh viên ở nhà trường. Từ đó, tác giả nhận thấy
rằng thực trạng còn biểu hiện một số mặt tồn tại, khiếm khuyết nhất định trong
tổ chức hoạt động dạy học, đánh giá chất lượng môn học cần được tác động
điều chỉnh kịp thời, đề xuất các giải pháp và kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy, học tập môn Giáo dục Quốc phòng và An ninh trong nhà
trường hiện nay.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
96
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục Quốc phòng và An ninh (GDQP&AN)
được Đảng và nhà nước ta xác định là một nội
dung của nền giáo dục quốc gia, là nội dung cơ
bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, có
ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con
người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN).
GDQP&AN góp phần thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN.
Với nhà trường, trong giai đoạn cách mạng hiện
nay nhiệm vụ GDQP&AN là làm sao cho thế hệ
trẻ sinh viên (SV) nhận thức được giá trị nền độc
lập, tự do, sự hy sinh lớn lao của các thế hệ ông
cha để bảo vệ đất nước. Xuất phát từ quan điểm
của Đảng, việc phổ cập và tăng cường
GDQP&AN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức
thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương
đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với
từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên
với giáo dục tập trung có trọng tâm, trọng điểm,
chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chế độ
XHCN, lịch sử truyền thống của Đảng và dân
tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật, trong
đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2010, tr. 14). Với ý nghĩa
đó, GDQP&AN trong giai đoạn hiện nay không
chỉ đơn thuần là môn học về kỹ thuật quân sự mà
là một hệ thống kiến thức tổng hợp về quốc
phòng, an ninh, trang bị cho người học những
kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất phục vụ sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và góp phần
giáo dục về ý thức, trách nhiệm qua đó hình
thành phẩm chất, đạo đức người lao động, người
chiến sĩ trong tương lai của thế hệ trẻ đang học
tập trong nhà trường.
Trước tình hình thực tế hiện nay, ở cấp độ địa
phương nói chung và trường ta nói riêng cũng
chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu chuyên
sâu về lĩnh vực GDQP&AN. Vì vậy, với nhiệm
vụ chính trị môn học GDQP&AN đặt ra trước
mắt cũng như lâu dài, việc nghiên cứu thực trạng
và đề ra giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
GDQP&AN cho SV Trường Đại học An Giang
(ĐHAG) hiện nay, là vấn đề cần thiết có ý nghĩa
thực tiễn.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN
GIANG HIỆN NAY
Trường Đại học An Giang đã thành lập Bộ môn
Giáo dục Quốc phòng (BM GDQP) trực thuộc từ
tháng 10/2000 có nhiệm vụ giảng dạy theo
chương trình và quy định tổ chức giảng dạy và
đánh giá kết quả học tập môn học GDQP&AN
hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ
GDĐT). Trường ĐHAG được chính thức công
nhận là Đơn vị chủ quản (Bộ GDĐT, 2011), tự
tiến hành tổ chức giảng dạy, đánh giá kết quả
môn học và cấp chứng chỉ GDQP&AN cho SV
bắt đầu từ năm học 2011 trở đi. Do vậy, BM
GDQP có nhiệm vụ giảng dạy theo chương trình
được quy định tại Thông tư số 31/2012/TT-
BGDĐT ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ
GDĐT về việc ban hành Chương trình
GDQP&AN trình độ đại học, cao đẳng và văn
bản hướng dẫn số 6353/BGDĐT-GDQP ngày
26/9/2012; Thông tư số 40/2012/TT-BGDĐT
ngày 19/11/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về
việc ban hành Quy định tổ chức dạy, học và đánh
giá kết quả học tập môn học GDQP&AN (Bộ
GDĐT, 2007; 2012).
Để tìm hiểu thực trạng dạy học môn GDQP&AN
tại Trường ĐHAG, tác giả đã tiến hành nghiên
cứu 300 SV khóa đại học 14, 15 và cao đẳng 39
trong học kỳ 2 năm học 2015 - 2016 và 30 cán bộ
(CB) quản lý và giảng viên (GV) thuộc khoa,
phòng liên quan và BM GDQP.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng
phối hợp nhiều phương pháp khác nhau như
phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi, phương
pháp quan sát. Kết quả khảo sát được sử dụng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
97
phương pháp thống kê toán học để xử lý đánh giá
phân tích.
2.1 Về đội ngũ giảng viên và hoạt động tổ
chức giáo dục quốc phòng và an ninh
Từ khi thành lập BM GDQP trực thuộc Ban giám
hiệu (BGH) từ ngày 12/10/2000. Với đội ngũ GV
cơ hữu chỉ có 3 người và 2 GV kiêm nhiệm, đến
nay về đội ngũ GV GDQP&AN đã có 14 người
(và 1 GV kiêm nhiệm).
Hiện nay, tất cả GV đều đã qua bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm giảng dạy đại học và giảng dạy
GDQP&AN. Có 6 GV nguyên là sĩ quan chuyên
nghiệp quân đội, công an; 8 sĩ quan Dự bị động
viên (đều đã qua đào tạo ở trường quân đội, công
an; 2 sĩ quan pháo binh, 1 sĩ quan lục quân và 1
Đại học An ninh Nhân dân), về học vị có 9 GV
thạc sỹ, 6 cử nhân. Đảng viên 13/15 người
(86,7%) (Bảng 1).
Bảng 1. Số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh của Trường Đại học An Giang
GV SL
Thạc
sĩ
Cử
nhân
Sĩ
quan
Công
an
Quân đội
Lý luận
CT
GV
chính
Chuyên
viên
chính
Sĩ quan
Chuyên
nghiệp
Sĩ
quan
Dự bị
TC CC
Cơ hữu 14 08 6 1 5 8 4 2 1 1
Thỉnh giảng 1 1 1
TC 15 9 6 2 5 8 4 2 1 1
Như vậy, so với đối tượng là GV khác, GV
GDQP&AN của trường hầu hết đều là sĩ quan
(chuyên nghiệp và dự bị) quân đội, công an, có trình
độ chuyên môn khá (Thạc sỹ: 9/15 GV); thâm niên
giảng dạy GDQP&AN ít nhất 1 năm đến 17 năm; về
độ tuổi từ 20 đến < 50 có 10 GV và 5 GV có tuổi
trên 50; về trình độ chính trị có 4 GV trình độ trung
cấp, 2 GV cao cấp và số lượng đảng viên hiện nay
có 13/15 GV và 2 GV được công nhận “GV dạy
giỏi” môn học GDQP&AN cấp quốc gia nên có
nhiều lợi thế hơn trong công tác giảng dạy môn học
này.
Thực tế qua kết quả điều tra khảo sát cho thấy, đa số
các ý kiến (96,7% của CB, GV và 93,3% của SV)
nhận xét ở mức độ 1, 2 (rất tốt và tốt); tuy nhiên
cũng còn 3,3% ý kiến của CB, GV và 6,7 %, của SV
nhận xét ở mức độ 3, 4 (trung bình, yếu) đối với đội
ngũ GV trên các giá trị chung được đánh giá và cần
có thời gian, biện pháp điều chỉnh phù hợp trong thời
gian tới (Biểu đồ 1). Do đó, trong thời gian tới, nhà
trường cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về xây
dựng đội ngũ GV (như: nâng cao năng lực chuyên
môn, phương pháp giảng dạy, phẩm chất đạo đức lối
sống).
Biểu đồ 1. Mức độ nhận xét chất lượng đội ngũ giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
98
(cụ thể trên cả 3 tiêu chí)
Về ý kiến tổng hợp đánh giá của người học (từ
Phòng Khảo thí và Kiểm định Chất lượng) đối với
đội ngũ GV trong năm học 2015 - 2016 cho thấy,
100% GV đạt loại xuất sắc (GV được đánh giá ở 12
tiêu chí); mức độ điểm trung bình của GV thấp nhất
là 4,15 điểm; GV có điểm cao nhất là: 42,64 (xếp
hạng cấp Khoa của GV có chỉ số thấp nhất là 26, cao
nhất là 42). Đây cũng là cơ sở để xem xét mức độ
tương tác chất lượng, phương pháp giảng dạy, kiến
thức chuyên môn, đạo đức tác phong của người thầy
với kết quả học tập, rèn luyện của SV trong môn học
GDQP&AN ở Trường ĐHAG.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số đội ngũ CB, GV,
SV đã nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác
GDQP&AN trước tình hình hiện nay, qua đó nâng
cao được ý thức, tinh thần thái độ và trách nhiệm
trong tổ chức thực hiện giáo dục. Kết quả khảo sát
bằng bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) của CB GV và SV
về sự cần thiết và mục tiêu của công tác GDQP&AN
cho SV Trường ĐHAG như sau (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2. Kết quả khảo sát đánh giá sự cần thiết và mục tiêu đào tạo
của công tác Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên
Tuy vậy, trong điều kiện số lượng SV khá lớn,
các yếu tố bảo đảm cho GDQP&AN của nhà
trường cũng có hạn chế nhất định nên cũng gặp
không ít khó khăn trong công tác tổ chức giáo
dục. Nhìn chung lực lượng GV ở BM còn thiếu
và chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chuẩn hóa
của Bộ GDĐT. Cơ sở vật chất mặc dù được củng
cố, bảo quản, sửa chữa nhưng vẫn còn thiếu
(không được trang bị mới) so với quy định và
chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu bảo đảm cho
GDQP&AN, nhất là trong điều kiện số lượng SV
đông, quản lý và học tập tập trung trong một thời
gian ngắn (học hè) ở nội dung kĩ chiến thuật quân
sự (HP-3).
Mặt khác trong quá trình giảng – dạy, vai trò
trách nhiệm của các GV đối với hoạt động giáo
dục đôi lúc chưa được thể hiện và phát huy đầy
đủ. Chưa thực hiện sâu sát, thường xuyên các
nội dung quản lý, như quản lý, về chương
trình, nội dung, phương pháp dạy học (PPDH);
quản lý người dạy, người học, cơ sở vật
chất, Mối quan hệ, sự hiểu biết giữa người
dạy và người học trong quá trình giáo dục còn
hạn chế. Các hoạt động kiểm tra, đánh giá nắm
thông tin ngược để điều chỉnh quá trình giáo
dục chưa được thực hiện thường xuyên. Việc
gắn nội dung giáo dục với thực tiễn hoạt động
nghề nghiệp của SV chưa được chú trọng đúng
mức.
Dự báo trong thời gian tới, lượng SV sẽ có khả
năng tăng hơn, yêu cầu chất lượng GDQP&AN
cũng cao hơn; công tác GDQP&AN đòi hỏi phải
chuẩn hóa để đáp ứng với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Thực tế đó đòi hỏi, nhà trường cần phải
tiếp tục phát huy cao nhất mọi nguồn lực cho
việc thực hiện tốt hoạt động GDQP&AN (Bảng
2).
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
99
Bảng 2. Dự báo lưu lượng tuyển sinh các hệ đào tạo đến năm 2020 (không kể trình độ trên đại học)
TT Hệ đào tạo
Năm học
2017 - 2018 2018 - 2019 2019 - 2020
1 Đại học chính quy 1.500 2.000 2.500
2 Đại học ngoài chính quy (LK) 400 700 900
3 Cao đẳng 600
+ Tổng cộng 2.500 2.700 3.400
Mặt khác, từ thực trạng giảng dạy môn học
GDQP&AN, trong thời gian tới số lượng SV có khả
năng tiếp tục tăng lên (Bảng 2), việc giảng dạy vượt
giờ (> 200 tiết/năm/GV) đều đặn như những năm
qua của GV GDQP&AN, tất yếu sẽ còn phải tiếp
tục, từ đó phần nào cũng làm ảnh hưởng nhất định
đến chất lượng giáo dục, trật tự nội vụ kỉ cương, nề
nếp của SV cũng như sức khỏe của GV. Thời gian
tới cần bổ sung lượng GV GDQP&AN ít nhất 4
người, đòi hỏi phải có biện pháp linh hoạt mới có thể
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GDQP&AN
trong nhà trường cả về trước mắt và lâu dài.
2.2 Về giáo dục quốc phòng và an ninh
- Về chương trình, nội dung giáo dục: nhà trường
đang thực hiện giảng dạy theo chương trình được
quy định tại Thông tư số 31/2012/TT-BGDĐT
ngày 12/9/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc
ban hành Chương trình GDQP&AN trình độ đại
học, cao đẳng và văn bản hướng dẫn số
6353/BGDĐT-GDQP ngày 26/9/2012; Thông tư
số 40/2012/TT-BGDĐT ngày 19/11/2012 của Bộ
trưởng Bộ GDĐT về việc ban hành Quy định tổ
chức dạy, học và đánh giá kết quả học tập môn
học GDQP&AN, đồng thời đảm bảo yêu cầu đào
tạo theo niên chế tín chỉ, chuẩn đầu ra, đề cương
chi tiết môn học (theo CDIO/2016) đã được Hiệu
trưởng Trường ĐHAG phê duyệt.
Khảo sát ý kiến của CB, GV và SV về sự phù
hợp kết cấu nội dung, thời lượng của chương
trình GDQP&AN cho SV của Trường hiện nay,
bên cạnh đa số ý kiến đánh giá (% bình quân/3
học phần) về tính phù hợp vẫn còn một số lượng
nhất định (SV: 83; CB, GV: 01; chiếm tỉ lệ
10,33%) cho rằng, chưa hoặc ít phù hợp (lý do là
cần tập trung thời gian cho một số bài quan trọng
trong phần lý thuyết (HP:1,2) sao cho không bị
trùng lặp với các môn học lịch sử, pháp luật.
Riêng học phần quân sự (HP3) có một số ý kiến
nêu ra là: cần giảm thời gian ở một số nội dung
như: thuốc nổ; phòng chống vũ khí hủy diệt lớn;
chiến thuật và nếu để kết cấu thời gian, nội
dung ở các bài học như hiện tại thì sẽ phù hợp
hơn trong đào tạo chuyên ngành GDQP&AN)
(Bảng 3).
Bảng 3. Về sự phù hợp của nội dung, chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên
TT Mô tả học phần/Mức độ đánh giá
Kết quả đánh giá về sự phù hợp của nội
dung, chương trình
SL
CB, GV
(%)
SL SV (%)
I Học phần I: Đường lối quân sự của Đảng
1 Rất phù hợp 3 10,00 130 43,33
2 Phù hợp 27 90,00 145 48,33
3 Ít phù hợp 0 // 21 7,00
4 Không phù hợp 0 // 4 1,33
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
100
TT Mô tả học phần/Mức độ đánh giá
Kết quả đánh giá về sự phù hợp của nội
dung, chương trình
SL
CB, GV
(%)
SL SV (%)
II Học phần II: Công tác quốc phòng an ninh
1 Rất phù hợp 3 10,00 131 43,66
2 Phù hợp 27 90,00 137 45,66
3 Ít phù hợp 0 // 24 8,00
4 Không phù hợp 0 // 8 2,66
III
Học phần III: Quân sự chung và kĩ thuật bắn
súng tiểu liên AK (CKC)
1 Rất phù hợp 3 10,00 124 41,33
2 Phù hợp 26 86,66 150 50,00
3 Ít phù hợp 1 3,33 20 6,66
4 Không phù hợp 0 // 6 2,00
Gắn liền với nội dung, chương trình, thì việc
nghiên cứu giáo trình GDQP&AN và một số văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) liên quan
trực tiếp đến quá trình tổ chức thực hiện giảng
dạy môn học của CBQL, GV và SV có tầm quan
trọng, không thể thiếu để đảm bảo đáp ứng yêu
cầu tổ chức xây dựng kế hoạch giảng dạy (năm
học), kế hoạch bài giảng, nội dung quản lý, đánh
giá chất lượng, kết quả học tập của SV. Nội dung
này cũng được tiến hành khảo sát, kết quả cho
thấy đội ngũ CBGV và SV có sự quan tâm
nghiên cứu, vận dụng trong giảng – dạy, học tập
ở mức độ khá, tốt (Bảng 4).
Bảng 4. Mức độ nghiên cứu giáo trình, văn bản về giáo dục quốc phòng và an ninh
TT
CÁC VBQPPL VỀ
GDQP&AN
MỨC ĐỘ, KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ
CỦA CB, GV/SV (%)
Tốt Khá Trung bình Yếu
CB,
GV
SV
CB,
GV
SV
CB,
GV
SV
CB,
GV
SV
1 Nghị định số 116/2007/NĐ-CP
ngày 10/7/2007 về GDQP&AN
0 48,33 76,66 37,66 20
11,
66
3,33 2,33
2 Giáo trình GDQP&AN (tập 1, 2)
30 54,66 66,66 35 3,33
7,3
3
0 3
3 Luật GDQP&AN số
30/2013/QH13 ngày 19/6/2013
23,33 47,66 63,33 39,33 10
12,
33
3,33 0,66
4 Thông tư số 31, 40 và 18 về
Chương trình GDQP&AN và
quản lý chất lượng GDQP&AN
36,66 50 60 33,33 0 16 3,33 0,66
Tuy nhiên, việc nghiên cứu 4 loại VBQPPL quan
trọng về GDQP&AN để vận dụng thực hiện
trong quản lý, giảng dạy, học tập của SV và CB,
GV được tổng hợp qua ý kiến của SV đánh giá (ở
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
101
mức độ 4) chiếm 6,7% và ý kiến CB, GV tỉ lệ
10,0% cho kết quả nghiên cứu còn ở mức độ yếu
(nhất là nội dung Thông tư số 31, 40, 18; Luật
GDQP&AN và Nghị định 116/CP).
- Về phương pháp, hình thức GDQP&AN: về cơ
bản các PPDH đang được GV và SV sử dụng phù
hợp với mục tiêu và nội dung giáo dục. Trong đó,
với các nội dung giảng dạy lý thuyết, chủ yếu GV
đã sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại,
gợi mở vấn đề. Các nội dung liên quan đến kỹ
năng, kỹ xảo hành động như điều lệnh đội ngũ, sử
dụng vũ khí trang bị GV đã sử dụng các phương
pháp như giới thiệu hướng dẫn động tác, làm mẫu,
làm theo, luyện tập, hội thao Các nội dung liên
quan đến nghệ thuật quân sự như chiến thuật cá
nhân, chiến thuật cấp phân đội nhỏ ngoài giới thiệu
hướng dẫn, làm mẫu động tác, các GV còn sử dụng
các phương pháp khuyến khích tính tích cực nhận
thức của người học như PP tạo tình huống, phương
pháp cùng tham gia, nêu vấn đề gợi mở tư duy của
SV trong học tập (Bảng 5).
Bảng 5. Thực trạng sử dụng phương pháp của giảng viên Giáo dục Quốc phòng và An ninh
TT
HỆ THỐNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP GDQP, AN
MỨC ĐỘ PHÙ HỢP %
Rất phù
hợp
(1)
Phù hợp
(2)
Ít phù
hợp
(3)
Không
phù
hợp
(4)
1 Một số phương pháp giảng dạy lí thuyết
1.1 Phương pháp thuyết trình truyền thống 34,00 53,00 11,00 2,00
1.2 Phương pháp tái tạo, minh chứng lịch sử, thực
tiễn
42,66 47,33 6,66 3,33
1.3 Phương pháp đặt vấn đề, giải quyết vấn đề 43,66 47,33 5,33 3,66
1.4 Phương pháp xử lí tình huống 48,66 44,00 4,66 2,66
2 Một số phương pháp giảng dạy thực hành
2.1 Phương pháp kết hợp lí thuyết với thực hành 59,00 35,33 3,66 2,00
2.2 Phương pháp GV thực hiện theo các bước quy
định
47,66 44,33 6,33 1,66
2.3 Phương pháp SV thực hiện theo các bước quy
định (tự nghiên cứu, tập chậm từng động tác, tập
nhanh, tập tổng hợp và ghép các bước vào đội
hình...)
49,33 45,00 3,00 2,66
3 Một số phương pháp tiến hành kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của SV
3.1 Trắc nghiệm khách quan 50,00 39,66 7,00 3,33
3.2 Tự luận 34,00 54,33 7,33 4,33
3.3 Vấn đáp 39,33 47,66 8,66 4,33
3.4 Thực hành (SV báo cáo bài, bốc câu hỏi trả lời,
tự nghiên cứu)
48,33 39,33 9,00 3,33
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
102
Đánh giá các mức độ chung của tất cả các tiêu
chí (11) trong hệ thống các phương pháp (dạy lý
thuyết, thực hành và kiểm tra đánh giá kết quả
học tập) của GV được SV nhận xét khá cao ở
mức độ 1 (rất phù hợp) là 45,13%; mức độ 2
(phù hợp): 45,24%. Tuy nhiên, mức độ 3 (ít phù
hợp) và mức độ 4 (không phù hợp) SV đã có sự
đánh giá nhận xét ở tỉ lệ là 6,60% và 3,03%.
Tương ứng với phương pháp của người dạy, SV
cũng sử dụng các phương pháp, cách thức học
tập tương ứng như ghi chép lĩnh hội, tự học củng
cố, mở rộng đào sâu kiến thức, tự luyện tập thuần
thục động tác, tự kiểm tra đánh giá, tự điều
khiển, điều chỉnh trong quá trình đảm bảo yêu
cầu rèn luyện, học tập trên một số lĩnh vực cụ thể
đối với môn học GDQP&AN (Bảng 6).
Bảng 6. Thực trạng kết quả nhận thức chung về môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh
TT CÁC NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ
MỨC ĐỘ NHẬN XÉT %
Rất tốt
(1)
Tốt
(2)
Khá
(3)
Trung
bình
(4)
1 Nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng 50,66 42,00 5,33 2,00
2 Nắm được lí luận cơ bản của môn học 45,00 48,00 5,00 2,00
3 Nắm được kĩ năng về quân sự (kĩ thuật, chiến
thuật và khoa mục chung)
48,66 41,33 6,66 3,33
4 Nâng cao kỉ luật, trật tự nội vụ, tác phong 46,66 43,33 6,66 3,33
5 Tinh thần tham gia hoạt động thể thao, thể thao
quốc phòng
45,00 44,00 8,00 3,00
6 Tinh thần tham gia các hoạt động tập thể khác 44,00 43,33 10,66 2,00
7 Nhìn chung có tiến bộ về nhận thức (kiến thức
GDQP&AN) và tư thế tác phong người lính
43,00 45,66 8,00 3,33
8 Đảm bảo được số lượng SV (sĩ số) 35,66 53,33 9,66 1,33
Tuy vậy, chất lượng thực hiện phương pháp, hình
thức dạy học trong GDQP&AN còn có mặt hạn
chế. Việc hiểu biết và kỹ năng sử dụng phương
pháp giảng dạy của một số GV có mặt chưa tốt; có
phương pháp sử dụng chưa phù hợp với nội dung
và đối tượng người học. Quan sát các buổi lên lớp
chúng tôi thấy, trong giảng dạy lý thuyết, một số
GV còn nói quá nhanh, hoặc quá chậm, nội dung
thiếu lôgíc, mạch lạc, kết hợp sử dụng ngôn ngữ nói
với điệu bộ động tác và các phương tiện giảng dạy
chưa thuần thục. Trong các nội dung liên quan đến
kỹ thuật động tác có GV thực hiện chưa chuẩn xác,
thiếu thuần thục làm ảnh hưởng đến việc lĩnh hội
kiến thức của người học Trong các hoạt động
học tập, nhất là tự học, nhiều SV còn thụ động,
chưa chú trọng nghiên cứu tài liệu giáo trình trước
khi lên lớp, ít tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận
học tập, chưa tích cực luyện tập, rèn luyện làm chủ
vũ khí trang bị và thành thục các kỹ năng, kỹ xảo
hành động quân sự.
Ý kiến đánh giá mức độ sử dụng bình quân (Mức
độ 1 – 4) đối với các phương pháp dạy học tích
cực GDQP&AN ở Trường đang áp dụng hiện
nay: Nhận xét của CB, GV có 14,5% trả lời “Rất
thường xuyên”; 83,3% trả lời “Thường xuyên”
và có 2,2% “Chưa thường xuyên” và “Không sử
dụng”. Ý kiến của SV, có 44,4% trả lời “Rất
thường xuyên”; 45,1% trả lời “Thường xuyên” ;
có 8,0% “Chưa thường xuyên” và 2,5% “Không
sử dụng” đồng thời cũng có thể nghiên cứu kết
quả đánh giá (%) các mức độ sử dụng cụ thể trên
từng phương pháp giảng dạy, học tập của GV và
SV (Biểu đồ 3).
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
103
Biểu đồ 3. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh
Quá trình vận dụng các PPDH học tích cực cho
thấy đã có sự tác động tốt đến người học về kết
quả học tập ở cả 3 học phần GDQP&AN và nhận
thức chung của SV về tầm quan trọng của môn
học. Môn học GDQP&AN trực tiếp tác động đến
nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, nắm được
lý luận cơ bản, kĩ năng quân sự cần thiết; ý thức
trật tự nội vụ, tác phong, tinh thần đồng đội tập
thể; hoạt động thể thao quốc phòng gắn liền với
quá trình tự quản, tự rèn luyện trong học tập, sinh
hoạt trên thao trường, phòng học, ký túc xá,...
Tuy nhiên cũng có ý kiến của SV phản hồi một
số quan niệm cho rằng, môn học GDQP&AN
chưa phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay; SV
không thích học môn học GDQP&AN; môn học
GDQP&AN chưa tạo được hứng thú cho người
học (mức độ 1 – hoàn toàn không đồng ý) là:
15,22%; (mức độ 2 – không đồng ý) là: 22,55%.
Ý kiến đồng tình (mức độ 4 – đồng ý) là:
29,55%; (mức độ 5 – rất đồng ý) là: 16,77% và
(mức độ 3 – trung lập) là: 15,88% (Biểu đồ 4).
Biểu đồ 4. Ý kiến phản hổi về tính phù hợp môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh
2.3 Về kết quả giáo dục quốc phòng và an
ninh
Kết quả GDQP&AN cho SV trong nhà trường
hiện nay đạt được tương đối tốt, tỉ lệ xuất sắc
4,3% và khá - giỏi 70,7%, kết quả này hoàn
toàn phù hợp, sát với số liệu tổng kết các năm
học gần đây của nhà trường. Trước đó vào năm
2009 và 2011, Hội đồng GDQP&AN Trung
ương và Quân khu 9 (Bộ Quốc phòng) cũng đã
tiến hành kiểm tra kết quả GDQP&AN và nhận
thức kiến thức của SV Trường ĐHAG, nhà
trường được đánh giá công nhận (cả 2 lần) đều
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
104
đạt loại KHÁ và Bộ Tư lệnh Quân khu 9,
UBND tỉnh An Giang khen tặng Bằng khen về
công tác GDQP&AN (Bộ Tư lệnh Quân khu
Quân khu 9, Bộ Quốc phòng, 2009). Đồng thời
cũng từ kết quả điều tra tổng hợp chung (số
liệu cả 3 học phần trong năm học 2015 - 2016)
là cơ bản, tỉ lệ đạt loại khá, giỏi ở mức cao và
có so sánh giữa SV đại học với SV cao đẳng
cho thấy độ lệch nhau ở các tiêu chí đánh giá
kết quả học tập không đáng kể, cụ thể dưới đây
(Biểu đồ 5).
Biểu đồ 5. Tỉ lệ đạt loại khá, giỏi so sánh giữa sinh viên đại học với sinh viên cao đẳng
Ngoài kết quả chung về GDQP&AN, thì bên
cạnh hoạt động giáo dục chính khóa, trong điều
kiện của nhà trường quan tâm hỗ trợ và sự giúp
đỡ của các đơn vị quân đội, trong nhiều năm
qua nhà trường đã duy trì thường xuyên tổ
chức hoạt động thể thao quốc phòng (thi đấu
các môn ném lựu đạn, chạy vũ trang, bắn súng)
đều đạt kết quả tốt, nhất là thực hành kiểm tra
bắn đạn thật súng tiểu liên AK-47 cho SV các
khóa học (sau khi kết thúc HP3) tại trường bắn
quân sự (Trung đoàn 3, f330-QK9) với tỉ lệ SV
tham gia 5% - 10%/SV toàn khóa. Kết quả bắn
đạn thật 3 năm học gần đây (Trường ĐHAG,
2016) (Bảng 7).
Bảng 7. Kết quả bắn đạn thật của sinh viên trong 3 năm học gần đây
Kết quả
bắn đạn thật
Tổng số SV Giỏi Khá Đạt Không đạt
2014 188 33,0% 40,4% 26,6% 0%
2015 109 11,0% 40,4% 48,6% 0%
2016 203 52,7% 41,9% 5,4% 0%
Đánh giá nhận thức hiểu biết chung về môn
học GDQP&AN của SV, kết quả điều tra phản
ảnh: đối với SV, có 43,3% tự đánh giá Môn học
GDQP&AN có ý nghĩa quan trọng trong điều
kiện nước ta hiện nay; 41,0% giúp cho SV nâng
cao lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước;
50,7% SV được nâng cao nhận thức chính trị, tư
tưởng; 48,7% SV nắm được cơ bản kĩ năng về
quân sự (kĩ thuật, chiến thuật); 43,0% SV đánh
giá chung có tiến bộ về nhận thức (kiến thức
GDQP&AN) và tư thế tác phong người lính...
trong khi đó 16,7% SV cho rằng Môn học
GDQP&AN chưa phù hợp trong hoàn cảnh hiện
nay; 10,0% SV có ý kiến không thích học môn
học GDQP&AN và 4,4% kết quả học tập không
đạt yêu cầu. Đối với CBQL và GV, có 83,3% ý
kiến đánh giá về nhận thức tư tưởng, chính trị
được nâng cao; 80,0% ý kiến ở mức độ nắm
được lí luận cơ bản của môn học và kĩ năng về
quân sự (kĩ thuật, chiến thuật) của SV hiện nay
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
105
khá tốt. Tuy nhiên còn có 5,0% ý kiến cho rằng
kết quả nhận thức kiến thức GDQP&AN của
SV còn hạn chế. Những hạn chế được GV nhận
xét bởi một số nguyên nhân chủ yếu do: Mục
tiêu, yêu cầu, nội dung của chương trình
GDQP&AN đặt ra còn cao (13,3%); Thiếu cơ sở
vật chất, thiết bị, phòng học chuyên dụng, trang
phục kiểu dáng quân đội cho SV (50,0%);
Phương pháp giảng dạy của một số GV chưa phù
hợp (20,0%); Kiểm tra, đánh giá còn nhẹ nên
không kích thích được học tập (50,0%) và chưa
khơi dậy được tính chủ động, sáng tạo trong học
tập của SV (30,0%)...
Bên cạnh chất lượng nhận thức cũng như kết quả
phân tích số liệu cụ thể của GV, SV đối với môn
học GDQP&AN là cơ bản, đạt được mục tiêu,
yêu cầu chung của môn học. Tuy nhiên cũng còn
tồn tại những hạn chế nhất định (như đã nêu ở
trên). Để khắc phục vấn đề này, qua nghiên cứu ý
kiến nhận xét, đề xuất của CB, GV cho đánh giá
về tính cấp thiết, tính khả thi của mội số biện
pháp có tính định hướng, định lượng để tăng
cường hoàn thiện, từng bước nâng cao chất lượng
giảng dạy môn học GDQP&AN cho SV ở nhà
trường (Bảng 8).
Bảng 8. Ý kiến của cán bộ, giảng viên về một giải pháp quản lý, tồ chức nâng cao chất lượng Giáo dục Quốc
phòng và An ninh
TT
Biện pháp\ Kết quả
Tính cấp thiết % Tính khả thi %
Rất
cần
thiết
(1)
Cần
thiết
(2)
Ít
cần
thiết
(3)
Rất
khả
thi
(1)
Khả
Thi
(2)
Ít
khả
thi
(3)
1
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
công tác GDQP&AN đối với CB, đặc biệt là
CBQL trong Trường ĐHAG.
66,7 33,3 20,0 76,7 3,3
2
Đổi mới công tác quản lí nội dung chương
trình GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG.
20,0 80,0 13,3 83,4 3,3
3
Phát triển đội ngũ CBQL, GV GDQP&AN đủ
về số lượng, mạnh về chất lượng và hợp lý về
cơ cấu tổ chức bộ máy.
23,3 76,7 13,3 83,4 3,3
4
Thường xuyên hoàn thiện phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học GDQP&AN, kích
thích tính tích cực hoạt động nhận thức cũng
như hành động của SV đại học.
23,3 76,7 10,0 90,0
5
Tăng cường quản lí cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học và ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học GDQP&AN cho SV.
30,0 70,0 10,0 90,0
6
Hoàn thiện cơ chế quản lý GDQP&AN cho
SV Trường ĐHAG.
20,0 80,0 6,7 93,3
Như vậy, các ý kiến đánh giá nhận xét, đề
xuất chung các giải pháp (6) của CB-GV đã
chỉ ra tính cấp thiết, tính khả thi cao (Tính cấp
thiết, mức độ 1: 30,6%; mức độ 2: 69,4% và
Tính khả thi, mức độ 1: 12,2%; mức độ 2:
86,1% và mức độ 3: 1,7%), vừa có tính định
hướng trong trước mắt cũng như lâu dài có thể
thực hiện ngay trong điều kiện hiện nay. Nếu
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
106
nhà trường tổ chức thực hiện tốt các biện pháp
trên sẽ tạo ra động lực mới tác động trực tiếp
đến quá trình giáo dục cho SV và đảm bảo
nâng cao chất lượng giảng – dạy, kết quả học
tập môn học GDQP&AN trong nhà trường.
2.4 Về cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục
quốc phòng và an ninh
Được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu
nhà trường, sự hỗ trợ Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh nên
điều kiện cơ sở vật chất, vũ khí, thiết bị quân sự,
phòng học, phương tiện phục vụ GDQP&AN được
đầu tư, mua sắm trang bị, sửa chữa.kể cả việc
đầu tư kinh phí hàng năm mua sắm các phương
tiện, thiết bị, phần mềm về kỹ thuật quân sự để hỗ
trợ tích cực cho hoạt động dạy và học. Về thao
trường huấn luyện quân sự, nhà trường đã dành 1
phần diện tích đất khoảng 2.500 m2 xây dựng
tường, hào, ụ súng, nhà tập, khá khang trang, phù
hợp phục vụ huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật bộ
binh, tập bắn súng, từng người trong tiến công,
phòng ngự, 3 môn QS phối hợp và sân chạy vũ
trang, huấn luyện thể thao quốc phòng... đảm bảo
phục vụ cho lưu lượng từ 500 – 1.000 SV học tập
tập trung (HP-3) theo mô hình huấn luyện quân
sự...
Tuy nhiên, so với yêu cầu cơ sở vật chất bảo đảm
nâng cao chất lượng GDQP&AN được đồng bộ,
hoàn thiện hơn, thì hiện nay còn nhiều bất cập,
trong đó tài liệu bảo đảm cho SV tự học, tự
nghiên cứu chưa đáp ứng được 100% yêu cầu.
Cơ sở vật chất chậm đổi mới và thiếu đồng bộ,
chưa tương xứng với vị trí vai trò của môn học đã
xác định. Khu ký túc xá tập trung đảm bảo cho
SV học tập, sinh hoạt theo nếp sống quân sự
trong suốt thời kỳ học môn GDQP&AN (nhất là
trong học kì hè) chưa có, vũ khí, khí tài quân
dụng chưa được bảo đảm (không được trang bị
mới); những loại học cụ, chương trình phần mềm
mới có ứng dụng công nghệ thông tin còn thiếu,
phòng học chuyên dùng cho GDQP&AN chưa
được xây dựng, đặc biệt là công tác đảm bảo
trang phục kiểu dáng quân đội cho SV học
GDQP&AN nhiều năm qua chưa được cấp phát
theo quy định mới (Bảng 9).
Bảng 9. Đánh giá của cán bộ, giảng viên và sinh viên về thực trạng đảm bảo tài liệu, cơ sở vật chất, trang phục
quân sự.
Mức độ
bảo đảm
Đánh giá
của CB, GV %
Đánh giá
của SV %
Tốt 14,2% 35,6%
Khá 75.8% 46,0%
Trung bình 10,0% 14,0%
Yếu 0,00% 4,4%
Như vậy, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang
thiết bị đảm bảo cho GDQP&AN là một trong
những yếu tố làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng giáo dục và tự nó đã làm giảm vị thế của
môn học trong hệ thống các môn học khác trong
nhà trường, có 18,4% ý kiến của SV và 10,0%
CB, GV đánh giá (% bình quân trên các tiêu chí)
về đảm bảo cơ sở vật chất đạt được ở mức độ
trung bình và yếu). Vấn đề này cần được khắc
phục, điều chỉnh nhằm đảm bảo tối thiểu nhu cầu
về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy GDQP&AN
trong thời gian tới.
3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP
3.1 Kết luận
Từ kết quả điều tra, khảo sát đã làm rõ thực trạng
chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường
thời gian qua trên các mặt về tổ chức giáo dục; về
thực trạng các thành tố cấu thành của quá trình
giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục. Sự tác
động của GD trên tất cả các lĩnh vực trong
hoạt động GDQP&AN đã nâng cao nhận thức
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
107
toàn diện cho SV và các lực lượng có liên
quan đặc biệt về vai trò, ý nghĩa tầm quan
trọng của công tác GDQP&AN. Đồng thời,
CB, GV và SV hiểu biết hơn về âm mưu, thủ
đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch chống phá đối với cách mạng Việt Nam;
về yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trước
tình hình mới và vai trò trách nhiệm to lớn
của thế hệ trẻ SV đối với sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc.
Với những phân tích, đánh giá chung cả về mặt
định lượng và định tính cho thấy, trong thời gian
qua, chất lượng GDQP&AN là cơ bản thuận lợi,
bên cạnh những kết quả đạt được cũng còn tồn
tại một số mặt hạn chế bất cập nhất định cần
được khắc phục. Đồng thời qua nghiên cứu thực
trạng, tác giả rút ra một số nhận định để nâng cao
chất lượng GDQP&AN cho SV Trường ĐHAG,
cụ thể như sau:
Một là, đã có sự quan tâm chú trọng đúng mức
đối với việc không ngừng nâng cao nhận thức,
tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ CBQL,
GV, công chức, viên chức và SV toàn Trường về
vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác
GDQP&AN trước tình hình hiện nay.
Hai là, thường xuyên đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp giảng dạy tích cực, chủ động
sáng tạo (lấy người học làm trung tâm) đã đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đổi mới giáo dục
toàn diện.
Ba là, coi trọng việc củng cố và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng (khoa, phòng,
ban, trung tâm, BM), các lực lượng hỗ trợ khác
trong công tác GDQP&AN.
Bốn là, quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ
đạo của cấp trên, vận dụng, tổ chức làm tốt công
tác bảo đảm về mọi mặt (Mục tiêu, nội dung,
chương trình GDQP&AN, tổ chức lực lượng GV,
cơ sở vật chất, hậu cần kĩ thuật, thao trường bãi
tập...) trong quá trình GDQP&AN cho SV.
3.2 Khuyến nghị một số giải pháp
Để nâng cao chất lượng GDQP&AN cho SV
trong thời gian tới, cần quán triệt các yêu cầu có
tính nguyên tắc, đó là: Thực hiện đúng đường lối,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
GDQP&AN; Bám sát yêu cầu sự nghiệp đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan
điểm Đại hội XII/2016 của Đảng nhằm phấn đấu
trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.
116, 117); Quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ
của cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, nền an ninh nhân dân và chiến tranh nhân
dân; Đảm bảo vững chắc kết quả giáo dục, đáp
ứng yêu cầu xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực và
yêu cầu bảo đảm quốc phòng và an ninh trên địa
bàn. Trên cơ sở quán triệt các yêu cầu có tính
nguyên tắc cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
đảm bảo nâng cao chất lượng GDQP&AN như
sau:
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ
chức, các lực lượng sư phạm chuyên trách,
đội ngũ CB, công chức, viên chức trong toàn
Trường với công tác GDQP&AN cho SV.
2. Xây dựng củng cố chất lượng, số lượng đội
ngũ GV GDQP&AN vừa hồng vừa chuyên và
hợp lý về cơ cấu tổ chức bộ máy; đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ GDQP&AN trước tình hình
mới.
3. Thường xuyên nâng cao vai trò trách nhiệm
cá nhân trong việc xây dựng chương trình chi
tiết môn học, biên soạn giáo án, kế hoạch bài
giảng đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với quá
trình giáo dục; tích cực đổi mới phương pháp
trong giảng dạy và sử dụng có hiệu quả các
phương pháp phù hợp với nội dung lý luận và
thực hành của môn học; nắm vững đặc điểm
và chất lượng từng đối tượng người học,
thông tin phản hồi từ SV để rút kinh nghiệm,
kịp thời điều chỉnh, bổ sung nội dung, phương
pháp giáo dục đạt hiệu quả.
4. Tham mưu kịp thời, đề xuất cấp trên, cơ quan
thẩm quyền về phương hướng đổi mới
chương trình, nội dung và đa dạng hóa các
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
108
hình thức, phương pháp giảng – dạy, quản lý
chất lượng GDQP&AN.
5. Tiếp tục phát huy tính tích cực và hiệu quả
thực chất của môn học GDQP&AN theo niên
chế tín chỉ. Đồng thời triển khai vận dụng
đảm bảo thực hiệt tốt quy định về chuẩn đầu
ra, đề cương chi tiết môn học (theo
CDIO/2016) đã được Hiệu trưởng phê duyệt.
6. Tích cực xây dựng, ứng dụng, khai thác khả
năng của các phương tiện khoa học – công
nghệ ứng dụng trong dạy học GDQP&AN.
7. Phát huy tốt sự giúp đỡ của các tổ chức, các
lực lượng vũ trang nhân dân, chính quyền địa
phương đối với công tác giáo dục.
Qua tổng hợp kết quả nghiên cứu, đánh giá khảo
sát, bảng hỏi (trưng cầu ý kiến) CB, GV và SV
đã chứng minh, việc áp dụng các giải pháp được
đề xuất sẽ đáp ứng yêu cầu đảm bảo nâng cao
chất lượng GDQP&AN cho SV trong nhà trường
hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2007). Giáo trình Giáo
dục Quốc phòng - An ninh (dùng cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng - tập1&2).
Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Bộ giáo dục và Đào tạo. (2010). Chỉ thị số: 12-
CT/TƯ, ngày 03/5/2007 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục
quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Các
văn bản hiện hành về Giáo dục Quốc phòng -
An ninh. Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân.
Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2012). Thông tư số:
31/2012/TT-BGDĐT, ngày 12/9/2012 về
Chương trình Giáo dục Quốc phòng - An
ninh, Bộ GDĐT, Hà Nội. Truy cập từ:
ban/vanban/Pages/default.aspx?Page=10
Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2012). Thông tư số:
40/2012/TT-BGDĐT, ngày 19/11/2012 về
Quản lý chất lượng Giáo dục Quốc phòng -
An ninh, Bộ GDĐT, Hà Nội. Truy cập từ:
ban/vanban/Pages/default.aspx?Page=10
Bộ Giáo dục & Đào tạo. (2011). Trường Đại học
An Giang là đơn vị chủ quản tồ chức giảng
dạy môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh.
Văn bản số 7567/BGDĐT-GDQP của Bộ
GDĐT, Hà Nội.
Bộ tư lệnh Quân khu IX-BQP. (2009). Báo cáo
nhận xét kết quả thanh tra thực hiện Nghị
định của Chính phủ, Số 119/2007/ NĐ – CP
ngày 11/5/2004 về công tác quốc phòng của
Trường Đại học An Giang. Đoàn Thanh tra –
Bộ tư lệnh QK9.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
(2013). Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh
số: 30/2013/QH13, Hà Nội. Truy cập từ:
=28731
Trường Đại học An Giang. (2016). Báo cáo tổng
kết năm học 2015-2016”. Bộ môn GDQP -
Trường ĐHAG.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 95 – 109
109
PHỤ LỤC
Giảng viên hướng dẫn học chiến thuật quân sự cho sinh viên - ĐH15 (Thao trường quân sự - Trường Đại học An
Giang – 6/2016)
Sinh viên ĐH15 thực hành bắn đạn thật, súng AK47 (Trường bắn Trung đoàn 3-QK9 – 6/2016)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_tran_khanh_mai_6047_2034793.pdf