1.4.5. Phối hợp với chính quyền địa phương, công an khu vực hay dân phòng trong
công tác đảm bảo an toàn cho trẻ
Ngoài khu vực trường quản lí, nhà trường có thể tìm sự hỗ trợ từ các lực lượng tại địa
phương để đảm bảo an toàn giao thông trước cổng trường, giải quyết tình trạng xâm lấn
vỉa hè, lòng đường bán hàng rong gây mất an toàn cho trẻ.
3. KẾT LUẬN
Việc BĐAT và PCTNTT cho trẻ mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chăm
sóc sức khỏe và an toàn tính mạng cho trẻ. Nó tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh
cho mọi trẻ em, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây tai
nạn cũng như giảm mức độ nghiêm trọng của các thương tổn khi xảy ra tai nạn thương
tích xảy ra. Đồng thời tạo được lòng tin đối với phụ huynh khi giao trẻ cho các cơ sở
giáo dục mầm non và sự tin tưởng của xã hội vào hệ thống giáo dục. Chính vì vậy cần
có sự tham gia hợp tác tích cực của gia đình và cộng đồng cùng với nhà trường để nâng
cao hơn nữa hiệu quả của công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát
triển tốt nhất.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở một số trường Mầm non trên địa bàn Thừa Thiên Huế - Tạ Thị Kim Nhung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(41)/2017: tr. 91-100
Ngày nhận bài: 06/12/2016; Hoàn thành phản biện: 12/12/2016; Ngày nhận đăng: 14/12/2016
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN
THƯƠNG TÍCH CHO TRẺ Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON
TRÊN ĐỊA BÀN THỪA THIÊN HUẾ
TẠ THỊ KIM NHUNG
Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Email: tathikimnhung@gmail.com
Tóm tắt: Chúng tôi đã khảo sát 6 trường mầm non trên địa bàn Thừa Thiên -
Huế để tìm hiểu về thực trạng đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn
thương tích cho trẻ với các nội dung chủ yếu như: Nhận thức của giáo viên,
nhân viên và cán bộ quản lí về đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn
thương tích cho trẻ; thực trạng xây dựng môi trường an toàn và biện pháp
thực hành an toàn của giáo viên, cán bộ và nhân viên trong nhà trường. Từ
đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn và phòng
chống tai nạn thương tích cho trẻ.
Từ khóa: An toàn, đảm bảo an toàn, tai nạn thương tích, trẻ mầm non
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo đảm an toàn (BĐAT) và phòng chống tai nạn thương tích (PCTNTT) cho trẻ đang
là một vấn đề cấp bách hiện nay. Mỗi giờ trôi qua, trên thế giới có hơn 100 trẻ em bị
thiệt mạng do tai nạn thương tích. Ở Việt Nam, mỗi năm tai nạn thương tích đã cướp đi
sinh mạng của hơn 7.300 trẻ em [3]. Thực trạng đáng báo động này đang là mối quan
tâm lo lắng của toàn xã hội. Trẻ mầm non rất thích khám phá thế giới xung quanh
nhưng nhận thức về các nguy cơ không an toàn còn hạn chế nên dễ bị tai nạn thương
tích, ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và tính mạng. Trường mầm non có chức năng
chăm sóc, giáo dục và phòng bệnh cho trẻ. Trong đó, việc đảm bảo an toàn phòng tránh
các tai nạn thương tích có ý nghĩa rất quan trọng. Nó vừa bảo vệ sức khỏe, tính mạng và
tinh thần cho trẻ; vừa tạo lòng tin cho phụ huynh và xã hội khi gửi trẻ đến các cơ sở
giáo dục mầm non. Để tìm hiểu thêm về việc đảm bảo an toàn và phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu vấn đề này tại 6 trường mầm non
bao gồm: Phú Hội (thành phố Huế), Sơn Ca (thị xã Hương Thủy), Hoa Đỗ Quyên và
Hương Lưu (huyện Nam Đông), Phú Hậu (Phú Vang) và Kim Thành (Quảng Điền).
2. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN THƯƠNG
TÍCH CHO TRẺ
2.1. Nhận thức của giáo viên, các nhà quản lí và nhân viên về an toàn và phòng
tránh tai nạn thương tích cho trẻ
Chúng tôi đã khảo sát 123 giáo viên, cán bộ quản lí và nhân viên của 6 trường về tầm
quan trọng của việc đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ. Kết
quả cho thấy 99,4% giáo viên cho là rất quan trọng và quan trọng, chỉ có 1 giáo viên
cho là bình thường. Như vậy, nhận thức của phần lớn cán bộ, giáo viên và nhân viên về
TẠ THỊ KIM NHUNG
92
đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ rất đúng đắn, điều này tạo
sự thuận lợi, thống nhất từ chỉ đạo tới mọi hoạt động thực hành về an toàn cho trẻ trong
toàn trường. Khi trẻ được đảm bảo an toàn thì nhà trường mới thực hiện được các hoạt
động giáo dục khác.
2.2. Thực trạng xây dựng môi trường an toàn cho trẻ và tai nạn thương tích
- Về vấn đề xây dựng môi trường an toàn cho trẻ
Môi trường không đảm bảo an toàn là một trong những nguyên nhân gây tai nạn thương
tích hàng đầu cho trẻ em. Chính vì vậy công tác bảo đảm an toàn cho trẻ phải được bắt
đầu ngay từ khâu xây dựng môi trường sinh hoạt đạt các tiêu chí an toàn. Nơi trẻ vui
chơi, học tập, sinh hoạt hàng ngày phải đảm bảo không tiềm ẩn những yếu tố nguy cơ
gây tai nạn thương tích cho trẻ, dù là nhỏ nhất. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát các tiêu
chí đảm bảo an toàn trong thiết kế, xây dựng, về trang thiết bị, về các phòng chức năng,
khu vực sân vườn - vui chơi cho trẻ
Kết quả điều tra cho thấy, trong công tác xây dựng môi trường an toàn cho trẻ nhìn
chung đã đạt yêu cầu ở mức khá tốt và tốt trong hầu hết các chỉ tiêu khảo sát. Tuy nhiên
còn một số vấn đề vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn cho trẻ như: một số trường
chưa hoàn thiện tường bao quanh khuôn viên, chưa đảm bảo lối thoát hiểm dễ dàng khi
có sự cố xảy ra, nhà vệ sinh còn tách xa, biệt lập với phòng nhóm trẻ, nhà bếp chưa tách
biệt với phòng nhóm trẻ, chưa đảm bảo yêu cầu thiết kế một chiều.
Bên cạnh đó, có một số chỉ tiêu trong thiết kế xây dựng trường không đạt do điều kiện
lịch sử mà nhà trường khó có thể khắc phục được. Các trường ở thành phố như mầm
non Phú Hội rất khó đáp ứng yêu cầu vị trí của trường phải ở nơi yên tĩnh. Bên cạnh đó,
do sự phát triển chung của thành phố, đường sá mở rộng đã lấy đi một phần quỹ đất của
trường nên mặt bằng sân vườn, khu vui chơi không đáp ứng được yêu cầu.
- Về thực trạng tai nạn thương tích
Kết quả điều tra cho thấy mức độ xảy ra một số tai nạn ở trường mầm non không nhiều;
chủ yếu tập trung vào các tai nạn phổ biến như dị vật đường ăn, đường thở; chấn thương
phần mềm, chảy máu. Phổ biến nhất là các cháu hay cào cấu và cắn nhau dẫn đến trầy
xước da, chảy máu ở mức nhẹ, chảy máu ít. Các giáo viên cũng cho biết trẻ hay bị tai
nạn ở nhà và khi đến lớp vẫn còn dấu hiệu chấn thương như sưng u đầu, bầm tím và
nặng hơn có thể bị bỏng ống bô, nước sôi
Bảng 1. Nguyên nhân gây các tai nạn ở trẻ
TT Các nguyên nhân Điểmtrung bình Độ lệch chuẩn
1 Do sự sơ ý của người lớn 1,59 0,96
2 Do cơ sở vật chất không đảm bảo an toàn 1,50 0,95
3 Do trẻ hiếu động và nhận thức còn kém 2,73 1,36
4 Do số lượng trẻ quá đông 2,46 1,43
5
Do nhận thức và kĩ năng thực hành an toàn
của giáo viên còn hạn chế
1,37 0,80
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN... 93
Chúng tôi đã đưa ra 5 nguyên nhân cơ bản gây tai nạn thương tích cho trẻ ở để khảo sát
các giáo viên, kết quả thể hiện ở bảng 1.
Trong 5 nguyên nhân cơ bản trên, giáo viên cho rằng do đặc điểm nhận thức của trẻ còn
hạn chế có vai trò quan trọng trong vấn đề xảy ra tai nạn (điểm trung bình cao nhất).
Bên cạnh đó, số lượng trẻ đông cũng là nguyên nhân có điểm trung bình cao thứ hai.
Như vậy với đặc điểm tâm lí thích khám phá thế giới xung quanh nhưng chưa nhận thức
đầy đủ về các nguy cơ mất an toàn, trẻ nhỏ thường tự đưa mình vào các tình huống
nguy hiểm và dễ bị tai nạn dẫn đến thương tích. Ví dụ như leo lên cao để lấy đồ chơi,
vật dụng yêu thích; dùng vật nhỏ đâm vào các lỗ có trên tường, hay cầm các vật sắc
nhọn chạy nhảy, xô đẩy cào cấu lẫn nhau Những nguyên nhân còn lại đều có điểm
trung bình tương đương nhau và thấp dưới 2. Điều này có thể giải thích là ở môi trường
nhà trường được xây dựng theo các tiêu chuẩn phù hợp, khá an toàn dành cho trẻ; với
các giáo viên và cán bộ được đào tạo đạt chuẩn nên nhóm nguyên nhân từ phía người
chăm sóc trẻ không phải là cơ bản. Tuy nhiên, với số lượng trẻ đông, khối lượng công
việc khá nhiều, chỉ một chút không để ý của giáo viên đến trẻ cũng có thể dẫn đến xảy
ra tai nạn thương tích. Ví dụ như hai trẻ ngồi cạnh nhau, 1 trẻ có thể cắn bạn chỉ trong
tích tắc khi cô quay mặt đi. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải luôn luôn theo dõi sát
sao mọi hoạt động của trẻ để hạn chế tối đa tai nạn xảy ra.
Các hoạt động ở trường mầm non từ sáng đến chiều rất đa dạng, với không gian hoạt
động mở rộng từ trong phòng nhóm trẻ tới sân vườn, khu vui chơi, vườn rau... Do vậy
việc quản lí theo dõi trẻ, đề phòng nguy cơ tai nạn thương tích xảy ra khá khó khăn.
Chúng tôi đã tìm hiểu về các thời điểm dễ xảy ra tai nạn cho trẻ với các mức độ: 0 =
không có; 1= rất hiếm; 2= khá thường xuyên; 3= thường xuyên; 4= rất thường xuyên.
Các thời điểm khảo sát là: 1. Giờ đón trẻ, trả trẻ; 2. Giờ chơi ngoài trời; 3. Giờ chơi
trong lớp; 4. Giờ học; 5. Giờ ăn; 6. Giờ ngủ; 7. Vệ sinh cá nhân
Bảng 2. Thời điểm xảy ra tai nạn
Thời
điểm
Các mức độ
0 1 2 3 4
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
1 66 53,7 50 40,7 6 4,9 1 0,8 0 0
2 13 10,6 52 42,3 35 28,5 16 13,0 7 5,7
3 29 23,6 69 56,1 17 13,8 6 4,9 2 1,6
4 83 67,5 36 29,3 4 3,3 0 0 0 0
5 73 59,3 42 34,1 5 4,1 2 1,6 1 0,8
6 67 54,5 50 40,7 5 4,1 1 0,8 0 0
7 67 54,5 51 41,5 4 3,3 0 0 1 0,8
Kết quả bảng trên cho thấy thời điểm dễ xảy ra tai nạn là các giờ chơi ngoài trời, chơi
trong lớp vì trong các thời điểm này các cháu sinh hoạt tự do hơn, mức độ hoạt động
nhiều hơn (chủ yếu chơi trò chơi vận động, vận động vui chơi tự do) trong môi trường
rộng hơn (ngoài sân, vườn trường trong giờ hoạt động ngoài trời) nên dễ xảy ra tai nạn
TẠ THỊ KIM NHUNG
94
hơn. Do vậy, cần quản lí, theo dõi trẻ sát sao hơn trong những thời điểm này để phòng
tránh tai nạn cho trẻ.
1.3. Công tác thực hành an toàn
1.3.1. Biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát cán bộ quản lí và giáo viên của các trường về công tác
tổ chức đảm bảo an toàn cho trẻ tại trường. Kết quả trong bảng 3 và 4 cho thấy, nhìn
chung việc tổ chức đảm bảo an toàn tại trường học là khá tốt, điểm trung bình đều đạt
trên 3 (trong mức đánh giá thấp nhất là 1, cao nhất là 5).
Bảng 3. Các biện pháp quản lí đảm bảo an toàn cho trẻ
TT Biện pháp ĐTB ĐLC
1 Có ban chỉ đạo công tác y tế trường học 3,87 0,34
2 Có cán bộ y tế chuyên trách hoặc cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm
công tác y tế trường học
3,87 0,34
3 Các thành viên trong nhà trường được cung cấp những kiến thức về
yếu tố nguy cơ và cách phòng, chống tai nạn, thương tích
3,87 0,34
4 Có kế hoạch xây dựng trường học an toàn 3,94 0,25
5 Có các quy định về việc phát hiện và xử lý khi xảy ra tai nạn
thương tích
3,69 0,60
6 Có lồng ghép nội dung phòng, chống tai nạn thương tích vào
chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ
3,81 0,54
7 Có các khẩu hiệu, tranh, áp phích, tài liệu về phòng chống tai nạn
thương tích
3,25 0,58
8 Có tủ thuốc và các dụng cụ sơ cứu ban đầu 3,94 0,25
9 Thường xuyên kiểm tra phát hiện và khắc phục các yếu tố có nguy
cơ thương tích
3,81 0,40
10 Có hồ sơ, sổ sách ghi chép, giám sát lý do, cách phòng chống, xử lý
khi tai nạn thương tích xảy ra
3,56 0,51
11 Không có hàng quà, bánh bán trong trường 3,62 0,72
12 Đón trả trẻ đúng giờ qui định 3,44 1,03
Theo như quan sát của chúng tôi tại một số trường, có một số vấn đề gia tăng nguy cơ
gây mất an toàn cho trẻ và phụ huynh mà nhà trường rất khó can thiệp. Đó là tình trạng
bán hàng rong trước cổng trường với đủ mọi thể loại từ thức ăn cho đến đồ chơi cho trẻ
với chất lượng không đảm bảo. Đồng thời tình trạng này cũng gây mất an toàn giao
thông vào những giờ đón và trả trẻ, thời điểm này, có mật độ xe cộ cao, vỉa hè và lòng
đường lại rất chật hẹp. Để giải quyết vấn đề này, nhà trường không chỉ phải tích cực
tuyên truyền nâng cao nhận thức của phụ huynh về nguy cơ mất an toàn của thực phẩm
không rõ nguồn gốc và các loại đồ chơi nguy hiểm mà phải cần sự hỗ trợ của chính
quyền địa phương, công an khu vực trong việc trả lại sự thông thoáng cho cổng trường.
Giáo viên trực tiếp chăm sóc trẻ đã thực hiện khá tốt các biện pháp bảo đảm an toàn cho
trẻ như trả trẻ đúng qui định tránh thất lạc, thường xuyên theo dõi bao quát trẻ tại trường
đồng thời lồng ghép các nội dung giáo dục phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ; tích
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN... 95
cực trao đổi với phụ huynh về phòng tránh tai nạn cho trẻ khi ở nhà hay ra cộng đồng.
Nhìn kết quả ở bảng trên chúng tôi cũng nhận thấy ở tiêu chí 2 và 3 có điểm trung bình
thấp hơn những tiêu chí còn lại, điều này cho thấy hai biện pháp quan trọng vẫn chưa
được giáo viên quan tâm so với các biện pháp còn lại. Trò chuyện với một số giáo viên
chúng tôi được họ chia sẻ là: khi sự cố nghiêm trọng xảy ra, họ thường hay mất bình tĩnh,
không xử lí đúng yêu cầu nên cần được hỗ trợ từ những giáo viên của các nhóm trẻ khác.
Bên cạnh đó, vấn đề cần phải nhớ số điện thoại cấp cứu hay trạm y tế hay bác sĩ nhi khoa
phòng trường hợp khẩn cấp phải gọi thì hầu như các cô không để ý, vì ở trên trường có
lưu nên ở lớp các cô không biết. Trong khi đó, cô giáo là người gần gũi nhất, trực tiếp bên
cạnh trẻ nên khi tai nạn xảy ra, giáo viên là người phải xác định được có nên hay không
nên gọi điện ngay lập tức cho cấp cứu. Nếu không có hoặc không nhớ được số điện thoại
khẩn cấp có thể làm chậm cơ hội trẻ được chăm sóc bởi những người có chuyên môn và
thậm chí nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Bảng 4. Đánh giá của giáo viên về các biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ
TT Biện pháp ĐTB ĐLC
1 Cô giáo thường xuyên theo dõi, bao quát trẻ mọi lúc mọi nơi 3,85 0,43
2 Giáo viên được tập huấn kiến thức và kĩ năng về phòng và xử trí
ban đầu một số tai nạn trẻ thường gặp
3,06 0,95
3 Khi trẻ bị tai nạn, giáo viên sơ cứu cho trẻ, có thể đưa trẻ đến trạm
y tế gần nhất hoặc gọi cấp cứu đồng thời báo cho cha mẹ trẻ
3,44 0,90
4 Lồng ghép nội dung giáo dục an toàn cho trẻ trong chương trình 3,71 0,58
5 Giáo viên phối hợp với phụ huynh: giáo dục an toàn cho trẻ tại
nhà và thực hiện các biện pháp an tòan khi cho trẻ đến trường,
hoặc đón trẻ từ trường về nhà.
3,70 0,56
6 Có số điện thoại cơ quan y tế nơi gần nhất hoặc bác sĩ nhi khoa 3,56 0,70
7 Thực hiện đón trả trẻ đúng qui định 3,93 0,29
8 Đảm bảo các quy định về an toàn và vệ sinh môi trường. 3,88 0,35
9 Nhà trường và phụ huynh thường xuyên trao đổi về việc phòng
tránh tai nạn cho trẻ
3,64 0,53
1.3.2. Về thực hành sơ cứu khi có tai nạn
Khi xảy ra tai nạn việc sơ cứu ban đầu rất quan trọng, giúp cho tình trạng chấn thương
không bị nặng thêm, có thể hạn chế được những hậu quả của tai nạn, thậm chí cứu được
tính mạng cho trẻ. Chúng tôi cũng tìm hiểu thêm về khả năng thực hành sơ cứu cho trẻ
khi có tai nạn xảy ra, đa số giáo viên (90,2%) cho rằng trẻ luôn luôn được sơ cứu còn
9,8% giáo viên chỉ thỉnh thoảng sơ cứu đối với những tai nạn từ rất nhẹ đến trung bình.
Người trực tiếp sơ cứu cho trẻ khi có tai nạn thường là cán bộ y tế và giáo viên. Tuy
nhiên giáo viên thường chỉ sơ cứu những tai nạn đơn giản ở mức nhẹ, còn những tai nạn
nghiêm trọng họ không đủ tự tin để thực hiện, mặc dù họ tự đánh giá khả năng sơ cứu
của mình đa số ở mức tốt và khá. Đây là một mâu thuẫn trong thực hành đảm bảo an
toàn cho trẻ, các giáo viên dù được tập huấn khá thường xuyên về các biện pháp đảm
TẠ THỊ KIM NHUNG
96
bảo an toàn cho trẻ nhưng chủ yếu về mặt lí thuyết, các lớp tập huấn do nhà trường tổ
chức chưa chú trọng đến các kĩ năng thực hành và đi vào các tình huống cụ thể nên giáo
viên thường không tự tin để thực hiện sơ cứu.
1.4. Biện pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn và phòng tránh tai nạn thương
tích cho trẻ
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng và chương trình chăm sóc trẻ, chúng tôi đã đề xuất
một số biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả việc đảm bảo an toàn và phòng tránh tai
nạn cho trẻ, bao gồm:
1.4.1. Nâng cao nhận thức của giáo viên về phòng tránh tai nạn cũng như xử lí các
tình huống bất thường xảy ra.
Để thực hiện được biện pháp này cần có sự tham gia phối hợp giữa các cơ quan quản lí
giáo dục với sở Y tế, sở lao động thương binh - xã hội, cơ quan phòng chống thiên tai
để tổ chức các lớp tập huấn định kì cho giáo viên (ít nhất 2 năm một lần). Trong chương
trình tập huấn cần nhấn mạnh đến việc rèn luyện các kĩ năng xử lí khi có tình huống
nguy cấp xảy ra như cháy nổ, lũ lụt, sạt lở đất, ngộ độc tập thể... Đặc biệt tập huấn kĩ
năng sơ cứu cho giáo viên, nhất là những sơ cứu quan trọng để cứu tính mạng trẻ như
hồi sức ngưng tim - ngưng thở, dị vật đường thở, đường ăn, chảy máu, đuối nước
Việc tổ chức tập huấn thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay
khi biến đổi khí hậu đang làm cho tình hình thiên tai diễn biến ngày càng phức tạp.
Thêm vào đó, Thừa Thiên – Huế là một trong những tỉnh phải hứng chịu nhiều thiên tai
nhất cả nước. Khi có sự cố, thiên tai xảy ra, trẻ mầm non là đối tượng dễ bị tổn thương
nhất, do trẻ còn quá nhỏ, khả năng phòng vệ không có hoặc còn rất yếu.
Bên cạnh đó, trong sinh hoạt, chăm sóc trẻ hàng ngày giáo viên phải luôn nhận thức rõ
vai trò quan trọng của bản thân trong việc đảm bảo an toàn cho trẻ. Họ phải luôn theo
dõi sát sao và ngăn ngừa những nguy cơ có thể xảy ra tai nạn cho trẻ đồng thời phải
thường xuyên thực hành an toàn, trở thành hình mẫu cho trẻ học tập noi theo.
1.4.2. Hoàn thiện các cơ sở vật chất chưa đảm bảo an toàn theo qui định
Về cơ sở vật chất, một số trường vẫn còn sử dụng các phòng học cũ, cải tạo lại nên phải
được hoàn thiện để đảm bảo các qui định về xây dựng trường học an toàn như: Khuôn
viên trường phải có hàng rào chắc chắn, ngăn cách với khu vực mất an toàn xung
quanh; Phòng sinh hoạt chung phải đảm bảo lối thoát hiểm dễ dàng khi cần thiết; Trong
thiết kế và xây dựng trường phải hướng tới việc xây các phòng chức năng đầy đủ;
Phòng ngủ, phòng ăn riêng tạo thuận lợi cho giáo viên và trẻ trong sinh hoạt; Nhà vệ
sinh đảm bảo vệ sinh, xây dựng khép kín để trẻ dễ dàng sử dụng và giáo viên dễ theo
dõi trẻ. Đặc biệt khu vực nhà bếp phải thiết kế theo hệ thống một chiều, có diện tích đủ
lớn và tách biệt khu phòng các nhóm trẻ để đảm bảo an toàn. Trang thiết bị đồ dùng cần
chú ý kích thước phù hợp với trẻ và chất liệu an toàn cho trẻ.
Trẻ nhỏ đang trong giai đoạn quan sát, học tập, thực hành ứng xử với môi trường xung
quanh, các hành vi an toàn đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện. Nếu trẻ được
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN... 97
sống trong môi trường an toàn và được khuyến khích tham gia vào việc xây dựng môi
trường an toàn trong trường học cũng sẽ nâng cao kiến thức và kĩ năng sống an toàn,
đồng thời tạo cho trẻ có trách nhiệm tạo dựng môi trường sống an toàn cho bản thân.
1.4.3. Lồng ghép giáo dục các kiến thức, kĩ năng về an toàn và phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ trong các hoạt động chăm sóc và giáo dục tại trường
Theo kết quả phân tích ở phần thực trạng, nhận thức về các mối nguy hiểm tiềm tàng
còn hạn chế ở trẻ là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tai nạn và cũng là khó
khăn lớn nhất đối với giáo viên trong việc đảm bảo an toàn cho trẻ. Chính vì vậy việc
nâng cao nhận thức cho trẻ về các nguy cơ tai nạn, hậu quả của chúng cũng như rèn cho
trẻ các kĩ năng để trẻ tự bảo vệ bản thân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu trẻ em
được trang bị kiến thức cơ bản ban đầu để nhận biết những yếu tố nguy cơ gây tai nạn
thương tích và kĩ năng ứng phó với các nguy cơ đó sẽ rất có ích cho việc nâng cao kĩ
năng sống cho trẻ trong suốt cuộc đời. [2]
Quá trình giáo dục an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ được tiến hành
theo các bước sau:
- Dựa trên chương trình giáo dục mầm non đổi mới [1], xác định nội dung nội dung
giáo dục trẻ trong các chủ đề
Chủ đề Nội dung giáo dục
Trường mầm
non
- Sử dụng các đồ chơi đúng cách, an toàn
- Chơi an toàn tại các khu vực
- Không đi ra khỏi khu vực trường nếu như không có cô giáo hay người thân
- Thực hiện một số qui định ở trường, nơi công cộng về an toàn
Bản thân - Biết nói tên của mình, biết gọi người giúp đỡ khi đi lạc hay gặp nguy hiểm
- Nhớ tên, số điện thoại của bố, mẹ, địa chỉ nhà hoặc cơ quan bố mẹ công tác
- Không chơi các đồ chơi nguy hiểm gây thương tích cho các bộ phận trên cơ
thể như mắt, tai, mũi, tay, chân
- Không ăn những thức ăn có thể gây ngộ độc.
- Ăn uống đúng cách để không bị hóc sặc.
- Biết tự sơ cứu khi bị các tai nạn như bỏng, chảy máu, trật khớp.
- Không tự ý uống thuốc
Gia đình - Không nói chuyện, nhận quà, ở một mình hay đi theo người lạ. Nhận biết
những hành động nguy hiểm của người khác
- Không sờ những đồ vật nguy hiểm như bàn là, phích nước, dao, nồi vừa
mới nấu xong
- Không tự ý sử dụng các dụng cụ, thiết bị trong nhà bếp như bếp ga, lò vi
sóng, kéo, dao, đồ sứ, thủy tinh. nếu như chưa được hướng dẫn và không
có người lớn bên cạnh
- Không tự ý mở nước, nghịch nước trong nhà bếp, nhà tắm
- Biết các an toàn trong sử dụng điện
- Biết tìm cách thoát ra khỏi nhà (phòng) nếu như có sự cố cháy nổ
Nghề nghiệp - Biết gọi các số điện thoại khẩn cấp cho công an, cứu hỏa, bệnh viện để nhờ
sự trợ giúp khi có sự cố
TẠ THỊ KIM NHUNG
98
- Biết tìm sự giúp đỡ của công an khi lạc đường hay gặp nguy hiểm
Thực vật –
động vật
- Biết tránh xa một số động vật gây nguy hiểm.
- Chăm sóc động vật nuôi an toàn
- Biết cách xử lí khi bị động vật tấn công
- Không leo trèo hái hoa, bẻ cành cây
- Không đứng dưới bóng cây khi trời mưa giông, có sấm sét
- Không tiếp xúc với một số cây nguy hiểm
Giao thông - Tuân thủ đúng luật an toàn giao thông: Đi đúng tín hiệu đèn giao thông, đi
bộ trên vỉa hè, đi về bên phải của đường, khi qua đường phải có người lớn đi
cùng; không thò đầu, tay khi đi tàu xe
- Không đùa giỡn khi ngồi trên xe; không chen lấn khi lên xuống tàu xe
Nước và hiện
tượng tự nhiên
- Biết sự nguy hiểm của các hiện tượng thời tiết bất thường: nắng nóng, lạnh
giá, gió to, mưa lũ, bão
- Biết tránh xa các nơi có nước, trũng thấp
- Không chơi gần núi đất đá khi có trời mưa, gió to
- Biêt tìm nơi an toàn để trú ẩn khi gặp các hiện tượng tự nhiên bất thường
- Không nghịch phá nước
- Lồng ghép nội dung giáo dục vào các hoạt động ở trường mầm non
Các hoạt động trong ngày ở trường mầm non đều có thể giáo dục phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ. Tuy nhiên cần chú ý tới nội dung của từng hoạt động cụ thể để lựa
chọn các kiến thức hay kĩ năng để hướng dẫn trẻ một cách phù hợp. Ví dụ như:
+ Hoạt động đón trẻ, trả trẻ: Giáo dục các kiến thức an toàn giao thông
+ Hoạt động học: Giáo viên có thể lựa chọn nhiều nội dung giáo dục để lồng ghép vào
các hoạt động học. Trong hoạt động học cần xác định các mức độ lồng ghép khác nhau
tùy thuộc vào nội dung của từng hoạt động. Có 3 mức độ lồng ghép: lồng ghép toàn
phần khi nội dung bài học trùng với nội dung giáo dục phòng chống tai nạn thương tích;
mức độ lồng ghép một phần (bộ phận) khi nội dung phòng chống tai nạn thương tích
trùng một phần trong bài học; mức độ liên hệ khi nội dung bài học có điều kiện liên hệ
một cách logic với nội dung giáo dục phòng chóng tai nạn thương tích.
+ Hoạt động vui chơi: Đây là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non, thông qua vui chơi
có thể giáo dục trẻ các kiến thức và kĩ năng phòng tránh bỏng, điện giật, té ngã, thất lạc,
tai nạn giao thông kĩ năng tự sơ cứu cũng như tìm sự giúp đỡ của người lớn khi khẩn
cấp. Các nội dung này có thể triển khai ở hoạt động góc, hoạt động ngoài trời hay vui
chơi tự do.
+ Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh: Lồng ghép giáo dục các kiến thức và rèn các kĩ năng
phòng chống dị vật đường ăn, đường thở, đuối nước, té ngã
Bên cạnh những hoạt động hàng ngày có thể tổ chức các hoạt động lễ hội vào những
thời điểm thích hợp để giáo dục trẻ ví dụ như ngày hội an toàn giao thông, các chương
trình nghệ thuật tuyên truyền kiến thức an toàn giao thông, hội thi vẽ tranh phòng chống
đuối nước, phỏng, điện giật...
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ PHÒNG CHỐNG TAI NẠN... 99
- Phương pháp giáo dục
Để các kiến thức và kĩ năng về an toàn gắn liền với đời sống của trẻ, đòi hỏi giáo viên
phải linh hoạt và phối hợp nhiều phương pháp giáo dục khác nhau để kích thích trẻ
hứng thú trong học tập và thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những
phương pháp quan trọng đó là thực hành – luyện tập, phương pháp dùng trò chơi,
phương pháp giải quyết tình huống có vấn đề, phương pháp nêu gương.
Giáo viên phải gắn những kiến thức và những kĩ năng mà trẻ học được với các bối cảnh
sinh hoạt thường ngày. Ví dụ như việc đi lên cầu thang không được chạy nhảy, chơi cầu
trượt cần phải lần lượt từng trẻ, không chen lấn, xô đẩy. Hay tạo ra các tình huống giả
định gắn với những nguy cơ có thể xảy ra tai nạn để giáo dục cách xử lí cho trẻ. Chẳng
hạn như tình huống giả định là căn phòng đầy khói, làm cách nào để có thể thoát ra khỏi
căn phòng đó nhanh nhất hay chơi đóng vai các tình huống giả định trẻ bị chảy máu, bị
bỏng, té ngã để bác sĩ thực hành sơ cứu cầm máu, bong gân, bỏng Bên cạnh đó trẻ
còn học từ cách xử lí của người khác thông qua quan sát các hành vi, cử chỉ của cô giáo,
cha mẹ, người thân và bạn bè Từ đó hành vi của trẻ sẽ được củng cố và điều chỉnh bởi
những kết quả do những hành động của chúng mang lại và sự đáp ứng của người khác đối
với hành vi của chúng. Chính vì vậy mỗi giáo viên phải là hình mẫu chuẩn trong thực
hành an toàn để trẻ học hỏi bắt chước. Quá trình giáo dục môi trường an toàn và phòng
chống tai nạn thương tích cho trẻ diễn ra thường xuyên liên tục thông qua các hoạt động
vui chơi, học tập và sinh hoạt ở trường sẽ dần tạo cho trẻ những phản xạ linh hoạt, thói
quen ý thức thường trực đối với những rủi ro, nguy hiểm gây tai nạn bất thường.
- Phương tiện, đồ dùng dạy học
Để hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục trẻ về an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích,
giáo viên cần sử dụng nhiều phương tiện, đồ dùng dạy học khác nhau. Ví dụ như phim,
tranh ảnh, mô hình, đồ vật thật, các tư liệu dạy học Đặc biệt giáo viên cần tạo ra môi
trường an toàn cho trẻ và giáo dục trẻ ngay trong môi trường đó. Điều này sẽ giúp cho
việc tiếp nhận những kiến thức về an toàn dễ dàng, bên cạnh đó việc rèn luyện kĩ năng
trong môi trường hàng ngày sẽ trở thành thói quen và nhu cầu của trẻ về việc đảm bảo
an toàn cho mình và người khác.
1.4.4. Phối hợp chặt chẽ với gia đình trong công tác đảm bảo an toàn cho trẻ
Kết quả của công trình nghiên cứu cho thấy, tai nạn thương tích ở trẻ nhỏ chủ yếu xảy
ra tại nhà và cộng đồng [3]. Chính vì vậy vai trò của gia đình trong việc phòng chống tai
nạn thương tích rất quan trọng. Để nâng cao hiệu quả việc đảm bảo an toàn cho trẻ ở
nhà cũng như ở trường, nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để tạo ra sự
thống nhất trong chăm sóc, giáo dục cũng như rèn các kĩ năng cho trẻ. Bên cạnh đó, nhà
trường cũng là một kênh thông tin góp phần nâng cao nhận thức cho phụ huynh về
nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng ngừa tai nạn cho trẻ nhỏ.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, nhà trường cần thường xuyên tạo ra các kênh trao
đổi thông tin giữa hai bên thông qua họp phụ huynh, trao đổi trực tiếp trong giờ đón trả
TẠ THỊ KIM NHUNG
100
trẻ hay tuyên truyền ở các bản tin của nhà trường, hoặc tổ chức các lớp tập huấn có sự
tham gia của phụ huynh và giáo viên. Giữa gia đình và nhà trường luôn giữ mối liên lạc
thông suốt, cô giáo phải thường xuyên cập nhật về tình tình của trẻ, các thông tin về sức
khỏe của trẻ cần phải minh bạch, rõ ràng để gia đình biết. Trong trường hợp trẻ có vấn
đề về sức khỏe bất thường, gia đình cũng phải thông báo đầy đủ cho giáo viên khi trẻ tới
lớp để giáo viên có các biện pháp dự phòng trong quá trình chăm sóc. Bên cạnh đó gia
đình cũng hỗ trợ cho nhà trường trong việc tạo điều kiện để trẻ rèn các kĩ năng đã được
học ở nhà để giúp trẻ ghi nhớ, củng cố tốt hơn. Gia đình cũng cần xây dựng môi trường
ngôi nhà an toàn cho trẻ để giảm thiểu các tai nạn xảy ra.
1.4.5. Phối hợp với chính quyền địa phương, công an khu vực hay dân phòng trong
công tác đảm bảo an toàn cho trẻ
Ngoài khu vực trường quản lí, nhà trường có thể tìm sự hỗ trợ từ các lực lượng tại địa
phương để đảm bảo an toàn giao thông trước cổng trường, giải quyết tình trạng xâm lấn
vỉa hè, lòng đường bán hàng rong gây mất an toàn cho trẻ.
3. KẾT LUẬN
Việc BĐAT và PCTNTT cho trẻ mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chăm
sóc sức khỏe và an toàn tính mạng cho trẻ. Nó tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh
cho mọi trẻ em, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây tai
nạn cũng như giảm mức độ nghiêm trọng của các thương tổn khi xảy ra tai nạn thương
tích xảy ra. Đồng thời tạo được lòng tin đối với phụ huynh khi giao trẻ cho các cơ sở
giáo dục mầm non và sự tin tưởng của xã hội vào hệ thống giáo dục. Chính vì vậy cần
có sự tham gia hợp tác tích cực của gia đình và cộng đồng cùng với nhà trường để nâng
cao hơn nữa hiệu quả của công tác đảm bảo an toàn cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát
triển tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009). Chương trình giáo dục mầm non, NXB Giáo dục.
[2] Nguyễn Thúy Quỳnh, Lê Vũ Anh, Nguyễn Dục Quang (2010). TNTT ở trẻ em và
biện pháp phòng chống dựa vào nhà trường, Tạp chí Y tế công cộng, số 16.
[3] Tạ Văn Tâm (2006). Tình hình tai nạn thương tích tại bênh viện đa khoa trung tâm
Tiền Giang, Tạp chí Y tế công cộng, số 5, trang 19.
Title: THE REAL SITUATION OF CHILD SAFETY AND ACCIDENTAL INJURY
PREVENTION IN PRE-SCHOOL, THUA THIEN HUE
Abstract: In Thua Thien Hue province, six pre-schools were surveyed the real situation of education
on child safety and accidental injury prevention, including: the cognition of teachers, staffs and
managers on child safety protection and accidental injury prevention; the real situation of building
safe environment; methods to practice the safe education for teachers and staffs in the schools.
Hence, several methods are proposed to enhance the child safety and accidental injury prevention.
Keywords: Safe, safety protection, accidental injury, children
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36_565_tathikimnhung_14_ta_thi_kim_nhung_2469_2020268.pdf