Đây là một dự án lâu dài, bền vững dọc theo biển Đông và biển Tây để đáp ứng với nước biển dâng
cao. Cần phải hệ thống hóa thiết kế đê biển theo tiêu chuẩn, không thể rời rạc như hiện nay. Một
cách tổng quát, biển Đông và biển Tây rất hiền hòa, ít bảo tố so với vịnh Mexico của hạ lưu
Mississippi, North Sea của Hòa Lan, vịnh Bengal của Bangladesh, hay ngay cả với vịnh Bắc Việt,
thường có nhiều trận bảo với độ tàn phá cao. Hiện tại, tạm thời thiết lập đê bằng đất có đường mặt
khá rộng dùng làm đường lộ giao thông, hai bên bờ trồng cỏ Vetiver chống soi mòn do gió và sóng
biển, như vài đoạn của tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện. Điều quan trọng là phía biển phải trồng rừng
ngập mặn tối thiểu cũng vài trăm mét chiều rộng để cản sức sóng và giúp lắng tụ phù sa biển. Trong
tương lai trước mắt, đê này sẽ thành xa lộ dọc biển nối từ Vũng Tàu đến cửa Bồ Đề, dọc theo bờ bắc
sông Cửa Lớn đến vịnh Ông Trang, rồi dọc theo bờ biển Tây đến Hà Tiên, nối liền với xa lộ N1 dọc
biên giới Việt Cambodia.
Trên vùng biển bị soi mòn nhiều do dòng chảy của biển, như vùng Bồ Đề, cần thiết lập tường-thẳng
góc (groins) bằng đá hay gỗ đặt thẳng góc với bờ biển, để chặn hay giảm sức sóng, giảm dòng chảy
để phù sa lắng đọng ngay chân tường
16 trang |
Chia sẻ: nguyenlam99 | Lượt xem: 799 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng Cửu Long
ReadiTrần Đăng Hồng, PhD, Reading, UK
Lời giới thiệu
Kể từ thập niên 1930’s một số quốc gia trong lưu vực sông Mekong: Laos, Cambodia và Việt Nam
bị tàn phá vì chiến tranh dành độc lập, nội chiến và xung đột giữa các nước láng giềng. Chiến tranh
đã để lại cho người dân trong vùng những hậu quả lâu dài về mặt xã hội, văn hóa, kinh tế; tiêu huỷ
tài nguyên, nhân lực và khả năng phát triển xứ sở. Sau khi chiến tranh trên bán đảo Đông Dương
chấm dứt vào năm 1975, các tổ chức quốc tế tìm cách giúp đở các quốc gia trong vùng tái thiết và
phát triển.
Trong nhiều thập niên vừa qua, Việt Nam đã tiến hành nhiều kế hoạch phát triển các cơ sở hạ tầng
(đào kinh, đắp đê ngăn lũ và thiết kế cống ngăn nước mặn) để gia tăng diện tích canh tác nông
nghiệp. Những kế hoạch này một mặt góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế của vùng châu thổ
và toàn xứ, nhưng mặt khác là mầm móng của nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường thiên
nhiên của châu thổ đồng bằng Cửu Long. Nước mặn xâm nhập vào mùa khô, những xáo trộn về
dòng chảy của sông Cửu Long do phá rừng, xây dựng các đập thuỷ điện và chuyễn dòng nước ở
thượng nguồn cùng ảnh hưởng của quả địa cầu bị hâm nóng là những mối đe dọa trực tiếp đến sự
phát triển bền vững của châu thổ đồng bằng Cửu Long VN, gây ra những bất ổn trong xã hội, khó
khăn về kinh tế và hạn chế sản xuất lúa gạo, nuôi trồng thuỷ sản v.v.. Đây là những thách thức mà
người dân châu thổ đồng bằng Cửu Long VN đang phải đối đầu và cũng là mối quan tâm chánh của
nhiều giới, từ nhà cầm quyền đến những nhóm làm công tác nghiên cứu khoa học.
Trong loạt bài “Thử tìm giải pháp thuỷ lợi cho đồng bằng Cửu Long”, TS Trần Đăng Hồng, chuyên
viên nghiên cứu Nông nghiệp thuộc Viện Đại học Reading, London, UK, cựu giảng sư Trường Đại
học Nông Nghiệp, Viện Đại học Cần Thơ trước năm 1975, một cách công phu và khoa học đã:
Trước tiên, phân tích những kỹ thuật và thu thập kinh nghiệm của:
- Hoà Lan xây đê sông, đê biển để trị thuỷ, lấn biển và kỹ thuật thành lập các tiểu đảo
(polders) để gia tăng dần diện tích toàn xứ.
- Đoàn Công Binh Hoa Kỳ:
a. Xây đê dọc theo sông Mississipi, thiết lập các cổng-lụt, đào kinh chuyễn dòng
nước để ngăn ngập lụt ở thành phố lún sụp News Orleans.
b. Tăng cường đê đất trên các giồng-duyên-hải, thiết kế các tường-biển, thảm-đá,
tường-thẳng-góc, khối-cản-sóng để bảo vệ bờ biển Louisiana.
c. Xây đập ngầm ngăn nước mặn tràn vào sông Mississippi.
- Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp trong những chương trình trợ giúp Bangladesh
chống mưa lũ và sống chung với bảo lụt.
- Các bậc tiền nhân Việt Nam như Cao Biền, Nguyễn Công Trứ, quan quân các đời Lý, Trần,
Lê và các biện pháp trị thuỷ hiện nay (tăng cường hệ thống đê sông, đê biển, thiết lập các hồ
chứa nước, phân lũ) để chế ngự lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng Việt Nam.
kế đến, trình bày những đặc tính thiên nhiên của châu thổ đồng băng Cửu Long Việt Nam (môi
trường và hệ thống sông rạch), bản chất của lũ lụt ở vùng đất miền tây Nam phần Việt Nam,
cùng khung cảnh xã hội, kinh tế của vùng lũ lụt, những thách thức của biển cả, những lợi ích và
2
tác hại của các công trình ngăn lụt và thuỷ lợi đề sau cùng trình bày những đề nghị nhằm giải
quyết những khó khăn, thách thức mà vùng châu thổ đang gặp phải.
Nhóm Nghiên Cứu Văn Hoá Đồng Nai & Cửu Long, Úc châu, hân hạnh gìới thiệu đến quý độc giả
bài viết: “Đề nghị vài biện pháp”, phần thứ 9 của loạt bài biên khảo “Thử tìm giải pháp thủy lợi
cho đồng bằng Cửu Long”, như những đóng góp của người Việt tự do ở hải ngoại đối với sự tồn tại
và phát triển bền vững của đồng bằng Cửu Long, Việt Nam, một vùng đất đã góp phần không nhỏ
trong kế hoạch đảm bảo an ninh lương thực cho xứ sở và toàn cầu.
Huỳnh Long Vân, Ph.D.
I. NHỮNG THÁCH ĐỐ TRONG TƯƠNG LAI
Tr
Những biện pháp chống lũ lụt và phát triển thuỷ lợi hiện hữu được thiết kế dựa trên trận lụt lớn năm
2000. Cho tới nay (2009), chưa có trận lũ lớn tương tự xảy ra nên chưa định giá được hiệu quả của
các tuyến đê ngăn lũ. Lụt định kỳ hàng năm vẫn xảy ra, khoảng 40 % diện tích của ĐBCLVN bị ảnh
hưởng, mùa lụt nhiều nơi kéo dài 3-4 tháng, có nơi sâu 2-3 m, nhưng không gây thiệt hại. Đa số dân
chúng sống an toàn trong khu bảo vệ bởi các đê, trên các tuyến, cụm dân cư. Một số dân chúng còn
tiếp tục “sống chung với lũ” với nhiều tiện nghi hơn trước. Đời sống nhờ vậy có phần cải thiện hơn
xưa.
Tuy nhiên ĐBCLVN đang và sẽ phải đương đầu với nhiều thách đố:
1. Nạn nhân mãn
Dân số ĐBCLVN năm 2000 khoảng 16.9 triệu, hiện nay (2009) là 18 triệu. Với tỉ lệ gia tăng dân số
1.6 % hiện nay, hay 1.2 % trong tương lai như các dân tộc tiên tiến khác, dân số sẽ tăng lên 25 triệu
năm 2025, và 46 triệu năm 2075. Như vậy, nhu cầu lương thực từ 5.1 triệu tấn năm 2000, lên 7.5
triệu tấn năm 2025, và 13.7 triệu tấn năm 2075, với nhu cầu thực phẩm là 300 kg/đầu người/năm
như hiện nay. Cũng cần biết thêm là mật độ dân cư ở ĐBCLVN hơn 400 người/km2, gấp đôi mật độ
của cả nước (7).
Về mặt kinh tế, tuy là vùng kinh tế sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của Việt Nam, với 50 %
sản lượng lúa, 70 % lượng trái cây, 52 % thuỷ sản của toàn quốc, đóng góp 90 % số lượng gạo xuất
cảng, và 60 % kim ngạch xuất cảng thủy sản của cả nước, dân chúng ở ĐBCLVN còn nghèo so với
bình quân chung của cả nước. GDP bình quân đầu người năm 2006 ước tính đạt 493 USD, so với
729 USD của cả nước. Dân hiện sinh sống trong 3 triệu căn nhà, mà 70 % là nhà tạm bợ (15). Một
số lớn dân chúng không có đất canh tác, trong lúc có người chiếm hữu trên 100 ha ruộng lúa. Hiện
còn khoảng 4 triệu người trong số 18 triệu dân còn trong diện nghèo đói (26).
Diện tích ĐBCLVN khoảng 3.97 triệu ha, trong số đó có 2.4 triệu ha có khả năng canh tác lúa. Nhờ
các biện pháp thuỷ lợi biến cải từ một vụ lúa/năm thành 2 hay 3 vụ lúa/năm, tổng số vụ lúa canh tác
gia tăng từ 2.251 triệu ha năm 1985, lên 3.87 triệu ha năm 1999-2000. Nhờ vậy, sản lượng lúa đã
tăng từ 4.7 triệu tấn vào năm 1976 lên 19.1 triệu tấn vào năm 2005.
2. Nước biển đang dâng cao
Trong khoảng thời gian 1955-1990, nước biển Đông đo tại Hòn Dâu dâng cao 0.19 cm/năm ở miền
Bắc (1), trung bình dâng cao 0.3 cm/năm tại trạm Vũng Tàu trong thời gian 1978-2007 (8); và như
vậy, nước biển sẽ dâng cao thêm từ 20 – 27 cm vào năm 2100, còn với vận tốc dâng như IPPC tiên
đoán thì nước biển sẽ dâng cao thêm 64 cm vào năm 2100 (31).
3
Đồng bằng Cửu Long có độ cao 0-4 m trên mực nước biển, riêng vùng Cà Mau chỉ cao hơn mực
biển 0-0.5 m, trong lúc thuỷ triều cao 4 m, nên khả năng chìm dưới mặt biển khá lớn, nhất là vùng
rừng ngập mặn hiện nay, và coi như một phần lớn đồng bằng bị đe doạ bởi thuỷ triều từ phía biển
(26).
Nếu nước biển dâng cao thêm 0.2 m, khoảng 706 km2 đất ở ĐBCLVN bị chìm ngập, và nếu dâng
cao 0.6 m sẽ có khoảng 994 km2 đất bị chìm ngập (6). Theo Bộ Nông nghiệp VN, nếu mực nước
biển dâng cao 1 m, ĐBCL sẽ mất từ 15,000 đến 20,000 km2 đất (Việt báo, 12/1/2008).
3. Sông Cửu Long biến đổi
Theo Ủy ban Mekong (12, 13, 14) thì thành phần cung cấp lưu lượng sông Cửu Long có 16 % nước
từ Trung Quốc, 2 % từ Miến Điện, 35 % từ Lào, 18 % từ Thái Lan, 18 % từ Cambodia, và 11 % từ
Việt Nam.
Lưu lượng nước chảy vào lưu vực sông Cửu Long (Mekong River) là 2.000 m3/sec vào mùa khô
(Tháng 12 – Tháng 3), trong mùa mưa là 25.000 m3/sec (Tháng 7 – Tháng 11), với lưu lượng trung
bình hàng năm khoảng 475 tỷ m3 nước.
Vào địa phận Việt nam, hai nhánh sông Cửu Long (sông Tiền và Hậu) có lưu lượng trung bình 53 tỷ
m
3
nước/năm. Vận tốc chảy trung bình trong lãnh thổ VN là 15.000 m3/giây (tại Tân Châu là 14.200
m
3
nước /giây), tối thiểu 2.500 m3/giây trong mùa hạn, tối đa là 40.000 m3/giây trong mùa lũ.
Dự đoán cho biết vào năm 2070, vũ lượng trên toàn lưu vực sông Cửu Long không thay đổi mấy
(chỉ giảm 5 tỷ m3 nước mưa, tức giảm khoảng 0,8 %), nhưng mưa nhiều hơn hiện nay 40% trong
mùa mưa, ngược lại mùa hạn kéo dài thêm (31).
Trong vòng 30 năm qua, 13 đập nước lớn (>10MW), vài ngàn hồ nước nhỏ (Cambodia 800, Lào
600, Việt Nam 600, Thái Lan 4.000) đã xây dựng dọc sông Mekong và chi lưu, và hơn 100 dự án
thuỷ điện lớn nhỏ trên Mekong dự trù xây dựng, sẽ đe doạ vùng hạ lưu. Riêng ở phần Trung quốc, 2
đập thuỷ điện đã hoạt động: (Manwan, 1993, hồ chứa 0,92 tỷ m3; Dachaoshan, 2003, hồ chứa 0,96 tỷ
m
3), một sắp hoạt động (Xiaowan, 2012, hồ chứa 14,55 tỷ m3), và 4 cái đang hoạch định trong đó
đập Nuozhadu có hồ chứa 22,7 tỷ m3, nâng tổng số nước của 7 hồ này khoảng 55 tỷ m3, tương
đương với tổng số lưu lượng chảy vào lãnh thổ Việt Nam là 53 tỷ m3 nước/năm (14). Trên lý thuyết,
việc xây đập ở thượng lưu sẽ có lợi cho hạ lưu. Vào mùa mưa lũ, các đập được đóng để chứa nước
nên làm giảm lũ lụt ở hạ lưu. Đập xả nước cho chạy máy điện quanh năm, tuy nhiên mùa hạn sản
xuất điện nhiều hơn, nên xả nước nhiều hơn, vì vậy vùng hạ lưu có nhiều nước hơn vào mùa hạn
hán.
Tuy nhiên, các quốc gia Lào, Thái Lan và Cambodia chắc chắn sẽ gia tăng hệ thống thuỷ lợi để gia
tăng diện tích canh tác, chính vẫn là lúa. Hiện tại, tỉ số diện tích đất được dẫn thuỷ ở các quốc gia
này chỉ khoảng 20 %, trong lúc ở ĐBCLVN là 50 %. Như vậy, trong tương lai ĐBCLVN chắc chắn
sẽ thiếu nước trầm trọng vào mùa hạn.
Hơn nữa, Trung quốc vừa bắt đầu đào ba tuyến kênh nối sông Dương Tử và các nhánh sông này ở
miền nam, trung và tây Trung Quốc dẫn nước tới miền bắc hay bị khô hạn. Dự án sẽ hoàn thành năm
2014 với tổn phí 62 tỷ đôla (2). Vì vậy, không loại khả năng Trung Quốc trong tương lai sẽ chuyển
hướng dòng Cửu Long trong lãnh thổ của họ chảy vào Trung Quốc, và như vậy hạ lưu sẽ mất
khoảng 76 tỷ m3 nước/năm.
Ngoài ra, nếu có chiến tranh, Trung quốc có thể sử dụng sông Cửu Long để phá hoại kinh tế vùng hạ
lưu, mà Việt Nam sẽ nhận hậu quả trầm trọng nhất. Vào mùa hạn, Trung quốc có khả năng gây hạn
hán ở hạ lưu. Vì 8 đập nằm trên bậc thang, chỉ cần 6 đập bên trên hoạt động bình thường để sản xuất
điện, 2 đập dưới cùng (Ganlanba và Mengsong) đóng lại để nhận chứa nước thải từ các đập trên, và
4
hạn chế xả nước chỉ vừa đủ sản xuất điện lực, thì đủ làm hạn hán ở hạ lưu trong mùa hạn. Ngược
lại, vào mùa lũ lụt ở hạ lưu, nhất là nhằm vào lúc thuỷ triều cao ở Biển Đông, Trung quốc có khả
năng gây lũ lụt trầm trọng ở hạ lưu bằng cách xả lũ cùng lúc 8 cái hồ nước vĩ đại này.
Khả năng đó đã xảy ra. Giữa tháng 8/2008, nước sông Cửu Long dâng cao đột ngột gây lụt tại
Vientiane, Luang Prabang của Lào và các tỉnh Chiang Rai, Nakhon Pathon, Nong Khai của Thái
Lan. Các cơ quan phi chính phủ cho rằng con lụt này là do 2 đập thủy điện của Trung quốc ở thượng
nguồn xả lũ.
Ngoài ra, bất cứ một dự án thuỷ lợi nào làm thay đổi lưu lượng phát xuất từ vùng thượng lưu đến
trung lưu đều có khả năng thay đổi tình trạng lũ lụt ở ÐBCL. Chẳng hạn, việc xả lũ từ đập thuỷ điện
Yali của Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2005 đã gây lũ lụt ở hạ lưu sông Sesan trong tỉnh Ratanakiri
của Cambodia và có lẽ đã làm mực nước ở nội đồng Ðồng Tháp Mười đang tăng nhanh lại càng tăng
nhanh hơn vào trung tuần tháng 8 (18).
Dòng chảy sông Cửu Long thấp nhất năm 1993 và gây hạn hán trầm trọng ở Việt Nam trùng vào lúc
đập Manwan hoàn thành và bắt đầu tích nước. Năm 1997, Trung quốc đóng cửa đập trong 4 ngày để
sửa chửa đập, không cho nước hồ chảy vào hạ lưu, gây khô hạn ở phần đất Việt Nam, gây thiệt hại
cho Việt Nam khoảng 100,000 USD/ngày (17).
II ĐỀ NGHỊ BIỆN PHÁP
Việt Nam là một thành viên trong Ủy ban Mekong. Tuy nhiên, Ủy ban này chỉ là cơ quan cố vấn,
không có quyền hạn để áp đặt lên quốc gia này hay quốc gia khác để sử dụng công bằng nguồn nước
Mekong. Lịch sử qua mấy ngàn năm ở vùng này là “cá lớn nuốt cá bé”, luôn luôn tranh chấp biên
giới và tài nguyên. Việt Nam phải tìm đường tự cứu mình hơn là trông chờ sự quan tâm của cơ quan
này hay cơ quan quốc tế khác.
1. Hợp tác với các nước trong Ủy Ban Mekong
Mặc dầu phải đơn phương tự lo cho mình, Việt Nam cũng phải hợp tác với các nước trong lưu vực
sông Mekong để cùng chia sẻ lợi ích chung của sông Cửu Long trong việc phát triển thịnh vượng
chung cho cả khu vực, hoặc bằng các ký kết song phương với từng quốc gia, hay đa phương với cả
khu vực. Đó là nghiên cứu thiết lập: (i) các đập, hồ tích trử nước dư thừa trong mùa mưa để giảm
thiểu lũ lụt và sử dụng nước trong mùa hạn, không có phương hại lẫn nhau; (ii) chuyển một phần
nước sông Cửu Long trong lãnh thổ Cambodia vào hệ thống sông Đồng Nai để giảm thiểu lụt ở hạ
lưu; (iii) giao thông đường thuỷ, đường bộ và phát triển kinh tế dọc ven sông; (iv) giải quyết vấn đề
ô nhiễm nước sông Cửu Long.
Đặc biệt quan tâm cùng với Cambodia thiết lập đập trên sông Tonle Sap, chuyển nước lũ vào Biển
Hồ trong mùa lũ, và tháo nước vào mùa hạn để Cambodia và Việt Nam cùng sử dụng. Loại đập này
vừa có khả năng đóng mở giữ nước và tháo nước Biển Hồ, đồng thời tàu thuyền lớn qua lại dể dàng,
nối Nam Vang với biển Đông, biển Tây qua lãnh thổ Việt Nam, hay ngược dòng đến Thái Lan, Lào
và Trung Quốc. Vì vậy cần phải thiết kế với kỹ thuật cao, hiện đại của Hòa Lan, Hoa Kỳ, Anh Quốc,
Nhật Bản với phương diện tài chánh dồi dào từ các nước này yểm trợ.
2. Kiện toàn hệ thống đê và thành lập thêm nhiều polders
Để nuôi sống dân số gia tăng và làm dân giàu, phải biến cải phần lãnh thổ bị lũ lụt hàng năm thành
khu vực an toàn, để thế nào kiểm soát được nước hoàn toàn theo ý muốn như các polders ở Hòa Lan.
Vào mùa lũ có hệ thống đê cao bảo vệ, có hệ thống cống và hệ thống bơm nước hữu hiệu, bơm nước
vào hay bơm nước ra polder. Có vậy, mới có thể đa canh với loại cây cần đất khô và mới có thể công
nghiệp hóa nông thôn.
5
Các đê dọc biên giới của ĐBCLVN cũng là xa lộ (xa lộ N1) nối dài của Xa Lộ Trường Sơn của Tây
Nguyên miền Trung cho tới miền Bắc, và nối với Hành lang phía Nam (Southern Coastal Corridor)
từ Cà Mau - qua Rạch Giá - Hà Tiên- Kampot- Koh Kong - Trat - Chantabun, BangKok cho tới
Miến Điện; và nối Hành lang Xuyên Á từ Bà Rịa – Sài Gòn – Tây Ninh – tới Nam Vang (25).
Về phía Đồng Tháp Mười, dọc theo đê biên giới phải có nhiều cống giúp thoát nước để nước bạn
Cambodia không bị ngập lụt trầm trọng và lâu dài. Nước thoát từ biên giới được đưa vào kinh được
đào vét rộng và sâu hơn, và chảy tiêu thoát vào (i) hồ chứa nước Đồng Tháp Mười (nói phần 4c), và
vào sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông để chảy vào sông Vàm Cỏ ra biển Đông ở cửa Xoài Rạp.
Nhưng thoát nước qua sông Vàm Cỏ rất chậm vì sông uốn khúc nhiều ở hạ lưu, cần nghiên cứu thêm
việc đào kinh nối dòng thoát Vàm Cỏ Đông chảy vào nhánh Sông Sài Gòn. Chẳng hạn, hiện nay đã
có hệ thống kinh nối Đồng Tháp Mười với Sông Sài Gòn qua các kinh Tháp Mười – Rạch Chanh
(tức kinh Nguyễn Văn Tiếp) – kinh Thủ Thừa (nối Vàm Cỏ Tây với Vàm Cỏ Đông) – Bến Lức –
Kinh Đôi – Kinh Bến Nghé hay Kinh Tẻ, cả 2 đều đổ vào sông Sài Gòn (11). Cần phải vét rộng và
sâu thêm hệ thống kinh này vừa làm đường thoát lũ vừa là giao thông đường thuỷ dễ dàng giữa Cảng
Sài Gòn về các tỉnh Miền Tây xuyên qua Đồng Tháp Mười.
Các đê cũng như các kinh cấp 1 trong đồng bằng cũng phải là đường giao thông thuỷ bộ cần thiết
cho phát triển kinh tế.
3. Sửa đổi quy hoạch tổng thể và sản xuất nông nghiệp
Quy hoạch sản xuất nông nghiệp phải nằm trong quy hoạch tổng thể gồm phát triển công nghiệp, du
lịch và nông nghiệp. Tác giả sẽ đề cập 2 phần trên vào một dịp khác.
Năm 2008, ĐBCLVN sản xuất khoảng 20 triệu tấn lúa, chiếm 55 % sản lượng toàn quốc, và 2,3
triệu tấn thuỷ sản mà 78 % là do nuôi. Đồng bằng đóng góp 90 % lượng gạo xuất cảng của toàn
quốc, và 60 % kim ngạch là do tôm xuất cảng. Tính theo số lượng xuất cảng thì lớn, nhưng không
đem lại lợi tức bao nhiêu, tổng kim ngạch xuất cảng của ĐBCL chỉ có 3 tỷ USD năm 2006, không
tới 10 % tổng kim ngạch xuất cảng của cả nước. ĐBCLVN có cần tiếp tục độc canh ngành lúa để
xuất cảng gạo không?
Trước nhất, ĐBCLVN có đủ nước canh tác trong mùa hạn, tức vụ lúa Đông Xuân không? Trong
mùa mưa, ĐBCLVN dư thừa nước để canh tác vụ Hè-Thu hay Thu Đông trên toàn thể 2,4 triệu ha
đất ruộng, nhưng không đủ nước để canh tác toàn thể diện tích này trong vụ lúa Đông Xuân, tức mùa
hạn, từ tháng 1 đến thàng 4.
Hiện tại, trong 5 tháng mùa hạn (từ tháng 1 đến tháng 5), ĐBCLVN chỉ nhận được số lượng nước
(chảy qua sông Tiền và sông Hậu) trong giới hạn từ 1.800 m3/s (là lưu lượng tối thiểu chảy vào mùa
hạn) đến 3.300 m3/s (lưu lượng tối đa vào mùa hạn), tính trung bình 2.500 m3/s, tức khoảng 32,4 tỷ
m
3
nước. Trong tình trạng hiện tại, khi các cửa sông chưa đóng kín bằng hệ thống đập dọc biển,
chúng ta chỉ sử dụng được tối đa 30 % dung lượng nước này, tức khoảng 9,72 tỷ m3
trong canh tác
nông nghiệp, kỹ nghệ và gia dụng để cả ĐBCLVN không bị nhiễm mặn và thiếu nước ngọt.
Với điều kiện khí hậu, đất đai và hiện trạng canh tác lúa ở ĐBCLVN hiện nay, trong vòng 100 ngày
canh tác lúa Đông Xuân, lượng nước bốc hơi trung bình khoảng 2.400 m3/ha (biến thiên từ 1.800
đến 3.000 m3/ha, tùy tháng và địa phương), thấm lậu qua bờ bao và xuống sâu khoảng 3.500 m3/ha
(từ 2.000 – 5.000 m3) (3), nhu cầu sinh học để có năng xuất cao khoảng 5.000 m3/ha, và giữ một lớp
nước tối thiểu trên mặt 1.000 m3/ha, như vậy có nhu cầu nước trung bình khoảng 12.000 m3/ha/vụ.
Như vậy, ĐBCLVN chỉ canh tác tối đa được khoảng 810.000 ha lúa Đông Xuân để không ảnh
hưởng nhiều tới môi trường sinh thái. Ngay cả một khi được đóng kín bằng hệ thống đê biển và cống
ngăn mặn, nghĩa là hoàn toàn không bị nước biển xâm nhập, ĐBCLVN cũng chỉ sử dụng tối đa 60
% dung luợng nước này, tức canh tác tối đa khoảng 1,6 triệu ha lúa Đông Xuân, bởi vì cần một số
6
nước giữ ở sông rạch, giữ thuỷ cấp cao để đồng bằng không bị lún sụp. Hiện tại, chính phủ đang
khuyến khích canh tác 1,6 triệu ha cho vụ lúa Đông Xuân 2009-2010. Đó là lý do tại sao nước mặn
mỗi năm càng xâm nhập sâu vào nội địa, và thiếu nước canh tác và sinh hoạt trong nhiều vùng ở
ĐBCLVN giữa mùa hạn.
Gia tăng diện tích lúa Đông Xuân, dĩ nhiên chính phủ đạt được chỉ tiêu số lượng gạo xuất cảng,
nhưng phần thất thiệt về năng xuất (do nước mặn, thiếu nước ngọt) và lợi tức thì người dân gánh
chịu.
Gia tăng diện tích trồng lúa, gia tăng số vụ lúa/năm, và kỹ thuật thâm canh lúa hiện nay là giảm
phẩm chất nước (phèn, nhiễm mặn, ô nhiễm phân bón, thuốc sát trùng, thuốc diệt cỏ), làm gia tăng
đất bị nhiễm mặn. Trong 2 thập niên qua, canh tác lúa trong mùa khô (vụ Đông xuân) ở VN đã sử
dụng nhiều nước gấp đôi số lượng sử dụng của các đồng bằng hạ lưu Cửu Long khác (14).
Để hợp lý hóa vấn đề sử dụng nước ngọt, trong lúc vẫn gia tăng lợi tức của nông dân, và tránh vấn
đề độc canh lúa, cần phải quy hoạch lại chương trình sản xuất nông nghiệp đúng theo môi trường
của địa phương.
a. Vùng duyên hải và bán đảo Cà Mau
Trước nhất phải quy định lại vùng ngọt hóa, vùng nước lợ và vùng mặn hóa trên vùng duyên hải và
bán đảo Cà Mau thật rõ ràng và có ý kiến của người dân địa phương. Việc nông dân không hợp tác
và phá huỷ nhiều công trình ngọt hóa ở vùng Bạc Liêu, Cà Mau kể từ 2000 cho biết việc cưỡng bách
dân canh tác lúa trong nhiều vùng ngọt hóa trên vùng đất vốn nhiễm mặn trầm trọng này chỉ làm dân
nghèo thêm, bởi vì trồng lúa không có lợi. Canh tác lúa không có lợi ngay cả ở những vùng đất trù
phú như Cần Thơ, An Giang. Ngược lại, canh tác hoa màu chịu mặn và nuôi thuỷ hải sản đem nhiều
lợi tức hơn cho người dân và mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước hơn xuất cảng lúa gạo. Vì vậy,
cần giới hạn lại khu vực ngọt hóa vừa tầm với khả năng cung cấp nước ngọt, kỹ thuật ngăn chận
nước mặn và khả năng tài chánh bảo trì hệ thống. Hơn nữa không cần thiết canh tác nhiều lúa ở bán
đảo Cà Mau vì canh tác lúa không hẳn có lợi.
Vùng duyên hải và bán đảo Cà Mau xưa nay vốn là vùng sản xuất thuỷ hải sản, và nông dân đã có
kinh nghiệm sống chung với nước mặn. Việc thất bại nuôi tôm rầm rộ với quy mô lớn trong thập
niên 1990s đã giúp cho nông dân tự tìm một mô hình thích hợp cho sản xuất ở vùng nhiễm mặn. Đó
là luân canh giữa nuôi tôm trong mùa hạn khi nước mặn xâm nhập vào ruộng, và trồng lúa trong
mùa mưa sau khi đất được rửa bớt muối. Với hình thức canh tác này đều cho năng xuất tôm cao (ít
bệnh, ít thức ăn vì nhờ phiêu sinh từ rơm rạ mục, năng xuất trung bình 100 - 300 kg tôm/ha/) và
năng xuất lúa cao (3,5 đến 5 t/ha), nhờ vậy nông dân có lời (sau khi trừ phần tổn phí) từ 8 triệu đến
50 triệu đồng/ha/năm. Trước đây, hoặc chỉ nuôi tôm, hoặc chỉ trồng lúa, nếu không phá sản thì cũng
chỉ có lời chút đỉnh, “lấy công làm lời”. Mặc dầu đây chưa phải là một mô hình hoàn hảo, nhưng khả
dĩ mang lại nhiều lợi tức cho người dân, đồng thời bảo vệ được môi trường sinh thái của vùng biển.
Cần phải nghiên cứu những giống lúa kháng mặn thích ứng cho vùng này, chẳng hạn như giống lúa
CSR10 của Australia vẫn cho năng xuất cao ở 7 g muối/l.
Việt Nam cũng cần nghiên cứu cây phì-diệp-biển (Suaeda maritime (L.) Dum.) mọc tự nhiên trong
môi trường nước biển Việt Nam. Hiện tại loại cây này đã được canh tác với nước biển để lấy hột ép
thành dầu sản xuất nhiên-liệu-sinh-học, khả năng cho 1.260 l /ha so với 420 l/ha từ đậu nành. Bả ép
dầu chứa nhiều protein có thể làm thức ăn gia súc và thuỷ sản (22). Cỏ Sporobolus virginicus canh
tác ở vùng Đông Bắc Thái Lan được tưới bằng nước mặn để làm đồng cỏ cho trâu bò. Salicornia
bigelovii cho dầu ăn và thân làm thức ăn gia súc. Atriplex barclyana dùng làm thức ăn cho trâu bò,
đều là các loài thích ứng vùng nước mặn.
Quan trọng nhất là cây dừa là cây thích hợp vùng nước lợ, trồng bất cứ nơi nào trên vùng duyên hải,
nhưng chưa khai thác đúng tiềm năng. Chẳng hạn một trái dừa uống tươi ướp nứơc đá chỉ có 3.000
7
đồng một trái bán ở mọi tỉnh thành phố, trong lúc một chai nước uống không rỏ nguồn gốc có dung
tích tương đương có giá bán từ 5.000 đến 10.000 đồng. Nước dừa đóng hộp, vô chai được bày bán ở
khắp siêu thị Âu Châu, vệ sinh và bổ dưỡng hơn cả nước khoáng trong chai. Trong khi đó, người
Việt Nam uống nước vô chai không nguồn gốc. Ngoài ra, dừa còn nhiều công dụng khác, và đã từng
phát triển mạnh ở Bến Tre.
Canh tác rong biển (sea weed) như Gracilaria và Eucheuma rất phổ biến ở Trung và Nam Mỹ cũng
như Phi Luật Tân. Canh tác tảo biển giàu protein như Spirulina và Duvalielle (chứa từ 50 tới 70 %
protein) cũng cần đặc biệt nghiên cứu để chế biến thức ăn bổ sung dinh dưỡng cho người và gia súc
như đã thực hiện ở Hawaii.
Với nhiều vũng đầm trong 8 tỉnh duyên hải, rất lý tưởng cho việc nuôi tôm, cá, sò huyết (Arca
granosa), cua, ghẹ, đồi mồi, hải sâm (Holothuria scabra), tu hài (Snout Otter Clam), nghêu (clam),
sò điệp (scallop), bào ngư (abalone) hàu ngọc trai (pearl oyster), sò trai hai mảnh -xanh (green
mussel), mực, cầu gai ( nhím biển ), v.vrong biển (rong câu), v.v. nhưng vùng ĐBCLVN chưa bắt
đầu.
Cũng cần biết thêm là kỹ thuật nuôi tôm công nghiệp hiện tại còn quá ấu trĩ, cho năng xuất thấp,
nhiều bệnh tật, nên nuôi tôm không có lời. Năng xuất chỉ 300 kg/ha ở Cà Mau đến 500 kg/ha ở Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre. Để sản xuất 1 kg tôm, phải cần 2 kg thức ăn, với giá 25 ngàn đồng/kg,
trong khi đó giá tôm nguyên liệu quá thấp, đối với cỡ tôm 30 con /kg giá khoảng 100 ngàn đồng/kg,
loại 40 con/kg giá 80 ngàn đồng/kg. Do đó, chỉ tính riêng tiền chi phí thức ăn cho tôm đã chiếm đến
gần 50 %. Cần phải nghiên cứu lại kỹ thuật nuôi tôm công nghiệp theo kinh nghiệm nước người. Kỹ
nghệ nuôi tôm ở Hawaii đã đạt 45 t/ha/năm với tôm-thẻ-chân-trắng (Penaeus vannamei).
Với một bờ biển trải dài hơn 600 km, với diện tích khoảng 1 triệu ha đất nhiễm mặn, cần thiết lập
một viện nghiên cứu chuyên về nước mặn, tương đương với Viện Nghiên Cứu Lúa Ô Môn và Viện
Cây Ăn Quả Long Định của vùng nước ngọt. Thật đáng tiếc, một vùng có nhiều tìm năng kinh tế
nhưng chưa có một trường đại học để chuyên về nước mặn, nước lợ. Đại học Duyên Hải Nha Trang
không đáp ứng được nhu cầu phát triển đặc biệt của vùng duyên hải Nam phần VN.
b. Trong vùng nước ngọt quanh năm
Hiện tại, nơi canh tác lúa 3 vụ/năm nên chuyển hướng canh tác 2 vụ lúa + 1 vụ hoa màu ngắn hạn
(100 – 120 ngày) trong mùa hạn như đậu nành, đậu xanh, bắp, sorgho đường ít có nhu cầu nước.
Việc canh tác lúa liên tục làm đất mất dưỡng chất, tích tụ nhiều chất độc (thuốc diệt cỏ, thuốc sâu và
bệnh), vì để duy trì năng xuất cao, nông dân phải gia tăng số lượng phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc
diệt cỏ, v.v.
Chẳng hạn ở vùng Tân Châu, Châu Đốc, cho mỗi vụ lúa trên 1 ha ruộng nông dân bón 170 -250 kg
phân Urea (46 % N), 100 kg phân DAP (chứa 18 % N+46 % P2O5), 50 – 80 kg phân ClK (60 %
K2O), sử dụng 1 – 1,2 lít thuốc diệt cỏ Butachlor, xịt thuốc trừ sâu cuốn lá với Alpha Cypermerine
(1 l/ha/1 lần phun, thường khoảng 3 lần) hoặc 3,6 Abamectin (0,4 l/ha/1 lần phun), trừ rầy nâu với
Bassa (1 lít/ha/lần phun); hoặc Chess (1 kg/ha/lần phun, mỗi vụ từ 0-4 lần phun), trừ nhện với
Kinalus (1 lít/ha/1 lần phun, 1-2 lần/vụ). Để trị bịnh lúa, dùng Validamicin 3 % (2 lit/ha/lần, 2-3
lần/vụ), hoặc Anvil 5SC (1 lit/ha/ lần phun, 2 lần /vụ) cho bệnh “khô vằn”; bệnh “đạo ôn” với Fuan
(fuji one) 1lit/ha/lần phun, 2-3 lần /vụ; bệnh “cháy bìa lá” với Sasa (hoặc Asusu) khoảng 0,5
kg/ha/lần phun, 1-2 lần/vụ; bệnh “lem lép” dùng Tilt Super 300 cc/ha/lần phun, 2-3 lần/vụ. Ngoài ra,
nông dân còn dùng cả chất kích thích tăng trưởng GA3, 20 g/ha/lần phun, 1-2 lần/vụ và xịt phân bón
lên lá 7-5-44-TE để nuôi hạt sau khi trổ, 1 kg/ha/lần phun, 1-2 lần/vụ. Vì vậy, tổn phí sản xuất rất
cao, không có lời. Nếu năng xuất lúa khoảng 4 t/ha/vụ thì coi như lỗ, lời khoảng 400.000 đồng/ha/vụ
(khoảng 23 USD) nếu năng xuất 5 t/ha, lời khoảng 6 triệu đồng/ha (340 USD) nếu năng xuất đạt 6
t/ha/vụ. Thông thường, cứ 3 vụ lúa/năm thì một vụ huề vốn, 2 vụ có lời. Năng xuất trung bình ở Tân
8
Châu là 18 t/ha/3 vụ lúa. Ở vùng Đồng Tháp năng xuất thấp hơn, nhất là vụ Đông Xuân bị ảnh
hưởng phèn và thiếu nước, coi như không lời mấy.
Việc nuôi cá đồng, cá rô Phi Tilapia trong mùa nước lũ thay cho 1 vụ lúa có thể là một mô hình hữu
hiệu. Nông dân cũng có nhiều kinh nghiệm nuôi cá rô, cá rô Phi Tilapia trong ruộng lúa từ thập niên
1950s.
Nuôi cá da trơn nước ngọt (cá Basa, cá Tra) trên sông và ao hồ dọc sông Tiền, sông Hậu và các kinh
đào mang nhiều lợi tức. Ở Đồng Tháp nuôi cá tra, năng xuất trung bình 150 t/ha/năm (1 vụ nuôi kéo
dài 7-8 tháng, xem như 2 năm có 3 vụ cá), tuy nhiên nếu nuôi đúng kỹ thuật cho năng xuất 300
t/ha/năm. Nếu giá cá bán tại ao với giá 15.000 đồng /kg cá thì coi như huề vốn với ao cá có năng
xuất 150 t/ha. Vào tháng 10/2008 giá cá tra bán tại chỗ khoảng 17.000 đồng/ kg, và giá cá xuất vào
thị trường EU ở mức 3,2 USD/kg.
Trong năm 2008, ĐBCLVN có khoảng 5.102 ha diện tích ao nuôi cá tra Pangasius hypoththalmus
và ba sa Pangasius boncourtii, ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, cho sản lượng 1 triệu tấn
cá, năng xuất trung bình 200 tấn cá/ha/năm, xuất cảng trên 535 ngàn tấn qua 117 quốc gia, vùng lãnh
thổ (Châu Âu chiếm 48%), kim ngạch xuất cảng đạt 1,250 tỷ USD (28). Cá Pangasius có năng xuất
50- 80 tấn/ ha ở ao hồ nước ngầm , 100- 200 tấn/ha ở các ao hồ phù sa và 300- 600 tấn / ha / năm
ở lồng bè cỡ lớn, tỉ trọng thả cá con rất cao , bề sâu 3 m và nước chảy , thay đổi thường xuyên. Lợi
tức nuôi lồng bè theo nước chảy lên đến 2 tỷ đồng VN/ ha một năm (23).
Nuôi cá lóc trong hầm ao hay trong bể có lót nylong dày, sâu 1 m, mỗi m2 nuôi khoảng 100 – 150 cá
lóc con, chỉ trong 5 tháng một lứa. Mỗi 100 m2 ao cá lót nylong, có thể lời 25 triệu đồng trong 5
tháng.
Tôm càng cũng dễ dàng nuôi trong đồng ruộng nước ngọt khắp ĐBCLVN, nhất là vùng ngày xưa
canh tác lúa cấy 2 lần ở Cần Thơ, Vĩnh Long, vì ruộng cần có một lớp nước sâu tối thiểu 0,6 m, và
nước có pH = 7 – 8,5.
ĐBSCL cũng là nơi chăn nuôi trâu bò (gồm cả bò lấy thịt và bò sữa) và gia cầm thích hợp, đặc biệt
là vịt thả trong ruộng, trên mương, rạch. Số vịt được nuôi ở khu vực này chiếm trên 50% cả nước.
Cần phải có cánh đồng trồng cỏ dinh dưỡng cao, thay vì trâu bò thả rong ăn cỏ hay rơm rạ như hiện
nay.
Trên vùng đất cao dọc ven sông là nơi dành cho cây ăn trái, mà xưa nay vốn được gọi “Miệt Vườn”.
Tại vùng Cần Thơ, nông dân cải thiện vườn cây tạp bằng cách lên bờ bao chung quanh để tránh ngập
úng và hệ thống mương, liếp, để trồng cam, quit, bưởi. Đặc biệt chú trọng về cải thiện giống trái cây
hầu bắt kịp và cạnh tranh với Thái Lan trong lãnh vực này trên thị trường quốc tế. Ở vùng Cần Thơ,
trồng bưởi cho lợi tức khoảng 20 triệu đồng/ha/năm, cam khoảng 40 triệu đồng/ha/năm trong lúc lúa
chỉ lời 1 triệu đồng /ha/3 vụ lúa/năm. Tuy nhiên cam VN không có khả năng xuất cảng vì trái màu
xanh khi chín. Hiện tại, 90 % vườn vùng Cần Thơ là vườn tạp, đa số là chuối giống tạp, xen kẽ với
cam, quit, bưởi, vườn bị ngập nước trong mùa lụt. Cần phải cải tạo các vườn này, có bờ đê ngăn lụt,
có mương dẫn nước và cống giữ nước, và chuyên canh một loại cây ăn trái trên diện tích lớn theo
quy chế hợp tác mới có khả năng xuất cảng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mía cũng có thể phát triển nhiều hơn với điều kiện có giống tốt, năng xuất cao và độ đường cao, nhà
máy đường hiện đại và biết quản lý chương trình canh tác mía và nhà máy hợp lý mới có lời. Với kỹ
thuật hiện tại, chỉ huề vốn và thua lỗ. Năng xuất mía trung bình là 60-70 t/ha tùy năm với độ đường
trung bình quá thấp, 8 %, có nơi chỉ có 5 % độ đường. Tổng số diện tích trồng mía ở ĐBCLVN biến
thiên giữa 50.000 (hiện nay) và 87.000 ha (năm 2000) tùy theo giá mía của vụ trước.
Trên vùng đất phèn như Đồng Tháp Mười hay vừa phèn vừa giàu hữu cơ như ở vùng U Minh, phát
triển trồng khóm (dứa, nhóm Queen) đóng hộp. Hiện tại năng xuất biến thiên 10 – 20 t/ha/năm. 1 ha
9
dứa một năm có lợi tức từ 20 triệu tới 30 triệu đồng. Ở Hawaii, sau khi ép lấy nước đóng hộp, xác
thơm khóm được sấy khô pha với mật đường để làm thức ăn cho bò. Khoai mì cũng thích hợp trên
đất phèn.
Cây cacao hiện đang phát triển mạnh ở vùng Bến Tre. Trung bình 1 ha đất trồng xen cây ca cao với
dừa cho khoảng 1,5 tấn hạt (biến thiên giữ 1 và 2,5 tấn/ha), bán với giá trên dưới 23.000 đồng/kg.
Vào tháng 10/2009, giá cacao ở Bến Tre tăng tới 45.000 đồng/kg. Tập đoàn Cargill phân chất cho
biết chất lượng cacao Bến Tre có hàm lượng chất béo 55 % - 56 %, thuộc loại phẩm chất hàng đầu
châu Á. Có thể phát triển cho tới vùng Cân Thơ, trồng xen kẽ với cây ăn trái. Trước 1960, trồng ca
cao rất thành công ở vùng Cần Thơ, nhưng không tiêu thụ được đành đốn bỏ. Ngày nay, đã có nhiều
công ty mua thu góp hạt cacao ủ, như công ty ED & FMAN và Cargill.
4. Giữ nước ngọt trong đồng bằng.
Hiện nay, ngay vào đầu mùa hạn nước trong sông rạch đều cạn, nhiều vùng trong Đồng Tháp Mười,
Tứ Giác Long Xuyên và vùng duyên hải không có nước ngọt để uống, vì phèn hoặc nước mặn trong
sông rạch.
a. Thiết lập hệ thống cống đầu kinh
Lý do chánh, ngoài yếu tố sử dụng quá tải khả năng nước ngọt do sông Tiền, sông Hậu cung cấp cho
trồng lúa Đông Xuân ở đầu nguồn, các kinh dẫn nước từ sông chánh vào Đồng Tháp Mười và Tứ
Giác Long Xuyên chưa có hệ thống cống hữu hiệu để giữ nước. Vì vậy, nước lụt tràn vào nhanh, hết
lụt nước cũng chảy ra nhanh.
b.Vét nạo sông, kinh và rạch
Sông và kinh rạch hiện tại bị phù sa lắng tụ, dòng nước bị tắc nghẽn, trở nên cạn ở nhiều nơi. Sông
Tiền miệt Tân Châu bị cạn, tàu lớn không lưu thông được. Sông Vàm Nao cũng bị lắng tụ phù sa.
Ngành đóng tàu của Việt Nam hiện nay rất phát triển. Nên đóng nhiều tàu với xáng nhiều cỡ để nạo
vét lòng sông, và kinh rạch. Ở hạ lưu sông Mississippi, chính phủ cho phép tư nhân nạo vét sông và
kinh rạch để lấy đất bán cho các công trình xây cất đô thị trong vùng đầm lầy. Việc đô thị hóa nông
thôn ở ĐBCLVN cần một số đất rất lớn.
c. Thiết lập hồ chứa nước
Từ thời xa xưa người Phù Nam và người Khmer đã đào nhiều ao chứa nước ngọt. Vết tích những ao
hồ này còn thấy nhiều nơi có sắc tộc Khmer sinh sống, như Trà Vinh, Sóc Trăng, 7 hồ khá lớn ở
vùng đất cao Thất Sơn.
Trong mỗi thành phố ở ĐBCLVN, nơi thiếu nước ngọt, nhất là các thành phố khép kín bởi đê chống
lụt trong Đồng Tháp Mười, cần phải đào nhiều hồ tương tự như Ao Vàm Láng (Gò Công) đào năm
1993, dài 200 m, rộng 100 m, sâu 3 m, do cộng đồng Châu Âu tài trợ nhằm trữ nước mưa và nước
ngọt. Tại Mộc Hóa, một hồ nước được đào năm 1956.
Ngoài ra, cần biến một số đầm lầy, ao hồ, lung, bầu thiên nhiên thành hồ chứa nước ngọt. Chẳng
hạn:
Hồ nước ngọt Búng Bình Thiên (An Phú, Châu Đốc), là một hồ nước ngọt tự nhiên, có diện tích
khoảng 300 ha vào mùa hạn, khoảng 1.000 ha vào mùa nước nổi, độ sâu trung bình 4 m vào mùa
hạn, 7 m vào mùa mưa, có chỗ sâu 20 m. Cần phải có hệ thống đê và cống bao quanh để giữ nước.
10
Đông Hồ (Hà Tiên) hiện nay là một đầm nước lợ, có chiều dài 8 km, rộng 1,2 km, có thể biến thành
một hồ nước ngọt, lấy nước ngọt từ sông Giang Thành và kinh Vĩnh Tế (tương tự như tạo thành hồ
Ijsselmeer từ biển của Hòa Lan).
Vịnh Ông Trăng (Cà Mau) có chiều dài 8 km, rộng 1,7 km cũng có thể biến thành một hồ nước ngọt
cho vùng cực nam Cà Mau.
Trong Đồng Tháp Mười vùng thấp nhất vời nhiều đầm lầy nằm trong khu vực tứ giác giới hạn bởi
các kinh Kháng Chiến – Đồng Tiến – Phước Xuyên - Tân Thanh - Lò Gạch (20), có diện tích
khoảng 700 km2; trong số này hiện tại còn có trên 50.000 ha đất đầm lầy hoang vu không có dân cư.
Có thể biến vùng đầm lầy này thành một hồ trữ nước ngọt có khả năng tồn trữ 3 tỷ m3 nước.
U Minh vốn là vùng đất thấp gồm đầm lầy thuộc các tỉnh Kiên Giang (còn 50.000 ha đất đầm lầy
chưa khai thác), Hậu Giang (còn 770.000 ha chưa sử dụng), Bạc Liêu (18.893 ha đầm lầy chưa sử
dụng) và Cà Mau. Trong mùa mưa, nước ngập 3 m, nhưng bị cạn và nước mặn xâm nhập vào mùa
hạn. Cần phải có hệ thống đê bao quanh và hệ thống cống giữ và điều hòa mực nước, có khả năng
trữ trên 10 tỷ m3 nước.
Việc thiết lập các hồ chứa nước ngọt trong ĐBCLVN rất cần thiết, vì:
(i) cung cấp nước ngọt trong mùa hạn,
(ii) giúp nước thẩm lậu vào các túi nước ngầm gần kiệt quệ hiện nay,
(iii) giúp đồng bằng không bị lún sụp, và
(iv) bảo vệ môi trường, sinh thái tự nhiên.
d. Sử dụng nước mưa
Với vũ lượng trên 1.600 mm mưa/năm, ngày xưa người dân thường tích trữ nước mưa để sinh hoạt.
Nay nên khuyến khích lại việc tích trữ nước mưa trong các thùng (tank) bằng kim loại hay bằng
nhựa hay trong hầm ngầm tráng xi măng. Ngay cả các quốc gia tiến bộ và giàu có như Australia,
người dân trong thành phố (như Brisbane) cũng đã phải tích trữ nước mưa rất hiếm hoi cho sinh
hoạt.
e. Gia tăng nước trong túi nước ngầm (aquifer)
Dân chúng trong ĐBCLVN sử dụng nước ngầm, không những cho sinh hoạt, mà còn cho mục đích
nông nghiệp và kỹ nghệ. Vùng bán đảo Cà Mau là vùng có nhiều giếng nhất, Cà Mau có 178.000
giếng, Bạc Liêu có 98.000 giếng. Riêng tại Cần Thơ có 32.000 giếng khoan cỡ nhỏ của hộ gia đình
với công suất khoảng 5 m3/ngày, hơn 300 giếng cỡ trung bình công suất khoảng 500 m3/ngày cho
trạm cấp nước nhỏ và 20 giếng qui mô lớn công suất trên 100 m3 /ngày để cấp nước cho sinh hoạt và
công nghiệp (9). Ước tính tổng lượng nước ngầm hiện đang khai thác sử dụng toàn vùng khoảng 1
triệu m3/ngày nhưng hầu hết các địa phương trong vùng đều chưa có quy hoạch khai thác, sử dụng,
và bảo vệ nước ngầm. Hiện tại, ở vùng Cà Mau, nước ngầm đã giảm sâu thêm 12 -15 m. Nếu tiếp
tục bơm nước ngầm sử sụng như hiện nay sẽ có 3 nguy cơ lớn:
(i) nước ngầm sẽ cạn kiệt
(ii) đồng bằng sẽ bị lún sụp và hậu quả nước biển dâng cao sẽ trầm trọng thêm, và
(iii) nước mặn sẽ xâm nhập vào túi nước ngầm.
Trong ĐBCLVN có 5 loại túi nước ngầm chính phân theo tuổi địa chất từ thời Holocene đến Upper
Myocene (32), đa số và quan trọng là túi nước ngầm bị nhốt (confined aquifers) ở độ sâu bên dưới
lớp sét ít thấm nước. Loại túi nước ngầm thời Upper-Middle Pleistocene, là loại giếng ở tầng cát thô
đến nhuyễn tập trung ở vùng Bắc và Nam của đồng bằng. Bên dưới là túi nước ngầm trong lớp sạn
11
đến cát của thời Lower Pleistocene, cung cấp nước có phẩm chất cao và cho nhiều nước. Dân chúng
trong ĐBCLVN hiện khai thác nước ngầm từ túi thời Pleistocene. Trong ĐBCLVN nước ngầm
trong túi được đầy (một phần nhỏ) lại trong mùa mưa lụt do nước thấm qua đất từ các nguồn nước
mưa, sông, rạch, ao, hồ.
Nghiên cứu trong 5 năm tại Cần Thơ cho biết mực nước ngầm của tầng Pleistocene bị ảnh hưởng
nhiều bởi chế độ thủy triều sông Hậu. Giếng ngầm tầng Holocene cách sông Hậu 1 km không bị ảnh
hường, nhưng giếng tầng Pleistocene thì bị ảnh hưởng nhiều. Các giếng xa sông Hậu 3 km ít bị ảnh
hưởng hơn (9).
Cần nghiên cứu các túi nước ngầm, sự chuyển vận nước ngầm và khả năng bơm nước sạch (sau khi
khử và làm sạch nước) của nước mưa hay sông hồ trong mùa lũ vào các túi nước ngầm để duy trì
nước ngầm, và ngăn chặn sự lún sụp của đồng bằng. Nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ có các công trình gọi
là Aquifer Storage and Recovery (ASR) đã thực hiện bơm nước sạch trong mùa nước dư thừa (từ
tuyết tan, nước mưa, nước hồ trong mùa mưa) vào các túi nước ngầm, để sử dụng vào mùa hạn. Luật
lệ khắc khe quy định là trước khi bơm vào túi nước ngầm, nước phải được biến chế thành tiêu chuẩn
sạch của nước uống để không gây ô nhiễm cho túi nước (29)
5. Chuyển nước sông Hậu vào U Minh
Hiện tại, lụt được giảm thiểu ở Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên nhờ hệ thống đê và kinh
đào hiện tại. Tuy nhiên, ngập lụt lại xảy ra trầm trọng hơn ở các tỉnh hạ nguồn từ miệt ranh giới An
Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An vì nước thóat không kịp ra biển Đông. Cần
chuyển lượng nước này vào hồ chứa U Minh bằng cách nới rộng và sâu hơn các hệ thống kinh đào
hiện có nối Hậu Giang với bán đảo Cà Mau và U Minh, như kinh Ô Môn, kinh Xà No.
6. Ngăn chận nước biển dâng cao, nước mặn xâm nhập
Không đột ngột như nước lũ, nước biển dâng cao từ từ, phải mất hàng trăm năm mới dâng cao từ 20
cm đến 60 cm,. Nước mặn hiện tại đã xâm nhập nhanh và sâu vào nội địa. Đây là một nguy cơ lớn
và cấp thời phải giải quyết.
Biện pháp làm đập, như đập Ba Lai, trên tất cả cửa biển cho mọi con sông lớn và nhỏ trong
ĐBCLVN không ổn, vì các lý do:
(i) ĐBCLVN bị khép kín, không còn bị ảnh hưởng của thuỷ triều, tác động rất lớn vào môi
sinh, đời sống động thực vật và con người, và tạo ô nhiễm nước bên trong.
(ii) Lưu thông của tàu thuyền gặp nhiều khó khăn với loại đập Ba Lai hay “âu thuyền” Tắc
Thủ. Xây dựng những loại đập tân tiến như hệ thống Cống-chống-lụt trên sông Thames của
Anh quốc, hay trên đê biển Afsluitdijk của Hòa Lan thì quá tầm tài chánh, kỹ thuật và quản
lý của Việt Nam.
Một giải pháp thích hợp nhất, vừa chống mặn xâm nhập trên sông, vừa duy trì ảnh hưởng của chế độ
thuỷ triều của biển Đông, vừa duy trì sinh môi mặn của vùng duyên hải, vừa thuận lợi cho tàu bè lớn
lưu thông là áp dụng kiểu đập ngầm (underwater sill) trên sông Mississippi của Hoa Kỳ. ĐBCLVN
về mặt thuỷ tính tương tự như hạ lưu sông Mississippi của Hoa Kỳ
Trên sông Mississippi, nước biển xâm nhập vào khoảng 96 km (gần Myrtle Grove) kể từ cửa biển,
cách New Orleans khoảng 64 km, là nơi bắt đầu có 13 công trình cấp nước sinh hoạt cho thành phố
New Orleans, với số lượng 1,8 triệu m3/ngày với tiêu chuẩn lượng chloride dưới 250 ppm (phần
triệu). Đây cũng là đoạn sông tàu lớn lưu thông dập dìu nhất trên thế giới. Công binh Hoa Kỳ tìm
một biện pháp hữu hiệu vừa ngăn chận nước mặn vừa cho phép tàu lớn lưu thông dễ dàng, mà lại rẻ
tiền so với cách làm đập nổi có cống ngăn mặn thông thường. Đó là việc thiết lập đập ngầm
(underwater berm, underwater sill) (21).
12
Vì nước mặn có tỉ trọng (1,03) lớn hơn nước ngọt (tỉ trọng 1,0), nên nằm ở bên dưới lớp nước ngọt.
Vì là dòng nước chảy, nước ngọt ở trên, nước mặn ở đáy, tạo thành một “lưởi nước mặn” (Salt
wedge). Hình dáng và vị trí lưỡi nước mặn thay đổi theo lưu lượng nước chảy.
Tiết diện lưỡi nước mặn
Nếu lưu lượng cao, dòng chảy xiết (mùa lụt), lưỡi nước mặn ở gần phía cửa biển. Nếu lưu lượng
thấp (mùa khô hạn), lưỡi nước mặn tiến sâu vào nội địa. Với dòng chảy lưu lượng 8.500 m3/s
(300.000 cfs), nước mặn ở ngoài cửa biển Southwest Pass. Khi lưu lượng giảm xuống 7.079 m3/s
(250.000 cfs), nước mặn xâm nhập đến Head of Pass là nơi có nhiều nhánh sông chảy ra biển. Vào
năm hạn hán, như năm 1988 hay trong thập niên 1930s, lưu lượng dòng chảy chỉ còn 2.831 m3/s
(100.000 cfs), lưỡi nước mặn đến New Orleans (cách biển 160 km). Lưỡi nước mặn có thể di chuyển
từ 3 đến 5 km/ngày, xuôi dòng hay ngược dòng tùy lưu lượng dòng chảy.
Tương quan giữa lưu lượng dòng chảy và vị trí lưỡi nước mặn trên sông Mississippi
Sau nhiều năm nghiên cứu, cùng với tài liệu đo đạc trong quá khứ, Công Binh Hoa Kỳ quyết định
thiết lập một đập ngầm (underwater sill) xuyên qua sông tại vị trí cách biển khoảng 100 km, gần
Myrtle Grove, cách New Orleans 60 km ở phía nguồn. Ngày bắt đầu khởi công đào vét là ngày
1/7/1988, vào ngày này đáy lưỡi nước mặn ở vị trí 128 km cách cửa biển (vượt quá nơi đập ngầm 28
km).
13
Vị trí nơi thiết lập đập ngầm
Đập ngầm được xây cách mặt nước 14,1 m (để tàu lớn thông thương), có chiều dài 500 m ở khúc
sông rộng 600 m. Từ mặt đập đến đáy sông là 13,5 m, mặt đập rộng 13,5 m, đáy đập rộng 34,5 m,
tổng số vật liệu bơm đấp đập là 649.868 m3/ (850.000 cu yd). Công tác hoàn thành trong 4 tuần lễ
(ngày 1/8/2008). Tổn phí 790.000 USD (giá năm 1988) (21).
Công trình này bảo đảm nước ngọt cho thành phố New Orleans, đồng thời tàu lớn ra vào tấp nập trên
đập. Về phía hạ nguồn của đập ngầm thì chứa nước lợ. Để cung cấp nước ngọt cho một số ít cư dân
ở hạ nguồn, dùng tàu chở nước ngọt tiêu chuẩn từ New Orleans đến hạ nguồn.
Đập ngầm chận nước mặn xâm nhập nhưng tàu lớn lưu thông được
Chỉ cần một đập ngầm trên sông Hậu ở vị trí từ khoảng giữa Cù Lao Dung và Trà Ôn bảo đảm được
lưu thông tàu hàng lớn đến cửa Định An, đồng thời ngăn chặn được nước mặn xâm nhập quá vị trí
Trà Ôn.
Cũng vậy trên sông Tiền, chỉ cần 2 đập ngầm trên sông Cổ Chiên (khúc đầu sông Láng Thé với Cổ
Chiên) và sông Mỹ Tho (đoạn giữa cù lao ấp Tam Hiệp, nơi tiếp giáp sông Cửa Tiểu và sông Mỹ
Tho, và Mỹ Tho).
Để ngăn chận nước mặn xâm nhập vào sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây, thiết lập một đập
ngầm tại Tân Trụ.
Dĩ nhiên cần phải nghiên cứu thuỷ tính, nhất là sự di chuyển của lưỡi mặn.
Trên các cửa sông, cửa biển mà giao thông hàng hải không quan trọng lắm, ngoài ghe tàu nhỏ, nhất
là cống đập ở các đầu kinh lớn trên sông chánh, và dọc theo đê duyên hải, thiết lập các Cống đập
14
kiểu Sà-Lan, một thiết kế mới do Viện Thủy Lợi nghiên cứu thành công (30). Lợi điểm của loại
cống đập sà-lan là rẻ tiền, dễ tháo ráp để di chuyển được đến vị trí mới, và ghe tàu qua lại được (30).
7. Thiết lập đê biển
Đây là một dự án lâu dài, bền vững dọc theo biển Đông và biển Tây để đáp ứng với nước biển dâng
cao. Cần phải hệ thống hóa thiết kế đê biển theo tiêu chuẩn, không thể rời rạc như hiện nay. Một
cách tổng quát, biển Đông và biển Tây rất hiền hòa, ít bảo tố so với vịnh Mexico của hạ lưu
Mississippi, North Sea của Hòa Lan, vịnh Bengal của Bangladesh, hay ngay cả với vịnh Bắc Việt,
thường có nhiều trận bảo với độ tàn phá cao. Hiện tại, tạm thời thiết lập đê bằng đất có đường mặt
khá rộng dùng làm đường lộ giao thông, hai bên bờ trồng cỏ Vetiver chống soi mòn do gió và sóng
biển, như vài đoạn của tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện. Điều quan trọng là phía biển phải trồng rừng
ngập mặn tối thiểu cũng vài trăm mét chiều rộng để cản sức sóng và giúp lắng tụ phù sa biển. Trong
tương lai trước mắt, đê này sẽ thành xa lộ dọc biển nối từ Vũng Tàu đến cửa Bồ Đề, dọc theo bờ bắc
sông Cửa Lớn đến vịnh Ông Trang, rồi dọc theo bờ biển Tây đến Hà Tiên, nối liền với xa lộ N1 dọc
biên giới Việt Cambodia.
Trên vùng biển bị soi mòn nhiều do dòng chảy của biển, như vùng Bồ Đề, cần thiết lập tường-thẳng-
góc (groins) bằng đá hay gỗ đặt thẳng góc với bờ biển, để chặn hay giảm sức sóng, giảm dòng chảy
để phù sa lắng đọng ngay chân tường.
8. Phát triển hệ thống đường thuỷ và hải cảng quốc tế
Phải quan niệm thuỷ lợi trong khung cảnh phát triển kinh tế và quốc phòng chung cho ĐBCLVN
như thời nhà Nguyễn đã quan niệm, không chỉ hạn hẹp trong lợi ích thuỷ nông mà thôi.
Việc tối tân các cảng Cần Thơ, và các cảng ở các thành phố ven sông như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cao
Lảnh, Long Xuyên, Năm Căn Cà Mau, v.v. và cảng Hà Tiên, Rạch Giá, trên biển Tây là cần thiết,
cũng như nạo vét sông Tiền, sông Hậu, cửa Định An, các kinh Vàm Xáng, Vĩnh Tế, Cái Sắn, Xà No,
để tàu hàng trọng tải lớn có thể từ biển Đông đến biển Tây, đến các cảng lớn trong ĐBSCL, đến
Nam Vang, Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Nhờ sự giao thương rộng mở, kinh tế ĐBCLVN mới có
cơ hội phát triển được.
Trong hội nghị thượng đỉnh giữa Nhật và các quốc gia trong tiểu vùng Mekong gồm Việt Nam,
Cambodia, Lào, Miến Điện và Thái Lan từ ngày 6 đến 8 tháng 11 năm 2009, chánh phủ Nhật cam
kết dành 5,5 tỉ đôla Mỹ trong ba năm cho năm nước khu vực sông Mekong, với khoản vay lãi thấp,
cho các dự án như đường cao tốc kết nối khu vực, dự án nước và đào tạo công nghệ (2). Đây là một
dịp may mà Việt Nam phải chụp cơ hội để phát triển ĐBCLVN.
CẢM TẠ: Tác giả chân thành cảm tạ Giáo sư Tôn Thất Trình (Hoa Kỳ), Giáo sư Thái Công Tụng
(Canada) đã đọc bản thảo và cho nhiều ý kiến quí giá. Tác giả không quên cám ơn Ông Trần Công
Bình (Tân Châu), Bác sĩ Nguyễn Thái Thới (Mộc Hóa) và một số cựu sinh viên Đại Học Nông
Nghiệp Cần Thơ, học viên Trung Học Nông Lâm Súc Cần Thơ đã cung cấp tài liệu, báo chí trong
nước, hướng dẫn quan sát và thu thập dữ kiện tại địa phương.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anonymous (2005). Global warming and Vietnam.
2. BBC ngày 7/11/2009.
3. Dương văn Chín (2008). Tưới nước tiết kiệm cho lúa Đông Xuân ở đồng bằng sông Cửu Long.
Báo Nông Nghiệp Việt Nam ngày 23/1/2008.
4. Đặng Kim Sơn (2008). Thủy lợi và phát triển nuôi trồng thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
5. FAO 1998. Flood management and mitigation in the mekong river basin.
6. Kỷ Quang Vinh (2008). Lower Mekong Delta and climate change: site and areas vulnerable to
climate change. PPS. www.eepsea.cc-sea.org/pages/ppt/C02_KyQuangVinh.pdf
7. Kỷ Quang Vinh (2009). 10 năm môi trường thành phố Cần Thơ.
8. Kỷ Quang Vinh (2009). Cantho city climate change and resilience works. Seminar held by the
University of Can Tho, 5 October 2009
9. Kỷ Quang Vinh, Lương Hồng Tân & Thomas Nuber (2009). Một số vấn đề trong sử dụng nước
ngầm ở thành phố Cần Thơ.
10. Lê Anh Tuấn. Các đập nước và hồ chứa ở thượng nguồn:có hay không nguy cơ môi sinh tiềm ẩn
cho hạ nguồn sông mekong?
11. Lê Công Lý (2009). Lịch sử kinh Nguyễn Văn Tiếp ở Đồng Tháp Mười.
12. Mekong River Commission (1997).
13. Mekong River Commission (November 2005) Overview of the hydrology of the Mekong Basin
14. Mekong River Commission (2006). Mekong Hydrological, Environmental and Socio-Economic
Modelling Tools for the Lower Mekong Basin Impact Assessment. WUP-FIN Phase 2 Final Report
– Part 2: Research, Findings and recommendationst
15. Nguyễn Hửu Thái (2008). Đồng bằng Cửu Long – một cái nhìn từ bên ngoài.
16. Nguyễn Minh Quang (1999). Đại Cương Về Xâm Nhập Nước Mặn tại DBSCL.
17. Nguyễn Minh Quang. 2003. Hydrologic impacts of china’s upper mekong dams on the lower
mekong river.
18. Nguyễn Minh Quang (2006). Những vấn đề thủy lợi ở ĐBCLVN. 7 Phần.
19. Ngô Trọng Thuân. Dòng chảy mùa cạn ơ đồng bằng sông Cửu long. Tuyển tập báo cáo Hội
thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
20. Thái Chí Bình (2006): Thử xác định vị trí hai túi nước của Miền Tây Nam Bộ.
21. Timothy L. Fagerburg; Michael P. Alexander (1994). Underwater Sill Construction for
Mitigating Salt Wedge Migration on the Lower Mississippi River. Miscellanous paper HL 94-1.
22. Tôn Thất Trình (2008). Phì diệp biển nuôi trồng bằng nước biển làm rau và nhiên liệu sinh học
chăng?
23. Tôn Thất Trình (2009). Những hướng phát triển tỉnh Trà Vinh.
24. Tôn Thất Trình (2008). Xây dựng Hành Lang Xuyên Á Việt Thái Miên thứ hai, nối Biển Đông
Việt Nam với biển Andaman Miến Điện, và đẩy mạnh phát triễn tỉnh Tây Ninh.
25. Tran Thuc and Hoang Minh Tuyen Hydraulics computations for the lower Mekong river basin to
study flood drainage for the plain of reeds in Vietnam:
16
26. UNDP (2008). Viet Nam’s Community Based Adaptation
Country Programme Strategy (CBA CPS).
27. Văn Hửu Huệ. Những thách thức cho phát triển thủy lợi ĐBSCL.
28. Vô danh (2008). Đồng bằng sông Cửu Long: Kim ngạch xuất nhập khẩu cá tra, ba sa đạt 1,250
tỷ USD:
29. Vô danh (2009). Aquifer storage and Recovery.
30. Vô danh (2009). Công nghệ đập sà lan – một giải pháp thủy lợi cho vùng lũ. Nhân Dân, ngày
11/11/2009.
31. Whetton, P.1994. Constructing climate scenarios: the practice. In: Climate Impact Assessment
Methods for Asia and the Pacific [Jakeman AT and AB Pittock (eds)]. Proceedings of a regional
symposium, Australian International Development Assistance Bureau, 10-12 March 1993, Canberra,
Australia, pp 21-27.
32. Ian White (2002) Water management in the Mekong Delta: Changes, conflicts and opportunities.
Technical Documents in Hydrology, No 61.UNESCO, Paris, 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nc_giaiphapthuyloi_3688.pdf