This paper aims to introduce the employment of mind maps and six thinking hats to training
text composition skills for primary education students at Kien Giang Community College.
The empirical outcomes show that guiding students to learn these two techniques for idea
brainstorming has contributed to the improvement of learners’ brainstorming and
cooperative skills.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng bản đồ tư duy và 6 chiếc nón tư duy hướng dẫn sinh viên tìm ý tưởng trong quá trình tạo lập văn bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
63
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀ 6 CHIẾC NÓN TƯ DUY HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN TÌM Ý TƯỞNG TRONG QUÁ TRÌNH TẠO LẬP VĂN BẢN
Phan Thị Quỳnh Như1, Nguyễn Thị Hồng Nam2*
1Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
2Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ
TÓM TẮT
Bài viết này nhằm giới thiệu việc sử dụng Bản đồ tư duy (BĐTD) và sáu chiếc nón tư duy (CNTD)
vào việc rèn kỹ năng tạo lập văn bản cho sinh viên lớp Cao đẳng Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang. Kết quả thực nghiệm cho thấy việc hướng dẫn sinh viên học tập theo 2 kỹ thuật
BĐTD và 6 CNTD trong việc tìm ý tưởng trước khi viết đã góp phần việc nâng cao kỹ năng tìm ý
tưởng, kỹ năng hợp tác cho người học.
Từ khóa: Bản đồ tư duy, sáu chiếc nón tư duy, tìm ý tưởng, hợp tác
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tạo lập văn bản là một nghệ thuật đòi hỏi
người viết (NV) phải có ý tưởng sáng tạo. Ý
tưởng sáng tạo là sự khởi đầu cho sản phẩm
viết thành công, nói như vậy chúng tôi không
có ý phủ nhận các yếu tố khác tạo nên chất
lượng cho bài viết. Nhưng có thể nói trong
công việc viết văn thì việc tìm ý tưởng trước
khi viết là cực kì quan trọng vì thông qua việc
tìm ý tưởng, NV đã định hướng các ý cần viết
và thể hiện các năng lực tư duy (tư duy logic,
sáng tạo và tư duy phê phán). Kĩ thuật Bản đồ
tư duy (BĐTD) và 6 chiếc nón tư duy (6
CNTD) rất phù hợp với việc giúp NV tìm ý
tưởng trước khi viết. Chúng tôi đã vận dụng
hai kĩ thuật dạy học trên để hướng dẫn sinh
viên (SV) trong quá trình tạo lập văn bản và
đã thu được một số kết quả bước đầu.
BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀ SÁU CHIẾC NÓN
TƯ DUY
BĐTD (mindmap) là kĩ thuật do Tony Buzan
phát kiến năm 1960. Vậy Bản đồ tư duy là gì?
“Bản đồ tư duy là phương pháp kết nối mang
tính đồ họa có tác dụng lưu trữ, sắp xếp và
xác lập ưu tiên đối với mỗi loại thông tin
(thường là trên giấy) bằng cách sử dụng từ
hay hình ảnh then chốt hoặc gợi nhớ nhằm
làm “bật lên” những kí ức cụ thể và phát sinh
các ý tưởng mới. Mỗi chi tiết gợi nhớ trong sơ
đồ tư duy là chìa khóa khai mở các sự kiện, ý
tưởng và thông tin, đồng thời khơi nguồn tiềm
năng của bộ não kì diệu” [4; tr.158]. BĐTD
giúp chúng ta thể hiện, tổ chức thông tin dưới
dạng trực quan rõ ràng, hiệu quả.
*
Tel: 0918486086
6 CNTD (six thinking hats) là một kỹ thuật
nhằm tập trung suy nghĩ của mọi người vào
cùng một vấn đề do Edward de Bono đề xuất
năm 1985. Sáu chiếc nón với 6 màu khác
nhau biểu tượng cho các kỹ thuật tư duy khác
nhau. Nón trắng biểu tượng cho việc tìm
kiếm thông tin; nón đỏ thể hiện cảm giác của
con người đối với vấn đề; nón vàng biểu
tượng cho mặt tích cực của vấn đề; nón đen
biểu tượng cho những hạn chế của vấn đề;
nón xanh lá cây biểu tượng cho việc khuyến
khích sự tìm kiếm, sáng tạo, nón xanh dương
biểu tượng cho sự kiểm soát quá trình tư duy.
Olivier Serrat (2009) cho rằng “Nhiều người
thường tư duy về sự vật từ góc độ phân tích,
phê phán, logic mà ít khi nhìn sự vật từ góc
độ tình cảm, trực giác hoặc từ nhìn thấy mặt
hạn chế của vấn đề. Điều này dẫn đến kết quả
là cách nhìn sự vật của họ thiếu sự tưởng
tượng, đánh giá không đúng mức những cản
trở/rào cản đối với sự thay đổi, hoặc không
vạch ra được những kế hoạch để đối phó với
những bất ngờ có thể xảy ra” [5, tr.1]. Như
vậy, kỹ thuật 6 CNTD giúp chúng ta biết cách
tư duy, cách nhìn vấn đề dưới nhiều góc độ,
kỹ năng hợp tác trong nhóm, và đó cũng là
những kỹ năng sống mà người học cần được
phát triển trong nhà trường.
Dưới đây là kết quả thực nghiệm (TN) của
việc kết hợp sử dụng 2 kỹ thuật trên trong quá
trình hướng dẫn SV tìm ý tưởng trong quá
trình tạo lập văn bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
64
THỰC NGHIỆM VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
THỰC NGHIỆM
Đối tượng và số tiết thực nghiệm
Đối tượng TN của chúng tôi là 44 SV lớp
30A Cao đẳng Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang. Số tiết TN là 5 tiết học
phần Tiếng Việt thực hành, chương Rèn kĩ
năng tạo lập văn bản.
Mục tiêu thực nghiệm
Tiến hành TN này, chúng tôi nhằm mục tiêu
rèn năng lực tư duy sáng tạo, thói quen nhìn
vấn đề dưới nhiều góc độ, năng lực hợp tác
giữa các thành viên trong nhóm.
Tiến trình thực nghiệm
Để giúp SV biết cách tìm ý tưởng trước khi
viết bằng việc kết hợp sử dụng BĐTD và 6
CNTD, chúng tôi đã có một buổi giới thiệu và
làm mẫu cho SV về cách trình bày ý tưởng
bằng BĐTD, cách sử dụng 6 CNTD để làm
việc trong nhóm. Sau đó, các tiết TN được
tiến hành theo trình tự:
- Hoạt động 1: Chia SV theo nhóm,
6SV/nhóm, mỗi nhóm chọn một trưởng nhóm
và một thư kí. Nhóm trưởng có trách nhiệm
quản lý nhóm sao cho mỗi thành viên đều có
cơ hội phát biểu ý kiến, thư kí có nhiệm vụ
ghi lại các ý tưởng của nhóm.
- Hoạt động 2: GV giao đề tài cho các nhóm
và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0 và một
hộp bút chì màu.
- Hoạt động 3: GV yêu cầu các nhóm tưởng
tượng mình đang lần lượt đội 6 CNTD, suy
nghĩ và đưa ra ý kiến về đề tài đã được giao.
Cụ thể là: SV tưởng tượng họ đang đội chiếc
nón màu trắng để trả lời câu hỏi: chúng ta đã
có thông tin gì về chủ đề này, còn thiếu những
thông tin gì? Nên tìm thông tin ở đâu?; đội
nón màu đỏ để trải nghiệm cảm giác: thích
hay không thích chủ đề này?; đội chiếc nón
màu vàng để suy nghĩ về giá trị hoặc những
mặt tích cực, ưu điểm của vấn đề đang thảo
luận; đội chiếc nón màu đen để suy nghĩ về
mặt tiêu cực, hạn chế của vấn đề; nón màu
xanh lá cây biểu tượng cho sự sáng tạo, biện
pháp giải quyết những mặt tiêu cực của vấn
đề; với chiếc nón màu xanh dương, các
thành viên sẽ cùng tóm tắt nội dung thảo
luận, rút ra kết luận, lập kế hoạch thực hiện.
Ý tưởng của cả nhóm được thể hiện bằng
BĐTD.
- Hoạt động 4. Các nhóm trình bày bản phác
thảo ý tưởng của nhóm.
- Hoạt động 5: Thảo luận chung trên lớp về
các sản phẩm.
Kết quả và đánh giá kết quả
Các sản phẩm chúng tôi thu được qua 5 tiết
TN là: 6 sản phẩm của các nhóm, 5 bản tốc ký
cuộc thảo luận nhóm, ý kiến của SV về hiệu
quả của việc sử dụng BĐTD và 6 CNTD
trong quá trình tạo lập văn bản, phiếu dự giờ
của GV.
Sản phẩm của sinh viên
Dưới đây là 2 ví dụ về sản phẩm của SV.
Ví dụ 1. Thuyết minh về sản phẩm nước
mắm Phú Quốc
Sau khi cho SV ôn lại lý thuyết về văn thuyết
minh (đã học ở lớp 10), chúng tôi cho các
nhóm sử dụng kỹ thuật 6 CNTD và BĐTD để
phác thảo ý tưởng cho đề tài “Thuyết minh về
nước mắm Phú Quốc”. Cuộc thảo luận của
nhóm 4 diễn ra như sau:
- Nhóm trưởng Phượng Loan đề nghị các bạn
tưởng tượng mình đang đội chiếc nón màu
trắng và nêu câu hỏi: “Các bạn có thông tin,
hiểu biết gì về sản phẩm nước mắm của tỉnh
ta?”. SV Thanh cho rằng: “Đây là sản phẩm
nổi tiếng của Phú Quốc”; ý kiến của Phượng
Loan: “Nước mắm Phú Quốc là món ăn bổ
dưỡng trong bữa ăn gia đình người Việt”.
Nhóm trưởng tiếp tục điều khiển nhóm: “Thế
ý kiến của Tèo thế nào?” Tèo suy nghĩ rồi trả
lời: “Theo mình, cách chế biến cũng công phu
lắm”. Tèo nêu thêm câu hỏi “Xuất xứ của nó
thì thế nào?”. Nhóm trưởng đề nghị: “Chúng
ta phải lên mạng lấy thêm các thông tin khác
như quá trình chế biến, cách sản xuất nhé!”
- Nhóm trưởng chuyển sang chiếc nón màu
đỏ: Cảm giác của các bạn về chủ đề này? Các
bạn thích hay không thích?”. Tất cả cùng nói:
“Mình thích!”. Nhóm trưởng tiếp tục đặt câu
hỏi: “Tại sao các bạn thích?” Phong Sương
trả lời: “Vì chủ đề rất gần gũi, hơn nữa, đây
là sản phẩm của tỉnh mình mà!”, Mỹ Linh bổ
sung “nước mắm là món ăn hàng ngày của
mỗi gia đình Việt Nam, sao ta lại có thể
không thích nước mắm!”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
65
- Phượng Loan đề nghị: “Chúng ta cùng đội
nón màu vàng! Ta nghĩ đến mặt ích lợi của
sản phẩm này nào!”. Tèo cho ý kiến: “Theo
mình, nước mắm rất bổ dưỡng vì hàm lượng
đạm rất cao cần thiết cho sức khỏe. Sản
phẩm này còn thể hiện văn hóa ẩm thực rất
riêng của người Việt”. Hằng Nghi bổ sung:
“Theo mình biết nước mắm của tỉnh mình
không những được nhiều người dân trong
nước tin dùng mà sản phẩm này còn được
xuất khẩu sang nước ngoài cho kiều bào
mình bên đó dùng nữa, góp phần tạo nên
giá trị kim ngạch cho nền kinh tế nước ta.”
Nhóm trưởng hỏi tiếp: “Các bạn còn có ý
kiến khác nữa không? Nếu không, chúng ta
qua chiếc nón màu đen nghe!”
- Nhóm trưởng nói:“Ta đội nón màu đen nhé.
Thế mặt tiêu cực, hạn chế là gì nhỉ? Vấn đề
này khó phải không các bạn?”. Mỹ Linh bây
giờ mới có ý kiến: “Vấn đề này chắc chúng ta
cần lấy thông tin thêm trên mạng nhưng mình
nghe mẹ mình nói nếu người sản xuất cho
phân đạm, nồng độ chất bảo quản cao hơn
cho phép thì rất có hại cho sức khỏe người
tiêu dùng”. Tèo phát biểu “Tôi sợ là ta không
có đủ thông tin về vấn đề này”. Phong Sương
bổ sung “Nếu người sản xuất không tuân thủ
theo quy định chung thì vấn đề ô nhiễm môi
trường là không tránh khỏi”.
- Nhóm trưởng tiếp tục đề nghị đội chiếc nón
màu xanh lá cây để suy nghĩ về câu hỏi “Vậy
ta có biện pháp gì để có thể thu thập được
đầy đủ thông tin?” Thanh đề xuất: “Ta sẽ tìm
trên mạng, đọc trên báo, riêng tôi sẽ về hỏi
ông chú tôi là người sản xuất nước mắm để
có thêm thông tin”.
- GV đề nghị các nhóm chốt lại vấn đề đang
thảo luận (nón màu xanh dương). Nhóm
trưởng gợi ý: Chúng ta đã thảo luận về cái
gì? Thông tin nào chúng ta đang thiếu? Bản
phác thảo của chúng ta sẽ gồm mấy ý?”. Cả
nhóm thống nhất là bản phác thảo sẽ có các ý:
thông tin về nước mắm, mặt tích cực, hạn chế,
tình cảm đối với sản phẩm này. Nhóm giao
cho Phong Sương, người khéo tay nhất vẽ
BĐTD (hình 1).
Hình 1. Phác thảo ý tưởng của nhóm 4
Cuộc thảo luận cho thấy các SV đã “công
não” một cách tích cực. Mặc dù các ý kiến
của nhóm chưa thật sự phong phú nhưng chủ
đề “nước mắm Phú Quốc” đã được nhóm
nhìn nhận dưới nhiều góc độ, nhận ra được
mặt tích cực cũng như mặt hạn chế của vấn
đề, đồng thời đề xuất biện pháp tìm thông tin.
Qua đó, thể hiện năng lực phân tích, đánh giá
vấn đề, khả năng kiểm soát cuộc thảo luận để
đi đến kết luận về nội dung bản phác thảo.
Trong cuộc thảo luận, SV còn thể hiện kỹ
năng hợp tác, trợ giúp lẫn nhau, tinh thần
trách nhiệm và sự chia sẻ thông tin.
Bản phác thảo của nhóm 4 vừa thể hiện năng
lực tư duy logic (nhìn sự vật từ góc độ phân
tích, phê phán) vừa thể hiện cảm xúc yêu
thích, tự hào của SV về sản phẩm nước mắm.
Với bản phác thảo này, chắc chắn bài viết của
SV về đề tài này sẽ đủ ý, các ý được sắp xếp
logic và thể hiện tình cảm của các em với đặc
sản quê hương.
Ví dụ 2. Internet trong đời sống
Với đề tài này, GV hướng dẫn các nhóm sử
dụng 6 CNTD để thảo luận với các câu hỏi
gợi ý như “Chúng ta đã có thông tin, hiểu biết
gì về mạng Internet?Cần tìm thêm thông tin
gì? (nón màu trắng), “Cảm giác của các bạn
về chủ đề này?, Các bạn thích hay không
thích sử dụng Internet?” (nón màu đỏ); “Mặt
tích cực, ưu điểm của Internet là gì? (nón
màu vàng); “Mặt tiêu cực, hạn chế của
Internet?” (nón màu đen); “Với đề bài này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
66
ta cần trình bày những ý nào, có cần sưu tầm
hình ảnh hay không? Nếu có, là hình ảnh về
cái gì?”; (nón màu xanh lá cây); cuối cùng là
câu hỏi tóm tắt nội dung thảo luận, lập kế
hoạch thực hiện ’Thông tin nào chúng ta đang
thiếu? Ai sẽ là người tìm thông tin? Cần phác
thảo BĐTD như thế nào?” nón xanh dương .
Bản phác thảo của nhóm 3 (hình 2) thể hiện
rõ các ý tưởng mà SV sẽ thể hiện trong bài
viết, đó là (1) những thông tin về Internet với
các ý lịch sử hình thành, các phiên bản, tỷ lệ
người sử dụng; (2) điểm tích cực của Internet
với các luận chứng: tính năng, lướt web, góp
phần phát triển kinh tế, mạng xã hội; (3) hạn
chế của internet là game online gồm các luận
chứng: thời gian, sức khỏe, tiền, tệ nạn xã hội;
(4) sự yêu thích của người viết với internet vì
sự phổ biến, sự gần gũi và mở rộng của nó.
Mặc dù có một số luận chứng chưa thật rõ
ràng (sự mở rộng, rộng rãi) nhưng việc sử
dụng 6 CNTD đã giúp SV hình thành những ý
tưởng và cảm xúc về Internet, những ý tưởng
đó được định hình trong một “bức tranh”
bằng việc sử dụng BĐTD. Với bản phác thảo
trên, bài viết của SV về vấn đề này chắc chắn
sẽ khá đủ ý, thể hiện cả suy nghĩ lẫn tình cảm
của các em về chủ đề trên.
Hình 2. Sản phẩm BĐTD của nhóm 3
Ý kiến đánh giá của SV và GV
Sau 5 tiết TN, chúng tôi đã khảo sát ý kiến
của 44 SV về hiệu quả của việc sử dụng kỹ
thuật 6 CNTD và BĐTD đối với quá trình tạo
lập văn bản. Phiếu khảo sát gồm 5 câu hỏi
đóng xoay quanh vấn đề Tác dụng của việc
vận dụng 2 kỹ thuật BĐTD và 6 CNTD đối
với: phát triển năng lực sáng tạo của người
viết (câu 1); kĩ năng phê phán đánh giá (câu
2); kĩ năng giao tiếp (câu 3); giúp nhìn vấn đề
dưới nhiều góc độ (câu 4); tăng hứng thú học
tập (câu 5). SV chọn trả lời một trong năm
mức sau: hoàn toàn đồng ý, đồng ý, không
đồng ý cũng không phản đối, không đồng ý,
hoàn toàn đồng ý. Chúng tôi còn nêu 2 câu
hỏi mở: (1) Có thể vận dụng 2 kĩ thuật BĐTD
và 6 CNTD để dạy học sinh viết văn ở trường
phổ thông hay không? (2) Có thể gặp khó
khăn gì khi vận dụng 2 kỹ thuật này?. Dưới
đây là bảng thống kê tỷ lệ % ý kiến chọn
phương án trả lời hoàn toàn đồng ý (bảng 1).
Số liệu từ bảng 1 cho thấy SV đánh giá rất
cao về hiệu quả của việc sử dụng BĐTD và 6
CNTD trong dạy tạo lập văn bản.
Bảng 1. Thống kê ý kiến hoàn toàn đồng ý
Câu hỏi Số SV %
Câu 1 38 86.5
Câu 2 35 84.1
Câu 3 32 72.8
Câu 4 37 84.09
Câu 5 34 77.27
Với câu hỏi mở thứ nhất phần lớn SV cho
rằng có thể sử dụng 2 kỹ thuật này vào việc
dạy học sinh cách tạo lập dàn ý cho văn bản,
chỉ có có 3 SV (16.7 %) e ngại tính không
khả thi khi vận dụng chúng ở trường phổ
thông. Về câu hỏi mở thứ hai phần lớn SV
cho rằng việc vận dụng 2 kỹ thuật trên vào
dạy học sẽ mất khá nhiều thời gian, cháy giáo
án, học sinh chưa quen, chỉ nên sử dụng trong
giờ thực hành. Các ý kiến trên cho thấy SV đã
nhận thấy những hữu ích của việc sử dụng
BĐTD và 6 CNTD và mong muốn được vận
dụng chúng trong quá trình dạy học nhưng
các em luôn bị ám ảnh bởi việc không đủ thời
gian. Sự e ngại này là chính đáng bởi vì
chương trình môn Ngữ văn ở phổ thông khá
nặng, số tiết dành cho giờ thực hành Làm văn
không nhiều, hơn nữa lâu nay không ít HS
không có thói quen lập dàn ý trước khi viết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
67
Chúng tôi đã mời 2 GV cùng tổ chuyên môn
dự tiết TN thứ 2 và đánh giá tính tích cực của
SV trong giờ học bằng cách điền vào phiếu
quan sát. Kết quả tổng hợp phiếu quan sát của
hai GV như sau:
Bảng 2. Phiếu quan sát giờ học
Thời
gian
(phút)
Chỉ số tích cực của sinh viên
trong tiết học
A B C D
0-5 3.6 4.0 4.6 4.8
5-10 4.6 5.2 5.2 6.0
10-15 5.0 5.6 5.8 5.9
15-20 5.6 6.0 6.0 5.6
20-25 5.3 6.0 6.8 6.5
25-30 6.0 4.2 5.3 6.6
30-35 60 4.8 4.8 5.8
35-40 50 5.6 5.6 5.2
40-45 56 5.0 6.3 5.8
Chỉ số
TB
51.8
%
51.6
% 56 % 58 %
Hai GV này cứ 5 phút một lần khoanh tròn
một trong các số từ 1 đến 10 (thể hiện chỉ số
% mức độ tích cực học tập của SV). Chỉ số A,
B, C, D chỉ các mức độ: (A) mức độ tập trung
chú ý của SV trong giờ học, biểu hiện qua các
hành vi hoàn thành các nhiệm vụ học tập
trong học tập; (B) mức độ cảm xúc của SV
trong giờ học, biểu hiện qua các sự thích thú,
sôi nổi, hăng say trong giờ họ; (C) mức độ
tham gia của SV vào hoạt động học tập: trình
bày, tranh luận, đề xuất vấn đề, câu hỏi, thắc
mắc; (D) mức độ hành vi biểu hiện tâm thế
của SV trong giờ học. Kết quả thống kê cho
thấy tất cả các chỉ số đều đạt mức độ trên
trung bình trong suốt tiết học.
Kết quả TN đã trả lời được mục đích TN mà
chúng tôi đặt ra, đó là giúp SV rèn kĩ năng lực
tư duy: phân tích, đánh giá, năng lực sáng tạo,
thói quen nhìn vấn đề dưới nhiều góc độ (ưu
điểm, nhược điểm), phát triển cảm xúc (thích,
không thích), kỹ năng hợp tác giữa các thành
viên trong nhóm, kỹ năng thể hiện ý tưởng
bằng ngôn ngữ nói, viết, vẽ. Những kỹ năng
này của SV được nâng lên từng bước.
KẾT LUẬN
Mỗi PPDH đều có những ưu điểm riêng, GV
là người chủ động chọn lựa PPDH cho phù
hợp với từng nội dung bài dạy, từng đối tượng
người học nhằm phát huy tối đa tính tích cực,
chủ động của SV. Việc sử dụng kĩ thuật 6
CNTD đã tạo cho SV cơ hội tranh luận, chia
sẻ ý kiến, xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ
và tự do thể hiện ý tưởng, tình cảm của mình
bằng BĐTD. Qua đó, SV học được cách lập
dàn ý cho bài viết, cách trình bày ý tưởng
theo một trình tự logic, đó là những kỹ năng
rất cần thiết trong tiến trình tạo lập văn bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thị Hồng Nam (2003), Vận dụng
hình thức dạy học khám phá và thảo luận nhóm
vào dạy văn ở trường đại học, Tạp chí Dạy và học
ngày nay, Số tháng 7/2003.
[2]. Edward de Bono (2009), 6 chiếc nón tư duy,
Nxb Trẻ.
[3]. Gert Rijlaarsdam, Huub van den Bergh,
Michel Couzijn (Eds.), (2005), Effective Learning
and Teaching of Writing – A Handbook of Writing
in Education, 2nd Edition, Kluwer Academic
Publishers.
[4]. Tony Buzan (2008), Kĩ năng học tập theo
phương pháp Buzan (Lê Huy Tâm dịch), Nxb
TP.HCM, Công ty TNHH Nhân Trí Việt.
[5].
nowledge-solutions/wearing-six-thinking-hats.pdf
(truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phan Thị Quỳnh Như và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 63 - 68
68
SUMMARY
THE APPLICATION OF MIND MAPS AND 6 THINKING HATS INTO
GUIDING STUDENTS TO EXPLORE IDEAS IN THE PROCESS OF
COMPOSING ESSAYS
Phan Thi Quynh Như1, Nguyen Thi Hong Nam2*
1
Kien Giang College of Education
2
Department of Education, Can Tho University
This paper aims to introduce the employment of mind maps and six thinking hats to training
text composition skills for primary education students at Kien Giang Community College.
The empirical outcomes show that guiding students to learn these two techniques for idea
brainstorming has contributed to the improvement of learners’ brainstorming and
cooperative skills.
Key words: mind map, thinking hats, idea brainstorming, co-operative skills.
Ngày nhận: 06/03/2012; Ngày phản biện:01/04/2012; Ngày duyệt đăng:12/06/2012
*
Tel: 0918486086
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33584_37390_119201210368so9406_split_10_7508_2048488.pdf