Trên đây là những phương diện quan trọng
cung cấp căn cứ cho việc đánh giá chất lượng
lao động của trí thức GDĐH. Các tiêu chí đó
là một thể thống nhất trong mối quan hệ tác
động tương hỗ nhằm đánh giá chất lượng lao
động của trí thức GDĐH theo hướng đảm bảo
tính xác thực, khoa học, khách quan, minh
bạch và dân chủ.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương thức đánh giá chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học theo hướng chuẩn hóa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thị Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 39 - 43
39
PHƯƠNG THỨC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG CHUẨN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trần Thị Lan*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Chất lượng là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của một trường đại học. Tuy nhiên, hiện
nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về chất lượng lao động của trí thức Giáo dục đại học (GDĐH).
Do vậy, tiến hành nghiên cứu phương thức đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ này phù hợp
với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam là vấn đề cấp thiết. Bài viết tập trung trình bày: Quan niệm về
chất lượng lao động của trí thức GDĐH; phương thức đánh giá chất lượng lao động của trí thức
GDĐH. Trong đó, đi sâu luận giải về nguồn thông tin đánh giá, nội dung, tiêu chí đánh giá, yêu
cầu cần đảm bảo trong qui trình đánh giá.
Từ khóa: Trí thức, trí thức Giáo dục đại học, chất lượng lao động, phương thức đánh giá.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Với việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc
tế WTO, chúng ta phải thừa nhận GDĐH là
một loại dịch vụ (theo hiệp định GATS). Vì
vậy, việc xây dựng phương thức đánh giá chất
lượng lao động của trí thức GDĐH theo
hướng chuẩn hóa đã trở thành vấn đề mang
tính tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ
đáp ứng yêu cầu của xu thể quốc tế hóa giáo
dục mà còn là nhu cầu nội tại của quá trình
kiểm định chất lượng các trường đại học theo
chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Quan niệm về lao động của trí thức GDĐH
Theo nghĩa chung nhất, lao động “trước hết là
một quá trình diễn ra giữa con người và tự
nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động
của chính mình, con người làm trung gian
điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ
với tự nhiên” [2, tr.230]. Xét về bản chất, lao
động là một hoạt động tích cực và sáng tạo.
Tiếp cận ở bình diện này, có thể xem lao động
của trí thức GDĐH là quá trình tác động có
mục đích của nhà giáo đến đối tượng người
học nhằm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân
cách của người học nói riêng và nguồn nhân
lực chất lượng cao nói chung.
Với tính cách là một công việc, lao động của
trí thức GDĐH là hoạt động nghề nghiệp
*
ĐT: 0983896296; Email: lantrantn@gmail.com
chuyên môn – giáo dục và đào tạo ở bậc đại
học. Đặc trưng nổi bật của hoạt động này là
hoạt động khoa học sư phạm nhằm truyền thụ
học vấn và đào tạo hướng nghiệp, gắn liền
dạy chữ - dạy nghề và dạy người.
Nếu xét lao động của trí thức GDĐH trên
phương diện giá trị thì nó chính là hoạt động
được đảm bảo bởi sự hao phí sức lao động trí
óc, sáng tạo với hàm lượng chất xám cao. Sức
lao động ấy được kết tinh trong sản phẩm lao
động, tức người học với tư cách là kết quả
trực tiếp nhất của hoạt động giảng dạy và phát
minh, sáng chế với tư cách là sản phẩm của
nghiên cứu khoa học (NCKH). Mặt khác, lao
động hao phí của trí thức GDĐH không chỉ
được tính đến sức lực cơ bắp mà quan trọng
hơn và chủ yếu nhất vẫn là yếu tố trí tuệ, tình
cảm. Hàm lượng chất xám, lòng nhiệt huyết
kết tinh trong sản phẩm càng nhiều thì hao
phí sức lao động trí tuệ của trí thức GDĐH
càng cao bấy nhiêu.
Lao động của trí thức GDĐH là khoa học
phát triển con người với mục tiêu hình thành
con người xã hội, con người văn hóa ở trình
độ cao nên nó không thể bắt đầu bằng thói
quen mà phải bằng hệ thống kỹ năng chuyên
môn. Kết quả lao động của trí thức GDĐH là
tạo ra sản phẩm trí tuệ - nhân cách, năng lực,
phẩm chất, phương pháp tư duy khoa học của
sinh viên; kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của
những nhà giáo, thầy thuốc, kỹ sư, công nhân,
Trần Thị Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 39 - 43
40
những chuyên gia, những nhà khoa học trong
tương lai. Giá trị lao động của trí thức là kết
quả của lao động khổ luyện, công phu, tỉ mỉ.
Ở đó, sự tận tâm, tận lực, nhiệt tình và tâm
huyết phải được chỉ dẫn, soi sáng bởi tri thức
khoa học, bởi phương pháp đúng đắn.
Như một logic chặt chẽ và được nhìn từ góc
độ đa chiều, chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH không phải là một hiện tượng
cá biệt, mà là kết quả tổng thể của những hoạt
động có tính chất tương hỗ, liên quan mật
thiết với nhau trong toàn bộ quá trình giáo
dục và đào tạo: từ giảng dạy đến NCKH; từ
giáo dục đạo đức đến rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp; từ việc giáo dục tri thức đến giáo dục
phương pháp không phải của cá thể nhà giáo
riêng biệt mà là toàn thể đội ngũ với tư cách
tập thể sư phạm.
Phương thức đánh giá chất lượng lao động
của trí thức GDĐH theo hướng chuẩn hóa
Đánh giá chất lượng lao động của trí thức
GDĐH về thực chất là sự phán đoán giá trị
lao động nhằm làm rõ mức độ đóng góp trí
tuệ cho xã hội của trí thức nhà giáo. Do đó,
thực tiễn đánh giá chất lượng lao động của trí
thức GDĐH khách quan đòi hỏi giá trị phải
được chuyển dịch từ phạm trù trừu tượng
thành những tiêu chí cụ thể.
Đối với trí thức GDĐH, chuẩn hóa chất lượng
lao động vừa là mục tiêu phấn đấu vươn tới,
vừa là thước đo đánh giá mức độ đáp ứng
những tiêu chuẩn đã được xác định theo chức
trách, nhiệm vụ của giảng viên hoặc nhà quản
lý giáo dục. Thiếu chuẩn, mọi nỗ lực của trí
thức nhà giáo đều chưa được định hướng rõ
ràng và càng không thể có được sự đánh giá
thống nhất giữa các chủ thể. Do vậy, đánh giá
chất lượng lao động của trí thức GDĐH theo
hướng chuẩn hóa cần thiết phải dựa trên cơ sở
khoa học và đảm bảo các yếu tố sau:
Một là, nguồn thông tin đánh giá: Đây là yếu
tố cần được thống nhất về mặt nhận thức và
quan điểm. Trong đánh giá chất lượng lao
động của trí thức GDĐH, nguồn thông tin
đánh giá rất phong phú, đa dạng, trong đó cơ
bản nhất phải kể đến nguồn thông tin từ bản
thân giảng viên, đồng nghiệp, nhà quản lý,
các thế hệ sinh viên (gồm cả sinh viên đang
học, sinh viên cuối khóa, cựu sinh viên) và
các chủ thể sử dụng nguồn nhân lực. Từng
nguồn thông tin sẽ có những điểm cần lưu ý
khi sử dụng. Vấn đề là ở chỗ, tính khoa học
của việc kết hợp các nguồn thông tin phải
được đảm bảo trên cơ sở khách quan, minh
bạch và xác thực.
Cần khẳng định, trong việc đánh giá chất
lượng lao động của trí thức GDĐH, bản thân
nhà giáo phải trở thành chủ thể chính và là
nguồn đánh giá đáng tin cậy về chất lượng lao
động của chính họ. Tuy nhiên, nếu không
xuất phát từ ý thức trách nhiệm của nhà giáo
thì việc đánh giá lại bị hạn chế bởi tính chủ
quan. Khắc phục điều này, đòi hỏi cần có
những minh chứng cụ thể về mức độ hoàn
thành nhiệm vụ được thừa nhận bằng hiệu quả
công việc của từng giảng viên thông qua kết
quả học tập môn học và sự trưởng thành của
sinh viên sau khóa học.
Sinh viên là đối tượng đầu tiên và cũng là chủ
thể trực tiếp nhất được thụ hưởng hoạt động
giảng dạy của trí thức GDĐH nên họ sẽ là
nguồn thích hợp để cung cấp thông tin phản
hồi về phương pháp truyền đạt kiến thức; kết
quả nhận thức, hình thành kỹ năng mà sinh
viên có được từ khóa học; tính khách quan,
công bằng trong kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập; mức độ đáp ứng những mong đợi của
sinh viên từ khóa học. Đặc biệt, đối với sinh
viên đã tốt nghiệp trực tiếp tham gia vào thị
trường lao động, họ có thế để cung cấp thông
tin xác thực về chất lượng đào tạo nói chung
của đội ngũ trí thức nhà giáo. Mặc dù còn
nhiều ý kiến chưa có sự thống nhất về vấn đề
này. Song về cơ bản, đa số các nhà nghiên
cứu, các nhà quản lý giáo dục đều khẳng định
giá trị và tính hữu ích của loại thông tin này.
Nguồn thông tin đánh giá từ đồng nghiệp có
vị trí và vai trò nhất định trong đánh giá chất
lượng lao động của trí thức GDĐH. Những
đồng nghiệp có cùng chuyên môn có thể đánh
giá lẫn nhau thông qua việc cung cấp thông
tin xác thực về hoạt động giảng dạy, NCKH
dưới nhiều hình thức: thông qua dự giờ, hội
đồng nghiệm thu giáo trình, đề cương bài
Trần Thị Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 39 - 43
41
giảng; kết quả của công trình NCKH các cấp;
thông qua thực tiễn triển khai để đánh giá các
phát minh, sáng kiến trong giáo dục, đào tạo
và chuyển giao công nghệ.
Nguồn thông tin đánh giá từ nhà quản lí các
cấp cần được xem là một trong những cơ sở
đánh giá chính thức về chất lượng lao động
của trí thức GDĐH. Với vị trí của nhà quản
lý, họ trực tiếp hoặc gián tiếp giao nhiệm vụ
và chỉ đạo hoạt động của trí thức GDĐH.
Thuận lợi hơn trong đánh giá so với những
chủ thể khác, các nhà quản lý thường có cách
tiếp cận tổng thể, hệ thống và toàn diện từ
nhiều kênh thông tin về trí thức nhà giáo mà
mình quản lý. Trên cơ sở đó, đưa ra những
kết luận có ý nghĩa xác minh, thẩm định và bổ
sung cho việc đánh giá giảng viên.
Nguồn thông tin đánh giá từ người sử dụng
sản phẩm đào tạo và nguồn nhân lực đang
ngày càng có vai trò quan trọng trong tương
quan với các nguồn thông tin khác, nhất là
trong bối cảnh đào tạo theo nhu cầu xã hội.
Những chủ thể này có thể chỉ ra một cách trực
tiếp và rõ ràng nhất ưu, khuyết điểm và sự
thiếu hụt trong nguồn nhân lực mà họ đang sử
dụng. Đây là nguồn thông tin cần thiết để
phán đoán giá trị lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH trên ý nghĩa đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội
ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Hai là, tiêu chí đánh giá chất lượng lao động
của trí thức GDĐH. Đây là vấn đề căn bản
nhằm tạo ra sự thống nhất trong đánh giá.
Khác với trí thức ở các bậc học khác trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nhiệm vụ của trí
thức GDĐH không chỉ là truyền thụ tri thức
mà còn là sáng tạo ra tri thức mới, không đơn
thuần chỉ là giảng dạy mà còn là NCKH,
chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, một bộ
phận trí thức GDĐH còn đảm trách nhiệm vụ
tổ chức, quản lý giáo dục. Đó là ba lĩnh vực
quan trọng, là cơ sở căn bản nhất để đánh giá
chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
GĐĐH.
Chất lượng lao động của trí thức GDĐH vốn
mang tính trừu tượng nên luôn cần có những
tiêu chí đánh giá theo hướng chuần hóa. Hệ
thống các tiêu chí được xem như tập hợp
những dấu hiệu, những yêu cầu đạt chuẩn về
chất lượng lao động của trí thức GDĐH theo
chức năng, nhiệm vụ; theo mong đợi của các
chủ thể đánh giá và theo mục tiêu của GDĐH.
Đánh giá chất lượng lao động của trí thức
GDĐH cần tập trung vào những tiêu chí cơ
bản sau:
* Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn giảng viên của
trí thức GDĐH
Đây là yêu cầu căn bản đầu tiên để đảm bảo
chất lượng lao động của trí thức nhà giáo.
Theo Luật Giáo dục nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, “Nhà giáo
phải có những tiêu chuẩn sau: Phẩm chất, đạo
đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào
tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe
theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ
ràng” [4, tr.52-53]. Trước bối cảnh gia tăng
cạnh tranh và hội nhập, trí thức GDĐH cần
đạt chuẩn cả về trình độ ngoại ngữ, tin học và
công nghệ thông tin. Đó là những công cụ
hữu ích cho công tác giảng dạy, NCKH và tổ
chức quản lý đào tạo.
* Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của trí thức
GDĐH. Chất lượng lao động của trí thức
GDĐH được kiểm định bởi kết quả thực tế sử
dụng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được
đào tạo để giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động nghề nghiệp. Theo đó, có thể
đo lường chất lượng lao động của trí thức
GDĐH thông qua mức độ hoàn thành nhiệm
vụ theo chức trách giảng viên được xác định
tại điều 46 của Điều lệ trường Đại học.
* Kết quả lao động thực tế và mức độ hài
lòng của các chủ thể:
Kết quả lao động của trí thức GDĐH được đo
bằng những thông số, minh chứng thể hiện
năng lực giảng dạy, NCKH, quản lý đào tạo.
Về giảng dạy, cần đánh giá kết quả lao động
của trí thức GDĐH theo các tiêu chí: Phương
pháp giảng dạy được đổi mới góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học; đạt được mục tiêu
giảng dạy đã đặt ra; chương trình đào tạo đáp
ứng yêu cầu nghề nghiệp; tỷ lệ tốt nghiệp của
sinh viên năm cuối.
Trần Thị Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 39 - 43
42
Về NCKH, chuyển giao công nghệ cần được
minh chứng ở các thông số: “Tỷ lệ các công
trình xuất bản trên đầu cán bộ; bài báo, giáo
trình, đề cương bài giảng; số lượng giải
thưởng NCKH của cán bộ, của sinh viên; chất
lượng luận văn, đồ án tốt nghiệp; luận văn
thạc sĩ; luận án tiến sĩ; các hoạt động hợp tác,
chuyển giao, ứng dụng công nghệ phục vụ xã
hội [1, tr.32].
Về quản lý đào tạo, cần đánh giá kết quả công
tác chủ nhiệm lớp, cố vấn học tập, quản lý ở
bộ môn, khoa và các phòng, ban.
Một trong những tiêu chí quan trọng là cần
phải lượng hóa được mức độ hài lòng của các
chủ thể đánh giá trên từng lĩnh vực hoạt động
chuyên môn mà mỗi giảng viên đảm nhận.
Điều này góp phần làm rõ sự trùng khớp giữa
kết quả lao động của đội ngũ trí thức GDĐH
với những mong đợi hay những mục tiêu định
sẵn của các chủ thể. Đây là tiêu chí đánh giá
không chỉ được nhiều quốc gia đặc biệt chú
trọng mà đối với Việt Nam cần thiết phải xem
đó là khâu đột phá để đo lường chất lượng lao
động của trí thức GDĐH một cách khách
quan trong điều kiện nền giáo dục vận hành
theo cơ chế thị trường và đào tạo theo nhu cầu
xã hội.
* Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
được đào tạo đối với thị trường lao động và
việc làm. Đây là tiêu chí quan trọng phản ánh
chất lượng GDĐH theo định hướng nghề
nghiệp, theo nhu cầu xã hội. Lao động của đội
ngũ trí thức GDÐH đạt chất lượng cao không
thể tạo ra những con người kém về trình độ
chuyên môn, không đạt về phẩm chất đạo
đức, yếu về kỹ năng lao động cũng như khả
năng thích nghi, hội nhập.
* Hiệu quả lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH trong tương quan so sánh với mức
đầu tư kinh phí và các điều kiện đảm bảo.
Hiệu quả lao động của trí thức GDĐH cần
được xem xét trong tương quan so sánh với
mức đầu tư. Nhất là kinh phí, các điều kiện
đảm bảo và chính sách tiền lương, phụ cấp,
chế độ đãi ngộ cũng như cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ đào tạo của các cơ sở đại học.
Đây là tiêu chí quan trọng, cơ bản để đo lường
mức độ tương xứng giữa kết quả lao động đạt
được của trí thức GDĐH so với mức đầu tư
thực tế cũng như cơ chế, chính sách tác động.
Ba là, những yêu cầu cần đảm bảo khi thực
hiện qui trình đánh giá chất lượng lao động
của trí thức GDĐH theo hướng chuẩn hóa:
Trên cơ sở khảo sát, có tới 96,3 % ý kiến
đồng ý rằng, việc xây dựng qui trình đánh giá
chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần
hướng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ;
có 90,8 % ý kiến cho rằng công tác đánh giá
phải định hướng và tạo động lực cho trí thức
nhà giáo tự giác hoàn chỉnh bản thân; có 89,7
% ý kiến đưa ra yêu cầu phải đảm bảo sử
dụng thông tin đánh giá một cách hợp lý,
không để thông tin làm ảnh hưởng đến uy tín
của trí thức GDĐH. Mục đích đánh giá chất
lượng lao động của trí thức GDĐH nhằm phát
triển đội ngũ, duy trì thực hiện mục tiêu của
nhà trường, cung cấp dữ liệu thông tin cho
công tác quản lý cũng được đại đa số ý kiến
tán thành. Những yêu cầu này cần được xem
là nguyên tắc căn bản đòi hỏi qui trình đánh
giá chất lượng lao động của trí thức GDĐH
phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
KẾT LUẬN
Trên đây là những phương diện quan trọng
cung cấp căn cứ cho việc đánh giá chất lượng
lao động của trí thức GDĐH. Các tiêu chí đó
là một thể thống nhất trong mối quan hệ tác
động tương hỗ nhằm đánh giá chất lượng lao
động của trí thức GDĐH theo hướng đảm bảo
tính xác thực, khoa học, khách quan, minh
bạch và dân chủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đức Chính – Nguyễn Phương Nga,
(2000), “Nghiên cứu xây dựng Bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng đào tạo đại học”, Tạp chí
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (7).
[2]. C.Mác (1973), Tập 1, quyển 1, phần 1, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
[3]. C.Mác – Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập
42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Lê Ninh (1996), “Vai trò của người
thầy trong chất lượng giáo dục đại học”, Tạp
chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (12).
[5]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005),
Luật Giáo dục sửa đổi, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
Trần Thị Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 39 - 43
43
SUMMARY
METHOD OF ASSESSING THE QUALITY LABOR OF THE HIGHER
EDUCATION INTELLECTUALS TOWARDS STANDARDIZATION
IN OUR COUNTRY TODAY
Tran Thi Lan*
College of Education – TNU
Quality is a key factor determining the existence and development of a university. However, there
are many different ideas about the quality labor of the higher education intellectuals. Therefore,
the study conducted to assess the quality of team labor are consistent with the practical conditions
in Vietnam is a critical issue. The paper focuses present: The concept of labor quality of the higher
education intellectuals; method of assessing the quality of the intellectual labor of higher
education. In particular, the depth commentary on assessment information, content, evaluation
criteria and requirements should ensure that the assessment process.
Key words: Intellectuals, intellectuals higher education, labor, labor quality, assessment methods,
standardization.
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Hường – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
*
ĐT: 0983896296; Email: lantrantn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_thuc_danh_gia_chat_luong_lao_dong_cua_tri_thuc_giao_d.pdf