Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng”

Chủ động phấn đấu, táo bạo vươn lên, vứt bỏ những trì trệ và bảo thủ, dám hành động để tìm cho mình một lối thoát, đưa dân tộc vượt qua nghèo nàn và lạc hậu, tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Đó là sự lựa chọn khôn ngoan và phù hợp với xu thế của sự phát triển. Để làm điều đó, mỗi con người Việt Nam cần phải biết chỗ mạnh chỗ yếu của chính mình, chỗ mạnh chỗ yếu của dân tộc mình để dám tiếp nhận cái mới, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đầu tư khôn ngoan và có triển vọng nhất để phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ để đi tới. Đây là một quá trình bền bỉ và dũng cảm, và là một tìm tòi sáng tạo, là một đề tài khoa học không chỉ nghiệm thu một lần mà xong. Kết quả nghiên cứu đang còn ở phía trước, con đường đi tới của dân tộc sẽ từng bước kiểm nghiệm những thành tựu nghiên cứu ấy.

pdf14 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu rằng, đó là một quá trình tiệm cận gần sát với chân lý chứ không thể hoàn toàn nhận chân đ−ợc quy luật khách quan. Bởi lẽ, quy luật vận động của xã hội là một chuỗi liên tục của vô vàn yếu tố ngẫu nhiên đan quyện vào nhau, tác động lẫn nhau, vừa bổ sung vừa triệt tiêu lẫn nhau. Nhận thức của con ng−ời vừa tiếp cận đ−ợc với hiện thực khách quan thì đồng thời hiện thực đã v−ợt qua nó để tiếp tục sự vận động liên tục của nó. Đinh ninh rằng mình đã chụp ảnh đ−ợc hiện thực để rồi căn cứ vào đó mà đóng khung những giải pháp vào cái khung ảnh hiện thực vừa nhận chân đ−ợc sẽ bị sự vận động hiện thực bỏ qua, những giải pháp t−ởng là đúng đắn cũng có những phần đã bị vênh so với hiện thực đang vận động. Cần l−u ý rằng, bên cạnh những “tri thức chắn chắn” (nh− tri thức toán học, loại tri thức đ−ợc lọc qua những −ớc lệ trừu t−ợng hóa), phần lớn những tri thức con ng−ời có đ−ợc trong đời sống hàng ngày là “tri thức không chắc chắn”, luôn luôn phải đ−ợc kiểm định lại. ∗ Tóm l−ợc nội dung Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học trong Ch−ơng trình nghiên cứu: Nguồn lực con ng−ời trong sự phát triển xã hội. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 18 Nhận thức đ−ợc hiện thực, tiếp cận đ−ợc với quy luật vận động của xã hội đã khó, đã mang tính t−ơng đối, huống hồ quản lý đ−ợc sự vận động đó thì còn khó biết bao nhiêu. Mà vì nói quản lý tức là nói việc tổ chức và kiểm soát đ−ợc nó thì lại càng thấy tính phức tạp khôn l−ờng của công việc hết sức khó khăn này. Quy luật mang tính khách quan. Quy luật tự nhiên hay quy luật xã hội cũng đều mang tính khách quan cả. Tuy vậy, không thể không thấy tính đặc thù của quy luật xã hội: sự vận động xã hội là thông qua hoạt động của con ng−ời, chịu sự tác động của mối quan hệ giữa ng−ời và ng−ời. Mà con ng−ời lại luôn luôn là con ng−ời cụ thể - con ng−ời này - cá thể, không hề có con ng−ời trừu t−ợng, chung chung. ý thức của con ng−ời chỉ đạo hành động của nó. Những con ng−ời không ai giống ai. Chính những khác biệt của những con ng−ời cụ thể này càng làm phong phú thêm, phức tạp thêm tính quy luật của vận động xã hội. Chính vì thế mà ng−ời ta cho rằng lịch sử là một sự vận động trong thế t−ơng quan giữa nhiều lực l−ợng để tìm ra một véc tơ đ−ờng chéo hình bình hành vạch ra con đ−ờng đi của nó. Nhận chân đ−ợc “con đ−ờng đi” đó tức là nhận thức đ−ợc quy luật, nói đúng hơn tiệm cận đ−ợc quy luật vận động của xã hội. Có tiệm cận đ−ợc quy luật vận động ấy mới có thể nói đ−ợc chuyện quản lý xã hội. Dựng nên một cái khung có sẵn, áp đặt nó vào xã hội, đề ra những giải pháp quản lý theo cái khung có sẵn đó, chỉ có thể rơi vào chủ nghĩa duy ý chí, tạo ra vật cản cho sự phát triển xã hội mà thôi. Tạo ra vật cản, làm chậm sự phát triển, song sự vận động của xã hội theo quy luật của nó sẽ tự mở đ−ờng cho phát triển. Cái hợp lực véc tơ đ−ờng chéo hình bình hành tự vạch ra con đ−ờng đi của nó mà không cần đến sự quản lý. Chỉ có điều, nếu trong điều kiện đó thì sự phát triển chậm lại, chậm vì có lúc thụt lùi, có lúc dậm chân tại chỗ. Song nhìn chung trong toàn bộ sự phát triển của lịch sử, thì những b−ớc thụt lùi, dậm chân tại chỗ chỉ là những dích dắc, những khoảnh khắc, không thay đổi đ−ợc chiều h−ớng phát triển của cuộc sống. Nhấn mạnh điều này để hiểu rõ tính phức tạp và cũng là tính t−ơng đối của sự quản lý xã hội. Có lúc, ng−ời ta cứ ngỡ nh− là có thể quản lý đ−ợc tất cả mọi hoạt động xã hội. Thực ra, dù không có quản lý hay quản lý tồi, quản lý hỏng, thì xã hội vẫn cứ vận động theo quy luật của nó. Nếu quản lý tốt, có nghĩa là dựa vào quy luật đã phát hiện đ−ợc mà h−ớng sự quản lý theo quy luật đó thì sẽ thúc đẩy đ−ợc sự phát triển nhanh hơn. Biện chứng của sự vật sản sinh ra biện chứng của t− duy chứ không phải là ng−ợc lại. Vì vậy, nếu cái cụ thể là sự tổng hợp của nhiều tính quy định, và do đó nó là sự thống nhất của cái đa dạng - thì, khi cái cụ thể với t− cách là cái cụ thể trong t− duy chính là kết quả của nhận thức xây dựng bởi hệ thống những khái niệm, phạm trù của lý luận. Nói nh− thế để nhấn mạnh rằng, cái cụ thể phong phú hơn cái trừu t−ợng, và cái trừu t−ợng là sự biểu hiện phiến diện của cái cụ thể, nó nghèo nàn hơn về tính quy định và quan hệ so với cái cụ thể. Hiểu nh− vậy để có sự nhìn nhận về tính t−ơng đối của sự quản lý xã hội. Không nên có ảo t−ởng về sự quản lý xã hội theo kiểu tổ chức và kiểm soát toàn bộ sự vận động cực kỳ phức tạp của xã hội. Chỉ có thể quản lý trên những chiều h−ớng cơ bản của hoạt động xã hội, tác động vào những khâu cơ bản đó để do đó mà xã hội sẽ tự điều chỉnh sự vận hành của nó trên vô vàn những hoạt động. Cũng chính vì thế mà xu h−ớng khá phổ biến trên thế giới hiện nay về cải cách sự quản lý của nhà n−ớc đối với xã hội là nhấn mạnh đến ý t−ởng: “Nhà n−ớc làm ít nhất để dân đ−ợc h−ởng nhiều nhất, nhà n−ớc không làm gì mà không gì là không làm! Muốn thế thì phải biết cách làm cái gì và không làm cái gì, tức là muốn “không gì là không làm” thì phải biết cách “không làm gì cả”. Hiểu cho đ−ợc điều này thật không đơn giản. Cũng do vậy mới càng rõ hơn vì sao ng−ời ta cố gắng xây dựng tốt xã hội dân sự tự quản đi liền với việc xây dựng nhà n−ớc pháp quyền. 2. Nguyên tắc tiến bộ và công bằng trong sự quản lý sự phát triển của xã hội Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 19 Thực ra, thuật ngữ quản lý sự phát triển nghe không ổn. Phát triển là một quá trình tự thân vận động của xã hội . Dù cá nhân con ng−ời có nhận thức đ−ợc hay không thì những quy luật khách quan chi phối sự vận động của xã hội sẽ tự tìm lấy xu thế tất yếu để phát triển theo véc tơ lực đ−ờng chéo hình bình hành, tự chúng đã tạo ra một thế cân bằng nào đó trong quá trình vận động. Con ng−ời cố gắng nhận thức đ−ợc quy luật vận động và phát triển đó để quản lý hoạt động của con ng−ời, tổ chức và kiểm soát sự hoạt động đó để làm cho mối quan hệ giữa con ng−ời và con ng−ời trong các quá trình kinh tế, quá trình văn hóa đ−ợc tốt đẹp hơn, mối quan hệ giữa con ng−ời với tự nhiên thuận lợi hơn cho sự phát triển (khai thác mọi tiềm năng của thiên nhiên ban phát cho con ng−ời, nh−ng phải giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ môi tr−ờng sinh thái để dự liệu tr−ớc và tránh đ−ợc sự trả thù của thiên nhiên). Vì thế, nói tiến bộ tức là nói sự hoạt động của con ng−ời trong quá trình phát triển là thuận với quy luật của tự nhiên và của xã hội. Quản lý xã hội tốt tức là tổ chức và kiểm soát đ−ợc hoạt động của con ng−ời phù hợp với quy luật khách quan đó. Nhân tố hoạt động của xã hội, xét đến cùng, là những con ng−ời có ý thức, hành động có suy nghĩ, nhiệt tình say mê theo đuổi những mục đích nhất định. Mỗi một cá nhân đeo đuổi một mục đích riêng của mình. Từng con ng−ời đều h−ớng hành động của mình theo một mục tiêu nào đó trong cuộc sống. Mỗi một con ng−ời đều h−ớng tới những cái mình mong muốn. Thế nh−ng, nếu xét chung lại, tổng hòa tất cả những cá nhân trong một cộng đồng, liệu có thể tìm thấy động cơ −ớc muốn của họ không? Khi xét một cách khái quát trên tổng thể của hoạt động xã hội, ng−ời ta sẽ thấy rằng, thật ra động cơ hoạt động của mỗi cá nhân không có ý nghĩa là bao đối với kết quả cuối cùng của lịch sử, mặc dầu lịch sử cũng chính là lịch sử của con ng−ời. Hợp lực của véc tơ đ−ờng chéo hình bình hành tạo ra thế cân bằng của những động lực cá nhân vừa bổ sung lẫn nhau, vừa đụng độ, triệt tiêu lẫn nhau, thế cân bằng đó thúc đẩy xã hội phát triển. Sự tiến bộ nằm trong xu h−ớng của sự phát triển đó. Theo quy luật phát triển thì sự đào thải, cái cũ phải tự phủ định để cái mới ra đời, là không sao có thể tránh khỏi. Vì thế, nói quản lý xã hội theo nguyên tắc tiến bộ (và công bằng ) thì điều tiên quyết để bảo đảm đ−ợc nguyên tắc đó là phải đứng về phía cái mới, cổ vũ cho cái mới phát triển nhanh. Không đảm bảo đ−ợc điều này thì mọi nội dung của khái niệm tiến bộ đều rất mơ hồ, thậm chí là ngụy tạo để bao che cho những thế lực vì mục đích đen tối và quyền lợi của mình mà kìm hãm sự phát triển. Về khái niệm công bằng. ở đây, công bằng đ−ợc hiểu là công bằng xã hội. Công bằng là khái niệm cần xác định phù hợp với từng trình độ phát triển của xã hội. Công bằng luôn mang tính t−ơng đối. Trong một trình độ phát triển mà xã hội đạt đ−ợc thì cái nội dung công bằng của nó sẽ là không công bằng khi xã hội đã đạt đến một trình độ cao hơn. Đ−a ra một mục tiêu công bằng mà không xác định nội dung sẽ có thể có tác dụng tiêu cực đến nguồn lực của sự phát triển. Sẽ là bổ ích nếu tham khảo những luận điểm sau đây trong báo cáo của Liên hiệp quốc do Roy D.Morey, điều phối viên th−ờng trú của Liên hiệp quốc tại Việt Nam soạn thảo Việt Nam cần thế ổn định nào?: “Một sự ổn định năng động (tăng tr−ởng cao) mới thật cần thiết để duy trì sự cân bằng. Vì vậy, Việt Nam cần thế ổn định cân bằng của một ng−ời đi xe đạp, chứ không phải một ng−ời đứng yên tại chỗ. Về mặt đối nội, sự ổn định đó tốt nhất cần đạt đ−ợc bằng cách th−ờng xuyên tăng c−ờng công bằng và tăng tr−ởng chứ không phải bằng cách áp đặt để có sự ổn định. Về mặt khu vực, vị trí quốc tế của Việt Nam không thể ổn định nếu Việt Nam tụt hậu quá xa so với các n−ớc láng giềng tăng tr−ởng nhanh. T−ơng tự nh− vậy, nếu một phần lớn dân chúng ở trong cảnh nghèo, sẽ có khuynh h−ớng đô thị hóa thái quá và quá nhanh, gia tăng tội phạm và không ổn định. Nếu chỉ có một số nhóm ng−ời nhất định có cơ hội để thành công, hoặc nếu một số công ty độc quyền bóp nặn những khoản lợi nhuận lớn không phải do họ làm ra cũng sẽ làm nảy sinh bất bình đối với bất công và không Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 20 chính đáng. Sự ổn định sẽ đ−ợc củng cố nếu dân chúng làm giàu một cách chính đáng, ng−ợc lại sự ổn định sẽ bị tổn hại nếu sự giàu có đ−ợc coi là kết quả của cách làm ăn luồn lách không công bằng và của sự thiên vị. Về mặt này, rõ ràng điều hết sức quan trọng là phải đảm bảo sự công bằng về cơ hội, sự tin t−ởng vào tính công bằng của cả hệ thống và sự ổn định kinh tế - xã hội. Công bằng không phải là một sự thêm thắt hay một thứ xa xỉ mà là một bộ phận không thể tách rời của một chiến l−ợc tổng thể đã đ−ợc cân nhắc kỹ càng. Đạt đ−ợc sự công bằng - ở đây muốn nói đến những tiêu chuẩn tối thiểu và sự tiếp cận công bằng với những cơ hội mới nảy sinh, không phải là sự công bằng về thu nhập cho tất cả mọi ng−ời-sẽ hỗ trợ trực tiếp cả tăng tr−ởng lẫn ổn định, và bản thân sự công bằng đó cũng là điều đáng mong −ớc”.1 Chính vì thế, cần hiểu rằng, công bằng xã hội đang là một sự tìm tòi nghiên cứu dài lâu mà kết quả của nó đ−ợc thực hiện bằng chính cuộc phấn đấu của con ng−ời cho hạnh phúc của bản thân mình. Công bằng xã hội là một −ớc mơ của loài ng−ời. ấy vậy mà, cho đến hôm nay, những năm cuối cùng chuẩn bị b−ớc vào thiên niên kỷ thứ ba, loài ng−ời vẫn ch−a tìm đ−ợc cho mình một mô hình xã hội thực hiện đ−ợc −ớc mơ ấy. Ph−ơng Đông đã từng đặt vấn đề bất công xã hội và khát vọng công bằng tr−ớc ph−ơng Tây. Sáu thế kỷ tr−ớc Công nguyên, Phật giáo, rồi sau đó Khổng giáo đã đặt ra vấn đề bất công xã hội và khát vọng sự công bằng. Phật dạy: không có đẳng cấp trong máu cùng đỏ, n−ớc mắt cùng mặn! Còn cụ Khổng thì khuyên rằng việc gì mình không muốn thì đừng gây ra cho ng−ời khác. Chậm hơn ph−ơng Đông, ph−ơng Tây với ba nhà t− t−ởng lớn: Xôcrát, Platon và Aristốt đã đ−a ra những triết lý về khát vọng của con ng−ời đối với công bằng xã hội. Những ý t−ởng về công bằng xã hội chiếm một vị trí lớn trong t− duy triết học, đặc biệt là trong việc phân phối nguồn của cải (vật chất và tinh thần) trong xã hội. Một thời gian rất dài, các nhà kinh tế học vì vậy, cũng chỉ tập trung vào phân bố và sử dụng nguồn lực, họ dành việc phân phối cho triết học, xã hội học, chính trị học. Song trên thực tế, sự phân bố nguồn lực luôn luôn gắn liền với phân bố phúc lợi, phân bố nguồn lực có ý nghĩa trực tiếp và quyết định đến việc phân phối công bằng phúc lợi xã hội. Chính vì thế, khoảng nửa thế kỷ sau, nhất là vài ba thập kỷ gần đây, kinh tế học đi gần lại và có xu h−ớng nhập vào xã hội học, đi sâu vào nghiên cứu sự công bằng trong phân phối giữa các cá nhân, các thế hệ, các tầng lớp, các tộc ng−ời, các vùng lãnh thổ, v.v... Sự công bằng trong phân phối ấy có nội dung đáng chú ý là: sự phân phối thu nhập dần dần mở rộng thành phân phối phúc lợi với một nội dung rất đa dạng, trong đó bao gồm cả những phúc lợi không thể mua đ−ợc bằng tiền. Ng−ời ta quan niệm nội dung của phúc lợi cần đ−ợc phân phối công bằng gồm: Khí hậu, điều kiện lao động; tính chất lao động, tự do cá nhân, các quyền con ng−ời nh− kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm t−ơng lai mình và gia đình; thời gian nhàn rỗi; th−ởng thức và sáng tạo văn học, nghệ thuật - giải trí theo sở thích; sự đa dạng và giàu có của các quan hệ ng−ời. Trong các quyền cá nhân, chính trị và xã hội có những đặc điểm khác với các quyền kinh tế (sở hữu, sử dụng, h−ởng thụ...) thể hiện chủ yếu ở những điểm sau: - Đ−ợc h−ởng và dùng hoàn toàn không mất chi phí cá nhân vì đó là thành quả của cả chế độ xã hội, do đó không có xu h−ớng sử dụng tùy tiện. 1 “Tiến Kịp”. Phát triển năng lực để xóa nghèo ở Việt Nam. Liên Hiệp quốc do UNDP và UNICEF xuất bản. Hà Nội- 10/1996. Tr. 5&6. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 21 - Bình đẳng toàn diện, không có chuyên môn hóa để sử dụng có hiệu quả nhất một số quyền nào đó (riêng quyền tự do ngôn luận có thể là ngoại lệ). - Không thể mang quyền chính trị và xã hội ra để th−ởng, phạt, trừ tr−ờng hợp tội phạm hình sự bị mất quyền. - Không thể mua bán, chuyển nh−ợng. Từ quan điểm đó, kinh tế học hiện đại cố gắng đi sâu phân tích về công bằng xã hội, phân loại ra các dạng bất công, chia những đặc điểm của hai dạng bất công chủ yếu nhất: bất công về cơ hội và bất công về thù lao. Theo họ, có 3 nguồn gốc đẻ ra bất công về cơ hội, dẫn tới sự mất công bằng: 1. Nguồn gốc gia đình, liên quan tới nguồn gien sinh vật nh− sự khỏe mạnh, năng khiếu bẩm sinh, nền tảng văn hóa của gia đình. 2. Sự phân biệt đối xử vô tình hay cố ý về chính trị, về kinh tế, về chủng tộc, nòi giống, quốc tịch, giới tính, lứa tuổi, tôn giáo tín ng−ỡng, mức giàu nghèo, vùng c− trú, v.v... 3. Những khác biệt về khả năng đóng góp của từng con ng−ời trong đó có vốn nhân lực và vốn của cải, đặc biệt là vốn thừa kế. Còn đối với những bất công về thù lao, ng−ời ta cũng đã chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản: 1. Sự phát triển năng lực chênh lệch của con ng−ời do sự bất công trong giáo dục đào tạo hoặc do những cố gắng và khả năng của mỗi con ng−ời, từ đó làm cho khả năng cống hiến không giống nhau, dẫn đến thu nhập chênh lệch. 2. Những khuyết tật bẩm sinh của nền kinh tế thị tr−ờng làm cho con ng−ời có những lợi và hại khác nhau, dẫn đến những cái thiệt đầy bi th−ơng trong kinh tế thị tr−ờng. 3. Những sai lệch vô tình hay cố ý trong các chính sách của nhà n−ớc, các thể chế xã hội về phân bố và phân phối. Chỉ ra nguồn gốc của loại bất công về cơ may và bất công về thù lao, kinh tế học hiện đại đã có nhiều cố gắng để đánh giá về bất công xã hội, thậm chí cố gắng định l−ợng hóa những bất công đó: ví dụ tính hệ số Gini để đo về bất bình đẳng xã hội trong thu nhập, tính chỉ số phát triển con ng−ời (HDI) để đo những thành tựu khái quát ở một n−ớc trên 3 chiều kích cơ bản của sự phát triển con ng−ời: tuổi thọ, tri thức và một mức sinh hoạt đàng hoàng, hoặc chỉ số đo mức trao quyền theo giới tính (GEM: Gender Empowerment Measure) để xem mức độ phụ nữ đ−ợc tham gia vào đời sống kinh tế và chính trị, hoặc chỉ số phát triển liên quan đến giới tính (GDI: Gender related Development Index) nhằm đo những thành tựu theo cùng chiều kích và những biến số nh− HDI, nh−ng để tìm ra những bất bình đẳng nam nữ, v.v... Từ sự đánh giá đó mà kinh tế học hiện đại cố gắng tìm ra những giải pháp, vạch ra các chính sách kinh tế xã hội h−ớng vào những loại bất công nào nổi cộm lên, gây ra sự mất ổn định xã hội và cản trở sự phát triển kinh tế. Những cố gắng đó có sự đóng góp phần nào vào sự ổn định xã hội để tăng tr−ởng kinh tế, tuy nhiên, không thể nào giải quyết nổi mâu thuẫn giữa công bằng xã hội và hiệu quả của phát triển kinh tế và xã hội. Chẳng hạn nh−, mối quan hệ giữa phân bố nguồn lực và phân phối thành quả vẫn là vấn đề nan giải ch−a tìm đ−ợc đáp số. Nếu nh− mục tiêu phân bố tối −u với mục tiêu phân phối công bằng trùng khớp với nhau thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển. Nh−ng thông th−ờng thì mục tiêu phân phối gây ra hậu quả xấu cho sự phân bố, gây nên tác động trái chiều, làm cho mục tiêu phân bố tối −u không phù hợp với phân phối công bằng. Thế là, điều tiêu cực xảy ra: làm triệt tiêu động lực, nản lòng ng−ời lao Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 22 động khiến họ không hăng hái lao động và tiết kiệm, nản lòng ng−ời đầu t− dẫn đến sự cản trở của tăng tr−ởng kinh tế. Trong suốt 30 năm qua, kinh tế học hiện đại cố gắng nghiên cứu cách chống đỡ những nghịch lý, những mâu thuẫn nói trên, không tìm đ−ợc giải pháp có hiệu quả thì họ cố đứng ra làm trọng tài để hòa giải sự đụng độ giữa công bằng xã hội và tăng tr−ởng kinh tế: hy sinh bên nào, đặt ra điều luật hòa giải ra làm sao, tìm cách dự phòng để tránh xảy ra đụng độ nh− thế nào, v.v... Tuy vậy, cho đến hiện nay thì nhiều nhà kinh tế học có tên tuổi cho rằng: loài ng−ời vẫn ch−a có cách nào để đạt tới điều mình mơ −ớc, ch−a có mô hình xã hội nào thành công nh− ng−ời ta mong đợi. Mô hình Xô viết đã sụp đổ. Mô hình của chủ nghĩa xã hội dân chủ (đ−ợc thực hiện ở các n−ớc Bắc Âu và một chừng nào với nền kinh tế thị tr−ờng xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức, cũng đang vấp phải nhiều nghịch lý mà ng−ời ta đang cố điều chỉnh. Mô hình của chủ nghĩa tân tự do hiện đại, ngự trị ở Mỹ, ở Anh và đang có tham vọng ngự trị châu á và bành tr−ớng ra các châu lục khác thì đang ngày càng bộc lộ những khuyết tật khó có thể cứu chữa dẫn đến những suy thoái nặng nề v−ợt quá những chu kỳ th−ờng lệ. Trong bản báo cáo gần đây nhất về sự Phát triển con ng−ời (Human Development Report 1998) do Ch−ơng trình phát triển của Liên Hiệp quốc (UNDP) soạn thảo, đã đ−a ra những bất bình đẳng trong phân phối phục vụ cho chủ đề "những mẫu hình tiêu dùng và sự liên quan của nó đến sự phát triển con ng−ời" nhằm khuyến cáo về sự cần thiết phải "thay đổi những mẫu hình tiêu dùng ngày nay vì sự phát triển của con ng−ời ngày mai". Xin dẫn ra đây vài con số: - Hiện nay, 20% nghèo nhất trong dân số thế giới, và có thể còn hơn thế nữa, đã bị loại ra khỏi cơn bùng nổ về tiêu dùng! Hơn một tỷ ng−ời bị t−ớc mất những nhu cầu tiêu dùng cơ bản. Trong số 4,4 tỷ dân, gần 3/5 thiếu những điều kiện vệ sinh cơ bản. Gần 1/3 không đ−ợc dùng n−ớc sạch. 1/4 không có điều kiện ở tạm đ−ợc. 1/5 không đ−ợc h−ởng những những dịch vụ y tế hiện đại. 1/5 số trẻ em không đ−ợc học đến lớp 5. Khoảng 1/5 không đ−ợc ăn uống để có đủ năng l−ợng và chất đạm. Có 2 tỷ ng−ời đang bị thiếu máu trong đó có 55 triệu sống ở các n−ớc công nghiệp.v.v.. - Tính chung hiện nay, 20% số ng−ời trên thế giới ở những n−ớc có thu nhập cao nhất chiếm 86% tổng số chi phí tiêu dùng t− nhân, trong lúc đó, 20% số ng−ời nghèo nhất chỉ chiếm có 1,3%! - Cụ thể hóa trên một số chỉ tiêu: • Một phần năm gồm những ng−ời giàu nhất đã tiêu thụ 45% tổng số thịt và cá, còn một phần năm ng−ời nghèo nhất chỉ tiêu thụ 5%! • Một phần năm gồm những ng−ời giàu nhất đã tiêu thụ 58% tổng số năng l−ợng, một phần năm ng−ời nghèo nhất tiêu thụ không đầy 4%! • Một phần năm ng−ời giàu nhất sử dụng 64% số đ−ờng dây điện thoại, còn 1/5 ng−ời nghèo nhất tiêu thụ 1,5%. • Một phần năm ng−ời giàu nhất tiêu thụ 84% tổng khối l−ợng giấy, 1/5 ng−ời nghèo nhất tiêu thụ 1,1% • Một phần năm ng−ời giàu nhất sở hữu 87% tổng số xe cộ trên thế giới, 1/5 ng−ời nghèo nhất sở hữu không đầy 1%.2 Chỉ ra mối quan tâm toàn cầu với sự phát triển con ng−ời, bản báo cáo nhấn mạnh 4 vấn đề: những quyền con ng−ời, sự thịnh v−ợng thập thể, công bằng, tính bền vững. Về vấn đề công bằng, bản báo cáo viết: "Những mối quan tâm về sự công bằng giữ một vị trí trung tâm trong viễn cảnh phát triển của con ng−ời. Khái niệm công bằng th−ờng đ−ợc áp dụng nhiều nhất về lĩnh vực 2 Human development report 1998. UNDP. Published for the united Nations Development Programme. Tr.2 Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 23 của cải hay thu nhập. Những sự phát triển của con ng−ời nhấn mạnh sự công bằng cho tất cả mọi ng−ời về những khả năng và cơ hội cơ bản - công bằng trong việc đ−ợc h−ởng giáo dục, đ−ợc chăm sóc sức khỏe và công bằng về các quyền chính trị"3. Cuộc chiến đấu lâu dài với bao hy sinh x−ơng máu của dân tộc ta cũng nhằm h−ớng tới một mô hình xã hội đạt tới khát vọng tiến bộ và công bằng. Thế nh−ng "mô hình xa lạ với chủ nghĩa xã hội"4 với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài đã bộc lộ những khuyết tật về mặt cấu trúc mà sự nghiệp Đổi Mới hiện nay đang phải khắc phục. Để xây dựng một Việt Nam dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh với một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr−ờng, có sự quản lý của nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi một sáng tạo phi th−ờng. Bởi lẽ, "chúng ta đang gánh vác một trọng trách ch−a có tiền lệ, chúng ta đang đi trên một con đ−ờng ch−a có bản đồ"5 Trên con đ−ờng ch−a có bản đồ này, dân tộc ta phải tìm cho mình một h−ớng đi đúng, một cách đi trúng, trong sự tìm tòi đó thì công bằng xã hội là một nội dung rất cơ bản. Nói nh− vậy là vì nền kinh tế thị tr−ờng có những khuyết tật cần phải khắc phục, đó là không đảm bảo phân bố hợp lý và tối −u các nguồn lực, không đảm bảo phân phối công bằng thu nhập và phúc lợi, không đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội và chính trị. Khi nói "vận hành cơ chế thị tr−ờng có sự quản lý của nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa" chính là nhấn mạnh đến vai trò quản lý nhà n−ớc nhằm khắc phục những khuyết tật đó. Quản lý tốt và giỏi thì sửa chữa đ−ợc những yếu kém, tạo điều kiện, môi tr−ờng, cơ hội và h−ớng dẫn mọi tầng lớp xã hội phát huy tiềm năng sáng tạo để thúc đẩy sự phát triển. Quản lý kém và dở thì bị những khuyết tật của kinh tế thị tr−ờng làm rối loạn sự phát triển, thui chột động lực xã hội, làm xói mòn nguồn nhân lực. Tóm lại, nguyên tắc tiến bộ và công bằng trong quản lý sự phát triển xã hội đang là những vấn đề thực tiễn đòi hỏi sự giải đáp của lý luận. Lý luận về sự phát triển đang đ−ợc nghiên cứu và tìm tòi hết sức phong phú, song tìm cho đ−ợc những vấn đề sát đúng với thực tiễn của Việt Nam, vận dụng sáng tạo trong bối cảnh của một đất n−ớc đã từng phải tiến hành cuộc chiến tranh hơn nửa thế kỷ với những hậu quả nặng nề về mặt xã hội trên một nền tảng kinh tế còn quá nghèo, điều ấy thật không dễ. Ch−a bao giờ những vấn đề lý luận về sự phát triển của đất n−ớc lại đặt ra một cách bức xúc đối với đất n−ớc ta, đang b−ớc vào thế kỷ 21 nh− lúc này. Có làm sáng tỏ những vấn đề đó thì vấn đề nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực mới có ý nghĩa thực tiễn. II. Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực Dân số n−ớc ta tính đến đầu năm 1998 là 76.709.600 ng−ời, dự báo đến năm 2010 sẽ là 86 triệu theo ph−ơng án tốt nhất, nếu không sẽ là 93 triệu và thậm chí 100 triệu ng−ời. Mức sống thuộc loại thấp kém của thế giới (đứng thứ 148 trong 174 n−ớc đ−ợc xếp loại). Tuy nhiên, theo báo cáo của Liên Hiệp quốc (Human Development Report 1998) về chỉ số phát triển con ng−ời (HDI) dựa trên tuổi thọ, sức khỏe, giáo dục, dân trí và mức sống thì Việt Nam xếp loại 122 trong tổng số 174. Việt Nam là n−ớc có mức nghèo khổ nhất trong các n−ớc Đông Nam á. Đ−ờng ranh giới nghèo tính theo mức tiêu dùng năng l−ợng 2.100kcalo/ngày/ng−ời thì cả n−ớc có 23% hộ nghèo (6,7% ở thành thị và 27% ở nông thôn). Cũng có một con số khác đ−ợc đ−a ra là có khoảng 20-25% hộ nghèo và 4-5% hộ đói tính đến 1996. Đến năm 1998, tỷ lệ nghèo đói là 17,5%. Song, cũng trong báo cáo của Liên Hiệp quốc nói trên, có đến 51% dân số nằm d−ới đ−ờng ranh giới nghèo (Population below income povertyline - National poverty line 1989-1994 - Human Development Report 1998, p.147). 3 Human Development Report 1998. UNDP. Published for the united Nations Development Programme. Tr.2 4 Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh và con ng−ời Việt Nam trên con đ−ờng dân giàu n−ớc mạnh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1993. Tr.77. 5 Phạm Văn Đồng: Văn hóa và Đổi mới. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1994. Tr.67. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 24 Số ng−ời d−ới 15 tuổi chiếm 45%, tổng nguồn lao động hàng năm tăng 3,5%, nh− vậy là từ 1996 đến 2010 phải giải quyết việc làm cho 20 triệu ng−ời, mỗi năm 1,33 triệu ng−ời. Đáng chú ý là sự d− thừa lao động ở nông thôn đang là một áp lực lớn, càng làm nặng nề thêm tình trạng quá thừa lao động giản đơn và quá thiếu lao động kỹ thuật. Chính sự quá thừa và quá thiếu này đang đặt ra những đòi hỏi bức xúc và hết sức phức tạp đối với việc nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tr−ớc hết, hãy nêu lên vài con số để nói về vấn đề lao động và việc làm. 1. Về trình độ chuyên môn của ng−ời đang có việc làm Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của công nhân lao động n−ớc ta nói chung là rất thấp. Trong cuộc khảo sát năm 1997, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đ−a ra các con số sau đây (Báo Nhân dân ngày 1/5/1998. Tr.5) Về trình độ văn hóa: Cấp 1: 4,1% Cấp 2: 19% Cấp 3: 32% Trung học chuyên nghiệp: 14% Đại học và trên đại học: 4,3% Về trình độ tay nghề: Thợ bậc 1,2: 13,24% Thợ bậc 3,4: 36,36% Thợ 5,6,7: 25% (trong đó bậc 7 chỉ có 2,4%) Tính riêng Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có số l−ợng công nhân lớn nhất trong cả n−ớc, thì cuộc khảo sát tại 429 đơn vị sản xuất thuộc các ngành công nghiệp, th−ơng mại, giao thông vận tải, tín dụng ... với tổng số 800.621 lao động cho thấy: Về trình độ văn hóa: Cấp 1: 12,7% Cấp 2: 39,5% Cấp 3: 30,7% Về trình độ chuyên môn: - Thợ không có tay nghề chuyên môn: 24,14% - Thợ bậc 1-2 và sơ cấp kỹ thuật: 24,66% - Thợ bậc 6-7: 6,98% - Có trình độ kỹ s−: 7% (Tạp chí Cộng sản. Số 23, 12/1997) Theo thống kê của Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1995 - 2/1998, tỷ lệ lao động đ−ợc đào tạo tay nghề trên tổng số lao động đang làm việc chỉ đạt 6,25%. ở Khu chế xuất Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh chỉ tuyển đ−ợc có 3000 lao động trong khi nhu cầu cần tuyển là 15.000 lao động. Còn ở Hà Nội, theo Trung tâm xúc tiến việc làm Tr−ờng Chinh thì năm 1997, số lao động có tay nghề đến Trung tâm tìm việc chỉ chiếm 15% trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp là 70% lao động có tay nghề. Cùng với những số liệu nói trên, không thể không l−u ý đến mô hình tháp lao động của n−ớc ta với 88% lao động không lành nghề; 5,5% lao động lành nghề; 3,5% chuyên viên kỹ thuật; 2,7% kỹ s−; 0,3% nhà khoa học và chuyên gia. Trong lúc đó, mô hình tháp lao động của các n−ớc công nghiệp th−ờng là: 35% chuyên viên kỹ thuật; 5% kỹ s−; 0,5% nhà khoa học và chuyên gia (Tạp chí Cộng sản số 17, tháng 9/1997). 2. Về vấn đề lao động thiếu việc làm Trong cơ cấu dân số, độ tuổi 15 chiếm 45%, thì tình trạng thiếu việc làm chiếm 6%, riêng ở đô thị chiếm trên 10%. Đấy là theo thống kê, song trong thực tế thì còn cao hơn. - Lao động ở nông thôn chỉ mới sử dụng khoảng 60% quỹ thời gian, trong khi đó, các ngành nghề phụ, kể cả việc phục hồi các ngành nghề truyền thống ch−a giải quyết đ−ợc bao nhiêu. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 25 - Nhìn lại khu vực kinh tế nhà n−ớc (kinh tế quốc doanh) và khu vực liên doanh với n−ớc ngoài (giữa doanh nghiệp nhà n−ớc và đầu t− n−ớc ngoài) thì sẽ thấy rõ hơn vấn đề lao động và việc làm: + Sau việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà n−ớc trong những năm 1990-1992, số việc làm ở khu vực này giảm đi 400.000, tức là còn 1,78 triệu, vào cuối năm 1995, tiếp tục giảm thêm 600.000 nữa, tức là còn 1,72 triệu. + Trong lúc đó, khu vực liên doanh với những thuận lợi về vốn, về điều kiện sử dụng đất, v.v... cũng chỉ tạo thêm đ−ợc 90.000 việc làm trong 5 năm. Nh− thế cũng có nghĩa là, hai hình thức quản lý doanh nghiệp đang phát triển nhanh với một số −u đãi về thuế, về điều kiện sử dụng đất đai, về tiếp cận với nguồn vốn, v.v... đã không tạo thêm đ−ợc việc làm mới nào kể từ 1991-1995. Tình hình tạo việc làm yếu kém này cho thấy những méo mó trong hệ thống các biện pháp khuyến khích hiện đ−ợc đặt cho các nhà đầu t− trong bối cảnh hầu hết các nhà phân tích đều nhất trí rằng lợi thế t−ơng đối quan trọng nhất và duy nhất của Việt Nam là lực l−ợng lao động có thể rẻ, có kỷ luật và có văn hóa. Thế nh−ng, sau 5 năm, với khối l−ợng đầu t− thực hiện theo thông báo là 6 tỷ USD, con số việc làm có liên quan đ−ợc tạo ra là 90.000 trong tất cả các ngành, với chi phí bình quân là 66.700 USD cho mỗi việc làm đ−ợc tạo ra. Tỷ lệ này cộng với con số đầu t− trực tiếp n−ớc ngoài dự kiến sẽ có, nghĩa là trong thời gian 1996-2000 chỉ có 60.000 việc làm đ−ợc tạo ra hàng năm. Nếu nh− thế thì, trong 5 năm (1996-2000) việc làm đ−ợc tạo ra hàng năm chỉ vẻn vẹn 5% số l−ợng lao động tăng lên hàng năm! Đấy là sự tính toán tr−ớc giai đoạn khủng hoảng khu vực!6 - Nếu tính số giảm việc làm trong doanh nghiệp nhà n−ớc và số tăng lên nhờ ở khu vực liên doanh, đầu t− với n−ớc ngoài thì tổng số cả hai khu vực nhà n−ớc (liên doanh cũng chủ yếu là nhà n−ớc + nhà đầu t− n−ớc ngoài) là giảm việc làm trong suốt cả 5 năm, vậy khu vực nào tạo ra việc làm? Xin nêu lên vài con số t−ơng đối cập nhật tại thành phố Hồ Chí Minh: Xét trên tài sản vốn hiện khu vực nhà n−ớc còn nắm giữ trên 70% về vốn tài sản của nền kinh tế, song chính khu vực ngoài quốc doanh lại thu hút khoảng 77% lực l−ợng lao động đang làm việc trên địa bàn thành phố lớn thứ nhất trong cả n−ớc này. Hãy xem bảng thống kê về tỷ trọng đóng góp GDP, thu ngân sách, lao động, việc làm của các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 5 năm 1993-1997. Tỷ trọng đóng góp GDP, thu ngân sách, lao động việc làm việc của các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (%) Chỉ tiêu \ Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1. GDP, trong đó, 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Khu vực kinh tế nhà n−ớc 52.2 51.3 49.2 47.9 46.9 Khu vực ngoài quốc doanh 40.4 40.5 39.7 38.8 37.3 Khu vực đầu t− n−ớc ngoài 7.4 8.2 11.1 13.3 15.7 2. Tổng thu ngân sách 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Trong đó: Tổng thu trong n−ớc 64.3 64.1 60.0 61.6 64.9 Khu vực kinh tế nhà n−ớc 42.9 37.6 29.5 27.0 25.6 Khu vực ngoài quốc doanh 8.2 8.4 8.9 10.78 11.1 Khu vực đầu t− n−ớc ngoài 1.8 4.8 7.5 9.5 9.2 3. Tổng số lao động làm việc 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Khu vực kinh tế nhà n−ớc 21.7 21.9 24.1 22.8 23.11 6 Báo cáo Phát triển năng lực để xóa nghèo ở Việt Nam: “Tiến kịp”. UNDP & UNICEP-1996. Tr. 29. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 26 Khu vực ngoài quốc doanh và đầu t− n−ớc ngoài 78.3 78.1 75.9 77.2 76.89 Từ một vài con số lấy trong thống kê về thực trạng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, càng làm nổi rõ vấn đề đã nêu ở trên: khu vực ngoài quốc doanh là khu vực tạo đ−ợc việc làm nhiều nhất. Nói một cách khác, để giải quyết vấn đề xã hội bức xúc nhất hiện nay về nguồn nhân lực: 16 triệu trên tổng số 40 triệu lao động đang ch−a có việc làm, một tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở khu vực Đông Nam á, cần phải có một chính sách mạnh dạn đối với khu vực t− nhân. Muốn có chính sách mạnh dạn, phải có một đổi mới quyết liệt về t− duy, tháo gỡ những trói buộc trong cơ chế hình thành những giải pháp. Những giải pháp thực tiễn h−ớng vào vấn đề lao động và việc làm sẽ là giải pháp gốc, để từ đó hạn chế dần và đi đến thanh toán các tệ nạn xã hội khác mà nguồn gốc đẻ ra chúng là thực trạng thất nghiệp, là sức lao động không có nơi nào để bán! Thất nghiệp đẻ ra các tệ nạn xã hội tập trung ở đô thị: c−ớp giật, ma túy, mãi dâm. Vì là tập trung nên dễ thấy. Song, nói nh− vậy không phải để nghĩ rằng nông thôn không đáng lo về các tệ nạn trên. Cần thấy rằng, sức lây lan các tệ nạn trên ở nông thôn là rất đáng lo ngại vì ở đây, dân trí thấp, đặc biệt là ở các vùng ven đô. Đ−ơng nhiên, sức mạnh cộng đồng và các mối quan hệ xã hội nông thôn tạo ra một sức đề kháng mạnh hơn ở đô thị để chống lại các tệ nạn đó, song, thực trạng thiếu việc làm ngày càng tăng trên một cái nền dân trí thấp và mức sống thấp, mức sống vật chất và mức sống văn hóa, lại là môi tr−ờng cho những tệ nạn nói trên nảy sinh và phát triển. Thất nghiệp-có sức lao động mà không có điều kiện để sử dụng, không có nơi để bán-đó là sự gậm nhấm tàn nhẫn nhất đối với nhân cách của con ng−ời. Có hiểu nh− vậy mới có thể truy tìm nguồn gốc của các tệ nạn xã hội và do vậy, tìm ra các giải pháp có hiệu lực để thanh toán các tệ nạn ấy. Một cách đơn giản là tìm nguyên nhân của các tệ nạn trên ở mặt trái của nền kinh tế thị tr−ờng. Nh−ng cách đó không giúp đ−a đến các giải pháp thực tiễn. Bởi lẽ, để thanh toán các mặt trái ấy thì chỉ có thể có 2 cách: một là kìm sự phát triển kinh tế thị tr−ờng lại, dung túng cho thói xin cho đặc quyền đặc lợi của chế độ bao cấp lỗi thời, tạo ra sự cấu kết nguy hiểm giữa bộ máy quyền lực với những thế lực của thị tr−ờng tự do bị chiếm đoạt (captured free market), hai là phát huy mặt mạnh của thị tr−ờng để khống chế và triệt tiêu dần mặt tiêu cực, mặt trái của nó. Mặt mạnh, mặt phải ấy là gì nếu không là sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh của các thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt chú ý đến đầu t− tạo công ăn việc làm cho ng−ời lao động, phát huy đ−ợc nguồn nhân lực. Giải pháp cơ bản để sử dụng nguồn nhân lực đang ch−a đ−ợc sử dụng là tạo điều kiện để cho ng−ời có điều kiện sử dụng nguồn nhân lực đó, tức là điều kiện tạo ra công ăn việc làm cho ng−ời lao động đang cần việc làm. Nói một cách rốt ráo tức là tạo điều kiện cho ng−ời cần mua sức lao động có thể dễ dàng mua để phát triển sản xuất. Cần nhớ rằng, việc làm sẽ đẻ ra việc làm, không chỉ theo số cộng mà có thể theo cấp số nhân. Phải có việc làm cho ng−ời lao động có nhu cầu làm việc đã, mặt khác lại phải đồng thời nâng cao chất l−ợng, tức là đào tạo tay nghề để thích ứng với đòi hỏi của công việc mới. 3. Về lao động có trình độ cao Trong một báo cáo gần đây của ủy ban Liên Hiệp quốc về khoa học và công nghệ vì sự phát triển với chủ đề “Các xã hội tri thức: Công nghệ thông tin và sự phát triển bền vững”, các tác giả đã đi đến kết luận: “Các n−ớc đang phát triển từ những điểm xuất phát khác nhau đều cần xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia để phục vụ các mục tiêu phát triển h−ớng tới một “xã hội tri thức” đổi mới, và dù cái giá phải trả cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đó là khá cao, nh−ng cái giá phải trả cho việc không làm điều đó chắc sẽ còn cao hơn rất nhiều!” Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 27 Bàn về “nâng cao chất l−ợng trong quản lý sự phát triển xã hội” không thể không l−u ý đến cái giá phải trả cho sự lạc hậu của “kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia để phục vụ các mục tiêu phát triển”đó. Đối diện với một nền “kinh tế tri thức”, một “xã hội tri thức” khi mà nhân loại từng b−ớc tiến vào “kỷ nguyên công nghệ”, “kỷ nguyên thông tin” cần nghiêm túc nhìn lại thực trạng của trình độ khoa học công nghệ, của đội ngũ trí thức và cán bộ khoa học công nghệ của n−ớc ta với một ý thức trách nhiệm cao tr−ớc số phận của dân tộc, của đất n−ớc. Trong “xã hội tri thức”, nền “kinh tế tri thức” ấy, cái vốn con ng−ời (human capital) đ−ợc đặt cao hơn vốn vật chất (physical capital). Cùng với đầu t− tập trung vào vốn con ng−ời, hai đặc tr−ng khác nữa của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới là sự phát triển của các ngành công nghệ cao với tính cách là yếu tố then chốt của sự phát triển và sự phát triển mạnh mẽ lĩnh vực hoạt động dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ tri thức và dịch vụ xử lý thông tin.7 Khi nói đến nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực của chúng ta, không thể nào không chú ý đến 3 đặc điểm nói trên của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đang diễn ra. ấy thế mà, theo một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Chiến l−ợc Khoa học Công nghệ thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi tr−ờng thì công nghệ của Việt Nam hiện đi sau từ 50 đến 100 năm so với các quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới. Mức độ lạc hậu của các thiết bị ở Việt Nam so với mức độ tiên tiến trên thế giới khoảng từ 2-3 thế hệ (tạm tính mỗi thế hệ là 10 năm), hoặc từ 4-5 thế hệ tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Theo đoàn chuyên gia quốc tế IDRC vừa kết thúc chuyến khảo sát về khoa học công nghệ của Việt Nam trong tháng 12/1997 thì, nếu tăng mức đầu t− cho hoạt động khoa học công nghệ từ 1% ngân sách năm 1997 lên đến 1,3% năm 1998 và 1,6% cho năm 1999 và 2% cho năm 2000 (theo thông báo chính thức của Ban Khoa giáo Trung −ơng vào cuối tháng 7 năm 1998) Việt Nam vẫn sẽ tụt hậu t−ơng đối xa so với đối thủ cạnh tranh chính, đáng chú ý nh− Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, những n−ớc này đang chi phí trên 5%! Đoàn chuyên gia quốc tế IDRC l−u ý: “Tuy với một vài ngành, năng lực khoa học của Việt Nam đ−ợc xếp vào loại cao (một số nhà toán học và vật lý lý thuyết đã giành đ−ợc danh tiếng trên tr−ờng quốc tế) nh−ng rất ít nhà khoa học Việt Nam tỏ ra lạc quan về t−ơng lai của nghiên cứu cơ bản ở Việt Nam. Nhiều nhà khoa học đã phiền muộn đối với sự suy giảm về uy tín và sự đầu t− mà họ đã có đ−ợc trong thời kỳ tr−ớc. Sau những năm đổi mới, xuất hiện sự thiếu ổn định đối với các nhà khoa học với một mức l−ơng hoàn toàn không cân xứng để c−u mang một gia đình. Do vậy rất nhiều nhà khoa học đã phải làm thêm việc phụ hoặc rời bỏ khoa học. Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học, mức độ xuất sắc về khoa học đã suy giảm trong m−ời năm gần đây”. Nhóm chuyên gia trên khuyến cáo “để đạt đ−ợc trình độ của thế giới, cần phải có các nhà khoa học uyên bác làm việc trong một môi tr−ờng tốt với các thiết bị tiên tiến và tiếp cận với các chủ đề nghiên cứu mà các nhà bác học n−ớc ngoài đang nghiên cứu. Phải có các nhà khoa học dấn thân với khoa học. Việt Nam ch−a đáp ứng đ−ợc phần lớn các yêu cầu nói trên!” Hiện chúng ta có 104 tr−ờng Đại học và Cao đẳng, 215 tr−ờng trung học chuyên nghiệp, 255 Viện và Trung tâm nghiên cứu khoa học với khoảng 30 nghìn ng−ời tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ. Cũng theo nhóm chuyên gia IDRC nói trên, năm 1995, đã có cả thảy 9000 đề tài khoa học công nghệ đ−ợc tài trợ từ ngân sách với mức kinh phí cấp cho mỗi đề tài khoảng trên d−ới 5000 USD! Liệu với một kinh phí chi đều nh− vậy cho một đề tài nghiên cứu khoa học, có tạo ra đ−ợc những sản phẩm nghiên cứu đạt chất l−ợng cao nh− mục tiêu đ−ợc đặt ra không? 7 Xem thêm bài Tri thức là gì? của Phan Đình Diệu đăng cùng số Tạp chí này. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 28 Trong đội ngũ ng−ời nghiên cứu khoa học nói trên, chỉ có khoảng 11% có trình độ trên đại học, mà phần lớn lại là những cán bộ khoa học đã nhiều tuổi. Theo Viện nghiên cứu Chiến l−ợc Khoa học Công nghệ, độ tuổi trung bình của cán bộ trình độ cao là vào khoảng 50-60 tuổi. Tuổi trung bình của các giáo s− trong các Viện là 59,5, của các phó giáo s− là 56,4 và tuổi trung bình của các viện tr−ởng là 55. Tình trạng hụt hẫng, đứt đoạn trong đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học có thực lực và thực tài là phổ biến trong hầu hết các cơ quan nghiên cứu. Đây là ch−a nói đến thảm trạng của việc lạm phát các văn bằng hữu danh, vô thực, của tệ nạn mua bằng, bán điểm, viết thuê luận án, công trình rởm đã tạo ra một số ng−ời khoác vào mình đầy những học hàm, học vị để dễ bề thăng quan tiến chức song không hề có thực tài. Sự đứt đoạn và hụt hẫng trong đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học có nhiều nguyên nhân, một trong những điều dễ dàng nhận thấy nhất đó là điều kiện nghiên cứu quá nghèo nàn, lạc hậu. Xin nêu một ví dụ. Tại Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nơi có lò phản ứng hạt nhân duy nhất của cả n−ớc thì, th− viện của Viện không có Tạp chí khoa học chuyên ngành, Viện không có điều kiện đặt mua bất cứ một tạp chí khoa học nào ngoài tờ thông tin nội bộ của IAEA (cơ quan nguyên tử năng quốc tế) gửi cho không và chậm đến cả năm. Mạng Internet cũng ch−a tới đ−ợc nơi đây. Chả thế mà có những cán bộ khoa học trẻ của Viện phải chật vật nhiều năm mày mò một đề tài khoa học chỉ ngang tầm một bài tập mà trên thế giới ng−ời ta đã soạn thành quy trình hay đã đ−ợc khẳng định là một h−ớng đi vào ngõ cụt từ nhiều năm tr−ớc! (theo báo Lao động ngày 5/10/1998. Số 159. Tr.6) Trong điều kiện nghiên cứu lạc hậu, ngoài việc đầu t− kinh phí, còn phải nói đến cái cơ chế quản lý khoa học quá lạc hậu, không thích ứng với yêu cầu mới. Có lẽ, sự trì trệ, bảo thủ của cơ chế quản lý trong cơ quan nghiên cứu khoa học thuộc loại trì trệ bảo thủ nhất trong những thiết chế cũ đối diện với một sự đổi thay cơ bản từ cơ chế quan liêu, kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị tr−ờng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Các Viện nghiên cứu khoa học hiện nay tồn tại tình trạng vừa thiếu, rất thiếu, vừa thừa, rất thừa. Thiếu cán bộ có trình độ và có bản lĩnh làm nghiên cứu khoa học. Thừa cán bộ thiếu trình độ, lấy Viện làm chỗ trú chân trong biên chế song không có khả năng, không có bản lĩnh làm công tác nghiên cứu. Vì không có quá trình thanh lọc và chu chuyển cán bộ nên không có điều kiện tiếp thêm sinh lực mới cho cơ quan khoa học. Một biên chế cứng và chết, biến nhiều Viện nghiên cứu thành một nơi nuôi d−ỡng thói cầu an, n−ớc chảy bèo trôi, ai làm việc cứ làm không hết việc, ai không có khả năng và không muốn phấn đấu tự nâng mình lên thì cứ việc thoải mái sống qua ngày với đồng l−ơng mòn mỏi. Cuộc sống đang hàng ngày hàng giờ vận động và biến đổi, đang sinh sôi nảy nở không biết bao nhiêu sự kiện, những vấn đề, những điều bí ẩn cần tìm hiểu, phân tích, khám phá để đ−a ra những câu trả lời. Nếu mọi lời giải đáp đều tìm thấy trong sách vở, cho dù là “sách kinh điển” thì còn cần gì nghiên cứu khoa học. Không ai khác, chính Mác nói rằng “sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của t− duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”8 Phải chăng tính chất kinh viện đang làm héo mòn ngành khoa học xã hội, trong lúc thực tiễn lại đang giục giã sự tìm tòi sáng tạo và đem lại sinh khí cho ngành khoa học đang giữ một vai trò quan trọng, cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp Đổi Mới mà nhân dân ta đang từng ngày từng giờ tạo nên? 8 C. Mác & Ph. Ăng ghen toàn tập. tập 3. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1995. Tr.10. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn T−ơng Lai 29 Nếu trong cái “xã hội tri thức”,nền “kinh tế tri thức” mà chúng ta đang sẽ phải dấn thân, cái vốn con ng−ời đ−ợc đặt cao hơn vốn vật chất nh− đã nói ở trên thì ngành khoa học xã hội và nhân văn phải là ngành khoa học đặt nền tảng cho việc “nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực”. Nếu ở các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ, việc đầu t− cho các điều kiện nghiên cứu nh− trang thiết bị, phòng thí nghiệm, ph−ơng tiện giao l−u với giới khoa học quốc tế, đào tạo cán bộ trẻ theo những quy hoạch đồng bộ, v.v... đòi hỏi chi ngân sách khá lớn thì ở các ngành khoa học xã hội và nhân văn, những chi phí trên đây cũng rất cần thiết, song cái cần thiết nhất trong khoa học xã hội và nhân văn lại không đòi hỏi phải tốn kinh phí. Đó là sự cởi mở về đ−ờng lối, là sự mở rộng dân chủ, tôn trọng sự tìm tòi sáng tạo của nhà nghiên cứu h−ớng tới mục tiêu “dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh”, vì lợi ích của dân tộc. Sự tự do t− t−ởng là điều kiện tiên quyết và là môi tr−ờng kích thích cho tìm tòi, sáng tạo trong khoa học xã hội và nhân văn. Nếu ở một viện nghiên cứu nh− Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, điều kiện tiên quyết của sự tồn tại và phát triển phụ thuộc vào h−ớng đầu t− và đơn đặt hàng của nhà n−ớc và của xã hội, trong đó vấn đề cơ bản là chiến l−ợc năng l−ợng quốc gia và vị trí của nhà máy điện nguyên tử trong chiến l−ợc đó nh− báo Lao động ngày 5/10/1998 nêu ra thì ở một Viện nghiên cứu khoa học xã hội, điều kiện tiên quyết đó lại là đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp Đổi Mới với những đơn đặt hàng cho sự tìm tòi, sáng tạo nhằm thúc đẩy sự nghiệp đó, “một công việc ch−a có tiền lệ”, “một con đ−ờng ch−a có bản đồ”. Mở rộng dân chủ trong nghiên cứu khoa học, phát huy tự do t− t−ởng của nhà khoa học theo mục tiêu nói trên là điều kiện quan trọng nhất của sự tồn tại và phát triển khoa học xã hội nếu nó đích thực là một khoa học! Cùng với điều kiện quan trọng nhất đó, đ−a khoa học xã hội đi vào bám sát cuộc sống, đổi mới phong cách nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu thích hợp với cơ chế mới của nền kinh tế thị tr−ờng, khiến cho sản phẩm khoa học đáp ứng đ−ợc đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội và đào tạo con ng−ời phù hợp với sự phát triển đó. Cùng với những vấn đề của đội ngũ cán bộ khoa học và các Viện nghiên cứu khoa học, nơi tập trung những “sức lao động” đã đ−ợc tinh chế, nơi sản sinh ra thứ hàng hóa sức lao động cao cấp: chất xám, vấn đề nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực còn phụ thuộc và gắn bó máu thịt với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. * * * Kết luận Xét đến cùng, vấn đề “nguồn nhân lực”, vấn đề con ng−ời là trung tâm của mọi vấn đề. X−a đã vậy, nay lại càng nh− vậy. Đặc biệt là khi nền văn minh trí tuệ đang từng b−ớc hình thành và chi phối cuộc sống của loài ng−ời trên toàn cầu thì vấn đề con ng−ời, chất l−ợng sống của con ng−ời, năng lực sáng tạo của con ng−ời càng là vấn đề nổi lên hàng đầu. N−ớc ta từ một xuất phát điểm thấp, vẫn đang từng b−ớc hội nhập với khu vực và thế giới, đấy là một đòi hỏi của sự phát triển, thậm chí có thể nói đấy là một cách thế để tồn tại trong một thế giới đa cực. Một quá trình chuyển dịch cơ cấu khá năng động, quá trình liên kết kinh tế ở quy mô toàn cầu và khu vực đang ngày càng sâu rộng hơn, với vận tốc lớn hơn đòi hỏi các n−ớc đều phải tìm cách thích ứng nếu muốn tồn tại và phát triển. Có thể nêu lên 3 nét nổi bật của quá trình nói trên: - Phần lớn các quốc gia đều tìm cách đẩy nhanh hơn nữa quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới với mục đích tìm kiếm và phát huy lợi thế của mình và đối phó hữu hiệu với những thách thức. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Đôi điều suy nghĩ về vấn đề “Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực ... 30 - Hầu hết các quốc gia đều chủ động tham gia vào xu thế tự do hóa th−ơng mại để cố giành lấy thị phần lớn hơn cho mình hoặc để cạnh tranh tốt hơn, tự vệ tốt hơn. - Hầu hết các quốc gia đều đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, quyết liệt trong việc phát triển khoa học và công nghệ và cải cách thể chế quản lý kinh tế - xã hội trong một bối cảnh mà chu kỳ “nghiên cứu - triển khai - sản xuất - chuyển sang mặt hàng mới” của nghiên cứu sản phẩm công nghiệp ngày càng rút ngắn. Trong bối cảnh đó, những n−ớc đi sau, nếu biết cách, có thể đón đầu, đi thẳng vào những công nghệ hiện đại nhất. Tất cả những điều đó đang diễn ra tr−ớc mắt chúng ta. Chủ động phấn đấu, táo bạo v−ơn lên, vứt bỏ những trì trệ và bảo thủ, dám hành động để tìm cho mình một lối thoát, đ−a dân tộc v−ợt qua nghèo nàn và lạc hậu, tiến tới mục tiêu “dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Đó là sự lựa chọn khôn ngoan và phù hợp với xu thế của sự phát triển. Để làm điều đó, mỗi con ng−ời Việt Nam cần phải biết chỗ mạnh chỗ yếu của chính mình, chỗ mạnh chỗ yếu của dân tộc mình để dám tiếp nhận cái mới, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển. Nâng cao chất l−ợng nguồn nhân lực là một đầu t− khôn ngoan và có triển vọng nhất để phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ để đi tới. Đây là một quá trình bền bỉ và dũng cảm, và là một tìm tòi sáng tạo, là một đề tài khoa học không chỉ nghiệm thu một lần mà xong. Kết quả nghiên cứu đang còn ở phía tr−ớc, con đ−ờng đi tới của dân tộc sẽ từng b−ớc kiểm nghiệm những thành tựu nghiên cứu ấy. Tài liệu tham khảo: • “Tiến Kịp”- Phát triển năng lực để xóa nghèo ở Việt Nam. Liên Hiệp quốc do UNDP và UNICEF xuất bản. Hà Nội-10/1996. • Vấn đề NGHèO ở Việt Nam. Công ty ADUKI. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1996. • Human Development Report 1998. Published for the united Nations Development Programme (UNDP). NewYork Oxford University Press-1998. • “Selected data of some censuses and general surveys servicing population-family planning activities“. Center for Population Studies and Information-Ethnic Culture Publishing House, Hanoi-1998 • “Trí thức Việt Nam- Thực tiễn và triển vọng“. Phạm Tất Dong chủ biên. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội-1995. • Kỷ yếu Hội thảo khoa học lần thứ t− “Thực tiễn công bằng xã hội đối với các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa“. Hội đồng Lý luận Trung −ơng-Bộ Khoa học Công nghệ và Môi tr−ờng-Ch−ơng trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà n−ớc. Thành phố Hồ Chí Minh-tháng 9/1998. • Báo cáo chuyên đề “Thực trạng phát triển kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua“ của PGS Nguyễn Thị Cành trình bày tại cuộc Hội thảo nói trên. • Tạp chí Cộng sản số 17 và số 23 năm 1997. Báo Lao động ngày 5/10/1998. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoi_dieu_suy_nghi_ve_van_de_nang_cao_chat_luong_nguon_nhan_l.pdf