Nghiên cứu được tiến hành nhằm phát triển phương pháp multiplex PCR phát hiện nhanh và chính xác vi
khuẩn Chlamydia trachomatis. Các mẫu bệnh được khảo sát là của các bệnh nhân tới khám chữa bệnh tại
bệnh viện Phụ sản Bắc Giang từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011. Điều kiện tối ưu của phản ứng PCR nhằm
phát hiện các đoạn DNA đặc thù của Chlamydia trachomatis bằng 5 cặp mồi CtP, CtM, CtR, NO, Chlamp và
cặp mồi đối chứng dương AR, đã được khảo sát và cho thấy nhiệt độ gắn mồi tối ưu của từng cặp mồi nằm
trong khoảng từ 53oC đến 57oC. Đồng thời, điều kiện tối ưu cho phản ứng Multiplex PCR với 4 cặp mồi: CtP,
NO, Chlamp và AR đã được xác định là 56oC. Kết quả khảo sát tỷ lệ nhiễm bệnh ở các bệnh nhân đến khám
phụ khoa ở bệnh viện Phụ sản Bắc Giang cho thấy có 31 mẫu dương tính trong số 251 mẫu nghiên cứu,
chiếm 12,35%.
8 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển phương pháp multiplex - PCR phát hiện vi khuẩn chlamydia trachomatis, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 27
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP MULTIPLEX - PCR
PHÁT HIỆN VI KHUẨN CHLAMYDIA TRACHOMATIS
Nguyễn Ngọc Chỉnh1, Phạm Đăng Bảng2, Trần Hậu Khang2, Đặng Xuân Nghiêm1
1Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu được tiến hành nhằm phát triển phương pháp multiplex PCR phát hiện nhanh và chính xác vi
khuẩn Chlamydia trachomatis. Các mẫu bệnh được khảo sát là của các bệnh nhân tới khám chữa bệnh tại
bệnh viện Phụ sản Bắc Giang từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011. Điều kiện tối ưu của phản ứng PCR nhằm
phát hiện các đoạn DNA đặc thù của Chlamydia trachomatis bằng 5 cặp mồi CtP, CtM, CtR, NO, Chlamp và
cặp mồi đối chứng dương AR, đã được khảo sát và cho thấy nhiệt độ gắn mồi tối ưu của từng cặp mồi nằm
trong khoảng từ 53oC đến 57oC. Đồng thời, điều kiện tối ưu cho phản ứng Multiplex PCR với 4 cặp mồi: CtP,
NO, Chlamp và AR đã được xác định là 56oC. Kết quả khảo sát tỷ lệ nhiễm bệnh ở các bệnh nhân đến khám
phụ khoa ở bệnh viện Phụ sản Bắc Giang cho thấy có 31 mẫu dương tính trong số 251 mẫu nghiên cứu,
chiếm 12,35%.
Từ khóa: chẩn đoán nhanh, Chlamydia trachomatis, Multiplex PCR
Địa chỉ liên hệ: Đặng Xuân Nghiêm, khoa Công nghệ sinh
học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Email: dxnghiem@hua.edu.vn
Ngày nhận: 12/01/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục do vi
khuẩn Chlamydia trachomatis (C. trachomatis)
là bệnh phổ biến trên toàn Thế giới và có mức
độ lây nhiễm cao. Theo Tổ chức Y tế Thế giới,
mỗi năm có khoảng 90 triệu người mắc bệnh
do nhiễm vi khuẩn này. Nhiễm C. trachomatis
là nguyên nhân gây viêm vùng chậu, với
khoảng 80% nữ giới và 70% nam giới nhiễm
C. trachomatis không biểu hiện triệu chứng,
đây là nguyên nhân bệnh lây bệnh ra cộng
đồng [1]. Vi khuẩn C. trachomatis là vi khuẩn
kí sinh nội bào, bệnh ít biểu hiện ra bên ngoài
nên cần có biện pháp phát hiện nhanh vi
khuẩn để có biện pháp chữa kịp thời tránh gây
biến chứng cho các bệnh nhân. Việc sử dụng
các cặp mồi đã nghiên cứu và công bố trên
thế giới để phát triển thành kít phát hiện vi
khuẩn C. trachomatis ở các bệnh nhân là
phương pháp có độ chính xác cao. Ratti và
cộng sự (1991) dùng cặp mồi Chlamp để xác
định vi khuẩn C. trachomatis [2]. Năm 1993,
Roosendaal và cộng sự đã so sánh độ nhạy
của phương pháp chuẩn đoán bằng PCR, sử
dụng 4 cặp mồi AR, CtM, CtR, CtP để xác
định vi khuẩn C.trachomatis [3]. Đến năm
2006, Viroj cùng các cộng sự đã dùng cặp mồi
NLO để xác định các mẫu bệnh [1]. Mục tiêu
nghiên cứu nhằm khảo nghiệm, tối ưu hóa việc
ứng dụng các cặp mồi đã công bố để phát hiện
vi khuẩn C. trachomatis bằng phương pháp
PCR; phát triển phương pháp multiplex PCR
phát hiện vi khuẩn C. trachomatis và xác định
tỷ lệ nhiễm C. trachomatis tại Bắc Giang bằng
phương pháp multiplex PCR.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
20 mẫu DNA của vi khuẩn C. trachomatis
thu thập và tách chiết tại Bệnh viện Da liễu
Trung Ương được sử dụng để tối ưu hóa
phản ứng PCR, 251 mẫu bệnh phẩm của các
bệnh nhân nữ đến khám phụ khoa tại bệnh
viện Phụ sản Bắc Giang tình nguyện tham gia
28 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nghiên cứu từ ngày 15/03/2011 đến ngày
13/05/2011.
2. Phương pháp
2.1. Phương pháp thu thập mẫu
Mẫu bệnh phẩm của các bệnh nhân nữ
tham gia nghiên cứu được thu thập qua hai
dạng: nước tiểu và mẫu quệt cổ tử cung.
Mẫu được bảo quản trong ống eppendorf có
đệm PBS (Phosphate-buffered saline) và ly
tâm 14000 vòng/phút trong 15 phút trong 4oC
để thu các tế bào trong mẫu bệnh. Sau đó các
tế bào được rửa bằng đệm PBS và bảo quản
ở - 20oC.
2.2. Phương pháp tách chiết DNA
Phương pháp sử dụng Trizol: 200 µl mẫu
được trộn đều với 900 µl dung dịch Trizol pH 8,
vortex 30 giây, ủ 10 phút ở nhiệt độ phòng.
Sau đó, 200µl chloroform được thêm vào và
trộn đều sao cho toàn bộ dung dịch trong ống
eppendorf chuyển thành màu trắng đục, hỗn
hợp được ly tâm ở 4oC, 13000 vòng/phút
trong 10 phút. Dịch nổi được chuyển vào ống
eppendorf mới có sẵn 600µl isopropanol lạnh,
trộn đều và ủ -20oC 30 phút. DNA được thu
bằng cách ly tâm 13000 vòng/phút trong 10
phút và rửa bằng 900µl ethanol 70%, để khô
ethanol ở nhiệt độ phòng và hòa tan bằng
50µl dung dịch đệm TE 10mM, pH 8. Mẫu
DNA được bảo quản ở - 20oC [4].
Phương pháp sử dụng proteinase K và
phương pháp đun sôi được tiến hành theo
nghiên cứu của Jenab và cộng sự (2010) [5].
2.3. Tối ưu hóa điều kiện phản ứng PCR,
Multiplex PCR
Bảng 1. Các mồi sử dụng trong nghiên cứu
Vị trí đoạn gen
được nhân Tên mồi Trình tự mồi (5’ – 3’)
Kích thước
(bp)
Nhiễm sắc thể
vi khuẩn
Chlamp - 1 CCAAAGCTATTCAAAATCGGAGCTCTAAGA
610 - 612
Chlamp - 4 GTCTTCTGCTTACAATGCTCTTGCATATTA
NLO ATGAAAAAACTCTTGAAATCG
1128
NRO CTCAACTGTAACTGCGTATTT
DNA người
AR1 GGCGGTGACGGAGCTGGGGCG
153
AR2 CGCCGCTGCACTGTGAAGCTC
Plasmid
CtP1 TAGTAACTGCCACTTCATCA
201
CtP2 TTCCCCTTGTAATTCGTTGC
Gen MOMP
trên NST
vi khuẩn
CtM1 GCCGCTTTGAGTTCTGCTTCCTC
129
CtM2 CCAAGTGGTGCAAGGATCGCA
Riboxôm
CtR1 GTGGATAGTCTCAACCCTAT
310
CtR2 CCCTAAGTGTTGGCAACTAA
TCNCYH 83 (3) - 2013 29
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Để đánh giá độ nhạy và tiềm năng xác định
mẫu bệnh phẩm có nhiễm vi khuẩn C. tracho-
matis bằng phản ứng PCR, 5 cặp mồi nghiên
cứu và cặp mồi đối chứng dương đã được sử
dụng (bảng 1). Mỗi cặp mồi nhân các đoạn
DNA khác nhau của vi khuẩn C. trachomatis,
ngoại trừ cặp AR là đối chứng dương trong
phản ứng PCR, nhân một trình tự của HLA
người - đoạn gen mã hóa cho kháng nguyên
bạch cầu HLA lớp 2 trong tế bào người. Trong
mỗi xét nghiệm, đoạn DNA sản phẩm do cặp
mồi AR phải luôn được nhân lên để xác định
DNA được tách từ mẫu bệnh phẩm thành
công. Đồng thời, DNA khuôn tách chiết từ các
mẫu của người đã biết chắc chắn mang bệnh
và không mắc bệnh cũng được chạy cùng
như một đối chứng dương và âm tương ứng.
Cặp mồi Chlamp, NO nhân đoạn DNA trên
nhiễm sắc thể của vi khuẩn [6; 7], cặp mồi CtP
nhân đoạn DNA trên plamid 7,5 kb phổ biến,
CtR nhân đoạn DNA của gen mã hóa riboxôm
16S, cặp mồi CtM nhân đoạn DNA không biến
đổi của gen mã hóa protein trên màng tế bào
của vi khuẩn C. trachomatis [3].
Thành phần PCR: PCR buffer (50 mM KCl,
1,5 mM MgCl2, 10 mM Tris - HCl pH = 8,3);
200 µM mỗi loại dNTP (dATP, dTTP, dGTP,
dCTP); 50 pmol cho mỗi mồi và 1 U Taq poly-
merase. Trong phản ứng Multiplex PCR, để
phản ứng tối ưu, mỗi phản ứng Multiplex PCR
cũng có 200 µM mỗi loại dNTP, 1,5 mM MgCl2
và 50 pmol cho mỗi mồi. Chu trình nhiệt: 95oC
5 phút, 95oC 1 phút, 50 - 60oC 2 phút, 72oC
1,5 phút, lặp lại 35 chu kỳ, kết thúc 72oC trong
10 phút. Sản phẩm PCR được điện di trên gel
agarose 2,5%.
2.4. Khảo sát tỷ lệ nhiễm bệnh ở Bắc Giang
Nghiên cứu tiến hành khảo sát 251 mẫu
bệnh thu thập tại bệnh viện Phụ sản Bắc
Giang. Các mẫu bệnh được tách chiết DNA và
chạy multiplex PCR. Nếu phản ứng multiplex
PCR dương tính thì mẫu bệnh có chứa vi
khuẩn C. trachomatis, nếu không phản ứng
mẫu bệnh được kết luận không chứa vi khuẩn
gây bệnh.
III. KẾT QUẢ
1. Kết quả tách chiết DNA từ mẫu bệnh
DNA tổng số của các mẫu bệnh được tách
chiết theo 3 phương pháp khác nhau: phương
pháp sử dụng Trizol, phương pháp sử dụng
protein K và phương pháp đun sôi. Nồng độ
và chất lượng DNA tổng số đã được kiểm tra
bằng máy đo quang phổ hấp thụ và điện di.
Kết quả của nhiều thí nghiệm lặp lại cho thấy
phương pháp sử dụng Trizol cho chất lượng
và số lượng DNA tốt nhất. Ngoài ra, mẫu bệnh
phẩm là tế bào thu từ ly tâm nước tiểu cho kết
quả tách chiết kém hơn so với mẫu dịch tiết
cổ tử cung. Độ nhạy khi xét nghiệm các bệnh
phẩm bằng nước tiểu thấp hơn nhiều so với
bệnh phẩm là mẫu quệt cổ tử cung.
2. Kết quả kiểm nghiệm điều kiện tối ưu
để chạy mỗi cặp mồi
Mỗi cặp mồi nghiên cứu nhân các đoạn
DNA khác nhau có kích thước khác nhau.
Qua khảo sát với các DNA khuôn từ mẫu
bệnh đối chứng dương tách chiết bằng kít
chuẩn IVApDNA Extraction Kit - Code VA.A92-
002A, các điều kiện khác nhau về thành phần
Mg2+, hàm lượng dNTP, thời gian bắt cặp
của các cặp mồi cho ta thấy kết quả khác
nhau không có ý nghĩa. Tuy nhiên, hình 1
cho thấy nhiệt độ gắn mồi tối ưu của mỗi cặp
mồi là khác nhau.
30 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 1. Sản phẩm PCR của các cặp mồi nghiên cứu
Nhiệt độ tối ưu cho các cặp mồi đã được
nghiên cứu và lựa chọn dựa theo các nghiên
cứu của Ratti cùng cộng sự (1991), Roosen-
daal cùng cộng sự (1993), Viroj cùng cộng sự
(2006). Trong nghiên cứu này, nhiệt độ tối ưu
đã được xác định lại riêng cho từng cặp mồi
như sau: cặp mồi AR, NO, CtR, CtM có nhiệt
độ gắn mồi tối ưu là 55oC, cặp mồi Chlamp có
nhiệt độ gắn mồi tối ưu là 53oC và cặp mồi
CtP có nhiệt độ gắn mồi tốt nhất ở 57oC. Như
vậy, nhân tố nhiệt độ bắt cặp ảnh hưởng
mạnh tới kết quả của phản ứng PCR. Hình 1
còn cho thấy, ngoại trừ mồi AR, các cặp mồi
nghiên cứu đều rất nhạy và cho ra các sản
phẩm rõ nét, đúng kích thước. Sản phẩm PCR
của 5 cặp mồi cũng đã được khẳng định là
DNA của C. trachomatis bằng việc cắt bằng
enzyme giới hạn thích hợp và giải trình tự.
Việc khảo sát này được thực hiện nhằm tìm ra
các cặp mồi tốt nhất, có nhiệt đội gắn mồi tối
ưu gần giống nhau để dùng trong phản ứng
multiplex PCR.
3. Kết quả multiplex PCR
Dựa vào kết quả khảo sát nhiệt độ gắn mồi
và kích thước sản phẩm PCR, phản ứng
multiplex PCR được tiến hành xây dựng để
phát hiện nhanh và chính xác vi khuẩn C.
trachomatis. 4 cặp mồi, AR, CtP, Chlamp và
NO, có nhiệt độ gắn mồi gần giống nhau được
chọn để chạy phản ứng multiplex PCR. Nhiệt
độ gắn mồi cho phản ứng multiplex PCR được
khảo sát lại ở dải nhiệt độ từ 47oC tới 56oC và
kết quả được thể hiện trong hình 2.
Hình 2. Sản phẩm phản ứng Multiplex PCR
với 4 cặp mồi: AR, CtP, Chlamp và NO
M: Thang DNA 100 bp; 1: 47oC; 2: 50oC;
3: 53oC; 4: 56oC
TCNCYH 83 (3) - 2013 31
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nhiệt độ gắn mồi tốt nhất cho phản ứng
Multiplex PCR là 56oC.
4. Kết quả khảo sát các mẫu bệnh từ
bệnh viện Phụ sản Bắc Giang
Trong nghiên cứu này, có 251 mẫu bệnh
phẩm của các bệnh nhân được thu thập. Căn
cứ vào nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, quê
quán và nghề nghiệp, các bệnh nhân được
phân ra nhiều các nhóm nhỏ khác khác nhau
theo đặc điểm trên.
Đáng ngạc nhiên là các phản ứng multiplex
PCR với các mẫu nghiên cứu hoặc cho sản
phẩm đầy đủ của các cặp mồi thành phần với
độ nét cao hoặc không có bất kỳ sản phẩm
nào ngoài DNA do cặp mồi AR nhân lên. Kết
quả này có sự khác biệt với công bố của
Roosendaal cùng cộng sự (1993) rằng cặp
mồi CtP có độ nhạy cao hơn các cặp mồi khác.
Kết quả phản ứng multiplex PCR phát hiện
ra 31 mẫu trong tổng số 251 mẫu bệnh phẩm
của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu có
kết quả dương tính, chiếm 12,35%.
Hình 3. Tỷ lệ các bệnh nhân dương tính với phản ứng Multiplex PCR
theo lứa tuổi, nơi sống, tình trạng hôn nhân và nghề nghiệp
32 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
IV. BÀN LUẬN
Phát triển phản ứng multiplex PCR
Hiện nay, phương pháp nuôi cấy các vi
khuẩn C. trachomatis trong các tế bào nuôi
cấy là một phương pháp cho kết quả chính
xác và là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán C.
trachomatis. Tuy nhiên, việc phải vận chuyển
bệnh phẩm tới các phòng thí nghiệm đủ tiêu
chuẩn và chi phí cao cho quá trình nuôi cấy là
nhược điểm của phương pháp này [7].
Phương pháp phát hiện kháng nguyên như
miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (Direct
Immunofluorescence (DIF)) và miễn dịch gắn
men (Enzyme - Immunoassays (EIA)) là các
phương pháp xét nghiệm được sử dụng rộng
rãi nhất mà không cần nuôi cấy C. tracho-
matis. Gần đây, các kỹ thuật lai DNA đã được
giới thiệu. Tuy nhiên, khi so sánh với các
phương pháp khác trong điều kiện tối ưu, các
phương pháp xét nghiệm này có độ nhạy
thấp. Hơn nữa, kỹ thuật DIF là một kỹ thuật
khó, đòi hỏi kinh nghiệm cao, còn EIA có thể
kém đặc hiệu, do việc phát hiện kháng nguyên
thường xảy ra phản phản ứng chéo [8].
Phương pháp multiplex - PCR là một phương
pháp có độ nhạy và độ tin cậy cao trong việc
phát hiện chính xác vi khuẩn C. trachomatis
trong các mẫu bệnh phẩm nhưng kết quả xét
nghiệm còn phụ thuộc vào loại mẫu bệnh
phẩm và cách xử lý mẫu. Theo tác giả Vũ
Tuấn Anh (2003), trong mẫu nước tiểu có rất
ít vi khuẩn Chlamydia trachomatis do vậy mẫu
DNA tách chiết từ mẫu bệnh nước tiểu có
nồng độ DNA thấp hoặc có thể không có chứa
DNA [9]. Trong nghiên cứu này, mẫu bệnh
phẩm nước tiểu có kết quả tách chiết DNA
kém hơn so với mẫu dịch tiết cổ tử cung. Điều
này phù hợp với nghiên cứu của Vũ Tuấn
Anh. Nhiệt độ 56oC là tối ưu cho sản phẩm
PCR rõ nhất với cả 4 cặp mồi đã được lựa
chọn là AR, CtP, Chlamp và NO. Hai cặp mồi
CtM và CtR cũng đã được khảo sát khi thêm
vào hỗn hợp mồi cho phản ứng multiplex PCR
nhưng chúng cho băng điện di không rõ nét ở
các phản ứng nên không được sử dụng cho
nghiên cứu. Sản phẩm nhân lên là các đoạn
DNA nằm trong plasmid và nhiễm sắc thể của
vi khuẩn C. trachomatis do mồi CtP, Chlamp,
No nhân lên có kích thước theo thứ tự là: 610
- 612 bp, 1128 bp, 201 bp. Mồi AR nhân lên
đoạn DNA người có kích thước 153 bp. Do
các sản phẩm này đã được xác thực như đã
nói ở trên bằng việc giải trình tự và cắt
enzyme giới hạn thích hợp nên có thể kết luận
phản ứng multiplex PCR này giúp phát hiện
nhanh sự nhiễm vi khuẩn C. trachomatis một
cách chính xác và sẽ được áp dụng để tiến hành
khảo sát các bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
Tỷ lệ nhiễm bệnh của các bệnh nhân
tham gia nghiên cứu ở Bắc Giang
Để giảm thiểu sai sót kỹ thuật có thể xảy ra
trong chuẩn đoán bằng phản ứng PCR với
từng cặp mồi đơn lẻ và để tiết kiệm thời gian
cũng như hóa chất xét nghiệm, phản ứng
multiplex PCR với 4 mồi và DNA khuôn tách
chiết bằng trizol kể trên được sử dụng để phát
hiện vi khuẩn C. Trachomatis trong các mẫu
bệnh phẩm của tình nguyện viên ở Bắc Giang,
số bệnh nhân dương tính cao hơn so với các
nghiên cứu của các tác giả trong nước. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Huyền
năm 2002, tỷ lệ nhiễm C. trachomatis ở phụ
nữ có hội chứng tiết dịch âm đạo là 10,5%
[10]. Năm 2002, Nguyễn Thị Ngọc Yến và
Trần Hậu Khang nhận thấy tỷ lệ nhiễm C.
trachomatis trong số bệnh nhân mang bệnh
lây truyền qua đường sinh dục tại viện Da liễu
Quốc gia là 9,5% [6]. Nguyên nhân tỷ lệ nhiễm
C. trachomatis trong nghiên cứu này cao hơn
các nghiên cứu trước có thể được giải thích
do đa số các bệnh nhân ở Bắc Giang khi có
TCNCYH 83 (3) - 2013 33
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
biểu hiện bệnh mới tới các cơ sở khám chữa
bệnh để khám và điều trị. Đây là thói quen
không tốt gây tốn kém cho điều trị và gây ra
nhiều di chứng về sau.
Nhóm tuổi: Tuổi là yếu tố quan trọng tới
các bệnh do vi khuẩn C. trachomatis. Bệnh lây
nhiễm mạnh ở độ tuổi sinh hoạt tình dục
nhiều. Độ tuổi này khác nhau giữa các quốc
gia, các vùng khác nhau. Trong nghiên cứu
này cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất thuộc
lứa tuổi 25 - 35 với tỷ lệ 15,2% và sau đó là độ
tuổi dưới 25 với tỷ lệ là 10,9%. Số liệu cho
thấy phụ nữ trẻ tuổi có tỷ lệ nhiễm bệnh cao.
Kucinskiene và cộng sự (2006) tổng hợp các
nghiên cứu về C. trachomatis trong khoảng
thời gian từ 1998 đến 2005 thấy rằng tỷ lệ
nhiễm C. trachomatis cao nhất là ở phụ nữ trẻ
tuổi, đặc biệt là ở thanh thiếu niên nữ do cổ tử
cung chưa phát triển hoàn chỉnh, rất dễ nhạy
cảm với C. trachomatis [11].
Tình trạng hôn nhân: Tình trạng hôn nhân
là yếu tố được các nghiên cứu trên thế giới
nhấn mạnh là có liên quan đến tỷ lệ nhiễm C.
trachomatis. Đối tượng phụ nữ độc thân có
nguy cơ nhiễm C. trachomatis cao gấp 3,6 lần
so với nhóm có gia đình. Còn nghiên cứu của
Romoren tại Botswana trên các đối tượng phụ
nữ có thai thấy rằng phụ nữ độc thân có nguy
cơ nhiễm C. trachomatis cao gấp tới 6,9 lần
so với phụ nữ đã có gia đình [2]. Trong nghiên
cứu này, nhóm bệnh nhân độc thân có tỷ lệ
nhiễm C. trachomatis là 15,9%, cao hơn nhóm
bệnh nhân đã có gia đình.
Nghề nghiệp: Nhóm công nhân là nhóm có
tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất với 19,4%, tiếp sau
đó là nhóm nông dân với 10,7% và thấp nhất
là nhóm học sinh, sinh viên. Tỷ lệ bệnh nhân
mắc bệnh do nhiễm C.trachomatis thuộc
nhóm công nhân cao nhất (19,4%). Kết quả
này có thể được lý giải là do lối sống tập trung
và trình độ nhân thức về cách phòng trừ, điều
trị bệnh chưa cao.
Địa bàn sinh sống: Bệnh nhiễm khuẩn
đường tình dục do vi khuẩn C. trachomatis
thường gặp ở vùng thành thị, trung tâm công
nghiệp nhiều hơn ở nông thôn: Khu vực sống
ở thành phố có tỷ lệ nhiễm là 16,5% cao hơn
hẳn so với tỷ lệ nhiễm bệnh của các huyện lẻ
trong tỉnh.
V. KẾT LUẬN
Phương pháp sử dụng Trizol cho lượng
sản phẩm DNA không bị đứt gãy và nồng độ
cao. Nhiệt độ tối ưu của các cặp mồi là khác
nhau: cặp mồi AR, CtM, NO có nhiệt độ tối ưu
là: 55oC, cặp mồi CtR, Chlamp có nhiệt độ tối
ưu là: 53oC, cặp mồi CtP có nhiệt độ tối ưu là:
57oC. Phản ứng multiplex PCR với 4 trong
tổng số 6 cặp mồi được chọn, CtP, NO,
Chlamp và AR, với nhiệt độ tối ưu 56oC cho
độ nhạy cao và đồng đều. Tại bệnh viện phụ
sản Bắc Giang, có 31 mẫu trong tổng số 251
mẫu bệnh phẩm nghiên cứu dương tính với C.
trachomatis chiếm tỷ lệ 12,35%. Tỷ lệ trung
bình ở thành phố Bắc Giang cao hơn ở các
huyện lẻ, đối tượng chưa có gia đình cao hơn
có gia đình và độ tuổi < 30 có tỷ lệ nhiễm cao
hơn so với các lứa tuổi khác.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. Viroj, W. (2006). PCR Test for Detection
of Chlamydia trachomatis Using NLO and
NRO Primers, a Re-evaluation, Sexuality and
Disability. 24 (4), 217 - 221.
2. Ratti G., Moroni A., Cevenini R.,
(1991). Detection of Chlamydia trachomatis
DNA in patients with non-gonococcal urethritis
using the polymerase chain reaction, J Clin
Pathol. 44(7), 564 - 568.
3. Romoren M., Sundby J., Manonmany
V., et al (2007). Chlamydia and gonorrhoea in
pregnant Batswana women: time to discard
34 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
the syndromic approach, BMC Infectious Dis-
eases. 7, 27.
4. Chomczynski P, Sacchi N., (1987).
Single - step method of RNA isolation by acid
guanidinium thiocyanate - phenol-chloroform
extraction. Anal Biochem, 162(1), 156 - 159.
5. Jenab A., Roghanian R., Golbang N.,
et al (2010). Comparison of three methods of
DNA extraction in endocervical specimens for
Chlamydia trachomatis infection by spectro-
photometry, agarose gel, and PCR, Arch Im-
munol Ther Exp (Warsz), 58(3), 227 - 234.
6. Nguyễn Thị Ngọc Yến, Trần Hậu
Khang (2002). Điều trị nhiễm trùng đường
sinh dục do Chlamydia trachomatis bằng
Zithromax, Y học thực hành, 471(3), 27 - 29.
7. Ridgway GL, Taylor-Robinson D,
(1991). Current problems in microbiology: 1
Chlamydia infections: which laboratory test J
Clin Pathol. 44, 1 - 5.
8. Roosendaal, R., Walboomer,s J.M.M.,
Veltman, O.R., et al (1993). Comparison of dif-
ferent primer sets for detection
of Chlamydia trachomatys by the polymerrase
chain reaction, J. Med. Microbio1, 38, 426 - 433.
9. Vũ Tuấn Anh (2003). Tình hình, đặc
điểm lâm sàng và giá trị chẩn đoán của
PCR trong nhiễm Chlamydia trachomatis
đường sinh dục, Luận văn Thạc sỹ Y
học,Học viện Quân Y.
10. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2002).
Nghiên cứu tình hình nguyên nhân và đặc
điểm lâm sàng hội chứng tiết dịch đường sinh
dục dưới ở phụ nữ đến khám lại Viện Da liễu,
Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y
Hà Nội, Hà Nội.
11. Kucinskiene V., Sutaite I., Vali-
ukeviciene S et al (2006). Prevalence and
risk factors of genital Chlamydia trachomatis
infection, Medicina (Kaunas), 42(10), 885 -
Summarry
OPTIMIZE MULTIPLEX-PCR CONDITIONS FOR QUICK AND RELIABLE
DETECTION OF CHLAMYD
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phat_trien_phuong_phap_multiplex_pcr_phat_hien_vi_khuan_chla.pdf