Tiêu chuẩn của phân hữu cơ sinh học như sau: Hàm lượng
hữu cơ tổng số không thấp hơn 22%; Ẩm độ đối với phân bón dạng
bột không vượt quá 25%; hàm lượng Nts không thấp hơn 2,5%; hàm
lượng axit humic (đối với phân chế biến từ than bùn) không thấp
hơn 2,5% hoặc tổng hàm lượng các chất sinh học (đối với phân chế
biến từ nguồn hữu cơ khác) không thấp hơn 2,0% hoặc pHH2O (đối
với phân hữu cơ sinh học bón qua lá) trong khoảng từ 5-7. Nếu
phân có bổ sung chất điều hòa sinh trưởng thì tổng hàm lượng các
chất này không vượt quá 0,5%.
14 trang |
Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
578
PHÂN HỮU CƠ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Bùi Huy Hiền1
Tóm tắt
Bài viết này đề cập đến các nội dung liên quan đến cơ sở khoa
học, tình hình sản xuất và tiêu thụ cũng như công tác quản lý các loại
phân hữu cơ trên thị trường Việt Nam. Nội dung của bài viết bao gồm 4
phần chính, đó là: i) Phân loại và tiêu chuẩn; ii) Giá trị sử dụng; iii)
Tình hình sản xuất và tiêu thụ và iv) Định hướng phát triển sản xuất và
sử dụng phân hữu cơ. Trong phần phân loại và tiêu chuẩn phân hữu cơ
đã cụ thể được các nhóm phân hữu cơ như: phân hữu cơ truyền thống
(phân chuồng, phân rác, than bùn, phân xanh, các loại phân hữu cơ
khác) và phân hữu cơ công nghiệp (phân hữu cơ, phân hữu cơ khoáng,
phân hữu cơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ vi sinh), trong phần này
ngoài ưu điểm cũng đưa ra một số hạn chế của loại phân này. Đối với
giá trị sử dụng bài báo đã đưa ra 3 vai trò chính, đó là: i) Cung cấp chất
dinh dưỡng cho cây trồng; ii) Cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất
và iii) Nâng cao chất lượng nông sản. Đã đánh giá được số lượng các
loại phân hữu cơ được sản xuất và công tác quản lý nhà nước ở các khâu
như: khoa học; sản xuất và chất lượng; điều kiện và kỹ thuật sản xuất;
kinh doanh và lưu thông trên thị trường; sử dụng phân hữu cơ cho các
loại cây trồng. Định hướng phát triển sản xuất và sử dụng phân hữu cơ
phải dựa trên chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn
2011-2020.
Từ khóa: Phân hữu cơ, phân chuồng, phân xanh, than bùn, phân hữu cơ
khoáng, phân hữu cơ sinh học, phân vi sinh, sản xuất, sử dụng, quản lý
phân bón.
Mở đầu
Chất hữu cơ trong đất là chất được hình thành do sự phân
huỷ xác thực vật như thân, lá, rễ, v.v..., cơ thể vi sinh vật (VSV) và
động vật đất. VSV phân giải chất hữu cơ tạo ra nhóm chất mùn
không đặc trưng, chiếm 10-20% tổng số, gồm các hợp chất các bon,
hidrocacbon, axit hữu cơ, rượu, este, anđehit, nhựa,... cung cấp thức
ăn cho thực vật; kích thích, ức chế tăng trưởng; cung cấp kháng
1 Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và PTNT
579
sinh và vitamin. Nhóm chất mùn điển hình gồm những chất hữu cơ
cao phân tử, phức tạp được tạo ra do quá trình mùn hóa xác thực
vật, VSV, động vật. Axit humic, axit funvic, humin, unmin chiếm
khoảng 80-90% tổng số. Chất hữu cơ là một chỉ tiêu quan trọng của
độ phì nhiêu đất và liên quan với thành phần lý, hóa và sinh học đất.
Trước công nguyên hơn 2000 năm loài người đã biết dùng
phân hữu cơ bón ruộng cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng.
Theo Phratus (372-287 trước công nguyên) phân hữu cơ đã được
phân cấp chất lượng như sau: Tốt nhất là phân người (phân bắc) và
sau đó lần lượt là các loại phân lợn, dê, cừu, bò cái, bò đực và kém
hơn cả là phân ngựa.
Dấu ấn người Việt Nam biết sử dụng phân hữu cơ để bón
ruộng được Lê Quý Đôn (1773) viết trong cuốn Vân Đài Loại Ngữ
ghi lại từ sách Tề Dâm Yếu Thuật: "Phép làm tốt ruộng thì trước
hãy nên trồng đậu. Đậu xanh tốt hơn, thứ đến đậu nhỏ và vừng (hồ
ma). Các thứ ấy đều trồng trong tháng 5 tháng 6. Đến tháng 7 tháng
8 thu hoạch xong, cày lật úp xuống, làm ruộng rồi trồng lúa thì mùa
xuân năm sau mỗi mẫu thu được vài chục tạ thóc. Những cây đậu,
vừng vùi làm phân như thế bón ruộng tốt ngang với phân tằm và
phân người". Đặc biệt vị trí bèo dâu dùng làm phân hữu cơ bón cho
cây trồng đã được xác định ít nhất vào giữa thế kỷ 19. Việc làm
phân ủ (compost) để bón ruộng ở nước ta xuất hiện từ bao giờ chưa
rõ. Song vào đầu thế kỷ 20 người ta đã biết dùng phân hoai để bón
cho chè, có nghĩa là đã qua quá trình ủ.
Bên cạnh những kết quả nghiên cứu về phân hữu cơ (phân
chuồng, phân bắc, phân xanh, phân vi sinh vật) đã có nhiều phong
trào cổ vũ người nông dân sản xuất và sử dụng phân hữu cơ, như:
Phong trào “sạch làng tốt ruộng”; Phong trào “rừng điền thanh”,
“biển bèo dâu”, “đồi cốt khí” và phong trào chuồng lợn 2 bậc, hố xí
2 ngăn, v.v...
1. Phân loại và tiêu chuẩn phân hữu cơ
Phân hữu cơ được chia thành 2 nhóm: i) Phân hữu cơ nhà
nông (truyền thống) và ii) Phân hữu cơ công nghiệp (hữu cơ
khoáng, hữu cơ sinh học, phân vi sinh và hữu cơ vi sinh).
580
1.1. Phân hữu cơ truyền thống
Phân hữu cơ truyền thống là loại phân có nguồn gốc từ
chất thải của người, động vật hoặc từ các phế phụ phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thủy sản, phân xanh, rác thải hữu
cơ, các loại than bùn được chế biến theo phương pháp ủ truyền
thống. Có thể chia phân hữu cơ truyền thống ra làm 4 nhóm: i)
Phân chuồng; ii) Phân rác; iii) Than bùn và iv) Phân xanh.
i) Phân chuồng: có ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố
dinh dưỡng đa, trung và vi lượng mà một loại phân bón vô cơ
không có được. Ngoài ra, phân chuồng cung cấp chất mùn làm kết
cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phát triển mạnh, hạn chế
nước bốc hơi, chống được hạn, xói mòn. Tuy nhiên, phân chuồng
cũng có nhược điểm như: hàm lượng chất dinh dưỡng thấp nên phải
bón lượng lớn, đòi hỏi chi phí vận chuyển cao, ngoài ra nếu không
chế biến kỹ có thể mang đến một số nấm bệnh cho cây trồng.
Phân chuồng thường được nhà nông tự sản xuất chế biến.
Phương pháp ủ phân chuồng được tiến hành như sau: Phân chuồng
xếp thành lớp rộng nén chặt đến khi đống phân cao 1,5-2,0 m. Trát
kín bùn, ở giữa chọc một lỗ hình phễu để tưới nước. Ủ từ 2 đến 6
tháng. Song thông thường, nên ủ phân chuồng với đất bột, với lân (bất
cứ loại phân lân nào, tỷ lệ 2%), có thể thêm vôi (3-5%) cho phân
nhanh hoai hơn, bớt chua, các vi sinh vật hoạt động thuận tiện hơn.
ii) Phân rác: Loại phân này làm từ rơm, rạ; thân lá các cây
ngô, đậu, đỗ, vỏ lạc, trấu, bã mía, v.v... chặt thành đoạn ngắn 20-30
cm, có thể ngâm nước vôi loãng 2-3 ngày trước khi ủ. Phương pháp
ủ phân rác được tiến hành như sau: phân rác xếp thành lớp và cứ 30
cm rắc một lớp vôi bột. Trát bùn, ủ khoảng 20 ngày, rồi đảo lại rắc
phân lên men (phân bắc, phân chuồng, phân hóa học như đạm, lân)
với tỷ lệ 20%. Xếp đủ cao, lại trát bùn, để hở lỗ để tưới thường
xuyên. Ủ 45-60 ngày và có thể dùng bón lót, còn ủ lâu hơn nữa có
thể dùng để bón thúc. Tùy theo nguyên liệu và kỹ thuật ủ, thành
phần trung bình của phân rác là %: 0,5-0,6 N; 0,4-0,6 P2O5; 0,5-0,8
K2O; 3-6 CaO.
iii) Than bùn: Trong quá trình cấu tạo địa chất, một số rừng
cây bị phù sa vùi lấp lâu ngày, phân giải yếm khí, tạo thành than
bùn. Dùng than bùn đã được phơi khô để độn chuồng, hoặc có thể
581
dùng để chế biến phân rác, làm chất đốt, chất cải tạo đất. Than bùn
thượng thành không dùng trực tiếp làm phân bón, chỉ để ủ phân rác
hoặc độn chuồng; than bùn hạ thành có độ phân giải cao (>50%) và
pH từ 5,5 trở lên có thể bón trực tiếp, nhất là dùng để làm chất cải
tạo lý tính đất; than bùn chuyển tiếp là loại trung gian.
Có 2 chỉ tiêu vật lý là sức chứa ẩm và mức độ phân giải để
đánh giá chất lượng than bùn phục vụ cho sản xuất phân bón. Kết
quả nghiên cứu của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa giai đoạn năm
2002-2003 với 224 mẫu than bùn ở 3 vùng trong nước ta cho thấy:
- Hầu hết các mẫu than bùn đều có độ ẩm cao, trung bình là
42,1%, cao nhất là: 58,0% và thấp nhất là: 17,9%, trong đó, ở miền Bắc
là 30,7%; vùng duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, Tây Nguyên
là 48,5% và ở Đồng bằng sông Cửu Long 28,2%. Do độ ẩm cao nên
nếu sử dụng than bùn làm phân bón thì phải tốn chi phí để sấy.
- Các mẫu than bùn đều khá nhuyễn, mức độ phân giải trung
bình là 35,3% khối lượng mẫu là nhỏ hơn 0,2 mm; cao nhất là
44,8% và thấp nhất là 25,3% và thích hợp cho sản xuất phân bón.
Mức độ phân giải ở các mỏ là tương đối giống nhau và càng xuống
sâu thì khả năng phân giải càng cao.
Quy trình công nghệ sản xuất phân bón trên nền than bùn
phổ biến là: Than bùn phơi khô, nghiền nhỏ, phối trộn vôi (nếu pH
thấp), phụ gia, vi sinh vật, sau đó ủ một thời gian rồi đóng gói thành
phẩm. Tùy theo đối tượng đất và cây trồng mà có thể thay đổi tỷ lệ
mùn, N, P2O5, K2O, số lượng vi sinh, v.v trong quá trình phối
trộn cho phù hợp. Bón phân từ nguồn gốc than bùn có tác dụng cải
tạo đất tốt song khối lượng lớn do hàm lượng chất dinh dưỡng thấp.
iv) Phân xanh: Phân xanh là tên gọi chung các cây hoặc lá
cây tươi được ủ hay vùi thẳng xuống đất để bón ruộng. Đồng thời
với tác dụng làm phân bón, cây phân xanh có thể phủ đất, chống
xói mòn, bảo vệ đất và làm cây che bóng.
Trong quá trình phân giải của cây phân xanh (vùi trong đất)
nhất là ở điều kiện ngập nước, thường phát sinh ra nhiều hợp chất
độc hại đối với cây như H2S, axit butiric, CH4, C2H2, v.v... do đó,
cần bón vôi, lân kèm theo để hạn chế. Phương pháp chế biến phân
xanh thường là trộn với đất bột, phân lân, phân chuồng, trát kín
bùn, ủ khoảng 1 tháng.
582
v) Các loại phân hữu cơ khác: Phân bắc có chất lượng cao,
nhưng cần ủ kỹ hoặc sát trùng trước khi dùng. Bình quân 1 người
lớn thải ra trong 24 giờ là 133 g phân tươi, gồm có 25 g chất khô, 2
g N, 4,5 g tro, 1,35 g P2O5 và 0,64 g K2O. Phân gia cầm có thể là
phân gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu. Tỷ lệ % trong phân tươi của các
gia cầm biến động như sau: Nước: 56,0-77,5%; N: 0,55-1,76%;
P2O5: 0,54-1,78%; K2O: 0,62-1,00%; CaO: 0,84-2,40%; MgO:
0,20- 0,74%.
vi) Bùn ao, bùn hồ, bùn sông có hàm lượng mùn trung bình
là: 4,90% (dao động trong khoảng 1,65 –14,90%), N tổng số:
0,23% (dao động 0,11 –0,52%), P2O5 tổng số: 0,29% (dao động
0,21- 0,48%), K2O tổng số: 0,40% (dao động 0,13-0,70%), H2S
trung bình là 7,1 mg/100 g bùn (dao động 3,4 -13,6 mg/100 g) nên
có thể bón cho cấy trồng.
vi) Nước phù sa: Như chúng ta đã biết thuật ngữ “Phù sa” là
chỉ hạt đất có kích thước từ thô đến mịn do bị cuốn theo các dòng
chảy (sông, suối) và được lắng đọng ở ven sông, cửa sông hay gần
bờ biển. Nước sông Hồng chứa trung bình 0,5 kg/m3 phù sa lúc
bình thường và đến tháng 6, khi bắt đầu có lũ thì lên 1,8 kg/m3 và
lũ to có thể đến 3,5 kg/m3. Thành phần phù sa sông Hồng như sau:
pH 7,4-7,6; mùn –0,84-1,36%; N tổng số 0,10-0,15%; P2O5 tổng số
0,13-0,17%; K2O tổng số: 0,95- 1,43%. Như vậy sử dụng nước phù
sa để tưới đã cung cấp cho cây trồng, cho đất một lượng chất hữu
cơ và một số các nguyên tố dinh dưỡng.
vii) Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu. Tùy theo
thành phần của mỗi loại khô dầu mà nông dân đã sử dụng như loại
phân bón hữu cơ bón vào đất để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
vi) Tro: Tro là chất còn lại của một số vật sau khi cháy hết
và thường có màu xám. Trong nông nghiệp một số nguyên liệu thực
vật như cây: sắn, bông, ngô, lá dừa, mạt cưa, v.v... sau khi bị đốt có
tỷ lệ tro và chất dinh dưỡng khá cao.
1.2. Phân hữu cơ công nghiệp (phân hữu cơ chế biến, phân hữu cơ
khoáng, phân hữu cơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ vi sinh)
Phân hữu cơ công nghiệp là một loại phân được chế biến từ
các nguồn hữu cơ khác nhau để tạo thành phân bón tốt hơn so với
bón nguyên liệu thô ban đầu. Hiện nay có thể chia ra 5 loại phân
583
hữu cơ công nghiệp, đó là: phân hữu cơ, phân hữu cơ khoáng, phân
hữu cơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ vi sinh.
i) Phân hữu cơ chế biến: là loại phân bón được sản xuất chủ yếu
từ các nguồn nguyên liệu hữu cơ với tiêu chuẩn như sau: ẩm độ đối với
phân bón dạng bột không vượt quá 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số
không thấp hơn 22%; hàm lượng đạm tổng số (Nts) không thấp hơn
2,5%; pHH2O (đối với phân hữu cơ bón qua lá) trong khoảng từ 5-7.
ii) Phân hữu cơ khoáng: là loại phân được sản xuất từ
nguyên liệu hữu cơ phối trộn thêm một hoặc nhiều yếu tố dinh
dưỡng khoáng, trong đó có ít nhất một yếu tố dinh dưỡng khoáng đa
lượng. Loại phân này được chế biến từ các nguyên liệu hữu cơ khác
nhau (than bùn, mùn rác thải thành phố, phụ phẩm nông nghiệp,
công nghiệp...) phơi khô, nghiền nhỏ, ủ tự nhiên. Sau một thời gian
đưa phối trộn với phân khoáng ở các tỷ lệ khác nhau. Tiêu chuẩn
bắt buộc của loại phân này như sau: Hàm lượng hữu cơ tổng số không
thấp hơn 15%; ẩm độ đối với phân bón dạng bột không vượt quá 25%;
hàm lượng Nts + P2O5hh + K2Ohh; Nts + P2O5hh; Nts + K2Ohh; P2O5hh +
K2Ohh không thấp hơn 8%.
iii) Phân hữu cơ sinh học: là loại phân được sản xuất từ
nguyên liệu hữu cơ theo quy trình lên men có sự tham gia của vi
sinh vật sống có ích hoặc các tác nhân sinh học khác. Loại phân này
được chế biến từ các nguyên liệu hữu cơ khác nhau (than bùn, mùn
rác thải thành phố, phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp...) phơi
khô, nghiền nhỏ, ủ lên men với vi sinh vật có tuyển chọn.
Tiêu chuẩn của phân hữu cơ sinh học như sau: Hàm lượng
hữu cơ tổng số không thấp hơn 22%; Ẩm độ đối với phân bón dạng
bột không vượt quá 25%; hàm lượng Nts không thấp hơn 2,5%; hàm
lượng axit humic (đối với phân chế biến từ than bùn) không thấp
hơn 2,5% hoặc tổng hàm lượng các chất sinh học (đối với phân chế
biến từ nguồn hữu cơ khác) không thấp hơn 2,0% hoặc pHH2O (đối
với phân hữu cơ sinh học bón qua lá) trong khoảng từ 5-7. Nếu
phân có bổ sung chất điều hòa sinh trưởng thì tổng hàm lượng các
chất này không vượt quá 0,5%.
iv) Phân vi sinh: là loại phân trong thành phần chủ yếu có
chứa một hay nhiều loại vi sinh vật sống có ích bao gồm: nhóm vi
sinh vật cố định đạm, phân giải lân, phân giải kali, phân giải
584
xenlulo, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật tăng khả năng quang hợp
và các vi sinh vật có ích khác với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ
thuật đã ban hành là mật độ mỗi chủng VSV có ích không thấp hơn 1
x 108 CFU/g (ml).
Tùy theo công nghệ sản xuất người ta có thể chia phân vi
sinh thành hai loại: a) Phân vi sinh trên nền chất mang khử trùng có
mật độ tế bào vi sinh hữu ích > 109 VSV/g (ml) và mật độ VSV tạp
nhiễm thấp hơn 1/1.000 so với VSV hữu ích. Phân bón dạng này
được sử dụng dưới dạng nhiễm hạt, hồ rễ hoặc tưới phủ với liều
lượng 1-1,5 kg (lít)/ha canh tác và b) Phân vi sinh trên nền chất
mang không khử trùng được sản xuất bằng cách tẩm nhiễm trực
tiếp sinh khối VSV hữu ích vào cơ chất không cần thông qua công
đoạn khử trùng nhằm tiêu diệt các VSV có sẵn trong cơ chất. Phân
bón dạng này có mật độ VSV hữu ích >106 VSV/g (ml) và được sử
dụng với số lượng từ vài trăm đến hàng ngàn kg (lít)/ha.
Trên cơ sở tính năng tác dụng của các chủng loại VSV sử
dụng, phân bón VSV còn được gọi dưới các tên:
- Phân VSV cố định nitơ (phân đạm vi sinh, nitragin) chứa
các VSV sống cộng sinh với cây bộ đậu, hội sinh trong vùng rễ cây
trồng cạn hay tự do trong đất, nước có khả năng sử dụng nitơ (N) từ
không khí tổng hợp thành đạm cung cấp cho đất và cây trồng.
- Phân VSV phân giải hợp chất phốt pho khó tan (phân lân vi
sinh, photphobacterin) sản xuất từ các VSV có khả năng chuyển hóa
các hợp chất phốt pho khó tan thành dễ tiêu cho cây trồng sử dụng.
- Phân VSV kích thích, điều hòa sinh trưởng thực vật chứa
các VSV có khả năng sản sinh hoạt chất sinh học có tác dụng điều
hòa, kích thích quá trình trao đổi chất của cây.
- Phân VSV có chứa các chủng VSV đối kháng vi khuẩn/vi
nấm gây bệnh vùng rễ cây trồng cạn.
- Phân VSV đa chủng, phân VSV chức năng có chứa hỗn
hợp các VSV có khả năng cố định nitơ, phân giải phốt phát khó tan,
sinh tổng hợp hoạt chất kích thích sinh trưởng thực vật và đối
kháng vi khuẩn/vi nấm gây bệnh vùng rễ cây trồng có tác dụng
cung cấp dinh dưỡng và nâng cao hiệu quả sử dụng phân khoáng,
đồng thời có khả năng hạn chế bệnh vùng rễ cây trồng do vi khuẩn
585
hoặc vi nấm gây ra, qua đó nâng cao năng suất nông sản và hiệu
quả kinh tế.
v) Phân hữu cơ vi sinh: là loại phân được sản xuất từ nguyên
liệu hữu cơ có chứa ít nhất một chủng vi sinh vật sống có ích với
mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật đã ban hành, cụ thể như
sau: hàm lượng hữu cơ tổng số không thấp hơn 15%; ẩm độ đối với
phân bón dạng bột không vượt quá 30%; mật độ mỗi chủng VSV
có ích không thấp hơn 1 x 106 CFU/g (ml).
Đối với tất cả các loại phân hữu cơ công nghiệp, các chỉ tiêu
định lượng bắt buộc trong phân bón như sau: asen (As) không vượt
quá 3,0 mg/kg (lit) hoặc ppm; cadmi (Cd) không vượt quá 2,5
mg/kg (lit) hoặc ppm; chì (Pb) không vượt quá 300,0 mg/kg (lit)
hoặc ppm; thủy ngân (Hg) không vượt quá 2,0 mg/kg (lit) hoặc
ppm; mật độ tế bào vi khuẩn Salmonella không phát hiện trong 25 g
hoặc 25 ml mẫu kiểm tra (CFU).
1.3. Hạn chế của phân hữu cơ
Ngoài những ưu điểm thì phân hữu cơ cũng có những nhược
điểm như hàm lượng chất dinh dưỡng thấp nên phải bón lượng lớn,
đòi hỏi chi phí lớn để vận chuyển và nếu không chế biến kỹ có thể
mang đến một số nấm bệnh cho cây trồng, nhất là khi chế biến từ
một số loại chất thải sinh hoạt và công nghiệp. Các vi sinh vật gây
hại có trong phân bón gồm: E. coli, Salmonella, Coliform là những
loại gây nên các bệnh đường ruột nguy hiểm hoặc ô nhiễm thứ cấp
do có chứa các kim loại nặng hoặc vi sinh vật gây hại vượt quá mức
quy định.
2. Giá trị sử dụng của phân hữu cơ
Phân hữu cơ nói chung có ưu điểm là chứa đầy đủ các
nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng mà không một loại
phân khoáng nào có được. Ngoài ra, phân hữu cơ cung cấp chất
mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phát triển mạnh,
hạn chế mất nước trong quá trình bốc hơi từ mặt đất, chống được
hạn, chống xói mòn.
Vào những năm của thập kỷ 60 thế kỷ 20 do nguồn phân
khoáng có hạn nên sử dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ.
Trong giai đoạn 15 năm (1980-1995) việc sản xuất và sử dụng phân
586
hữu cơ có giảm sút, nhưng từ năm 1995 lại đây do yêu cầu thâm
canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng phân hữu cơ được phục
hồi, nên số lượng phân hữu cơ được sản xuất, sử dụng đã tăng lên
đáng kể. Kết quả điều tra của Viện Thổ nhưỡng Nông hoá ở một số
vùng đồng bằng, trung du Bắc bộ và Bắc Trung bộ cho thấy bình
quân mỗi vụ cây trồng bón khoảng 8-9 tấn/ha/vụ. Ước tính toàn quốc
sản xuất, sử dụng khoảng 65 triệu tấn phân hữu cơ/năm.
Bảng 1. Hàm lượng tiêu chuẩn các nguyên tố dinh dưỡng trong
nguyên liệu hữu cơ (theo IPNI)
Chất hữu cơ* Nước
(%)
% chất tươi
C N P K Ca
Phân bắc (Human feces)
Phân đại gia súc(Cattle
feces)
Phân lợn (Pig feces)
Phân tươi của đại gia súc
(Fresh cattle manure)
Phân của đại gia súc đã ủ
(Composted cattle manure)
Phân lợn (Pig manure)
Phân gia cầm (Poultry
manure)
Phân rác thải ủ ngấu
(Garbage compost)
Bùn từ nước thải(Sewage
sludge)
Chất thải của mía đường sau
khi lọc đóng thành bánh
(Sugarcane filter cake)
Bánh hạt thầu dầu (Castor
bean cake)
-
-
-
60
35
80
55
40
50
75-80
10
-
-
-
8-10
30-35
5-10
15
16
17
8
45
1,0
0,3
0,5
0,4-0,6
1,5
0,7-1,0
1,4-1,6
0,6
1,6
0,3
4,5
0,2
0,1
0,2
0,1-0,2
1,2
0,2-0,3
0,5-0,8
0,2
0,8
0,2
0,7
0,3
0,1
0,4
0,4-0,6
2,1
0,5-0,7
0,7-0,8
0,3
0,2
0,1
1,1
-
-
-
0,2-0,4
2,0
1,2
2,3
1,1
1,6
0,5
1,8
* Ghi chú: + kg chất dinh dưỡng trên 1 tấn hữu cơ tươi = % hàm lượng dinh
dưỡng x 10;
+ Ngoài các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng N, P, K trong phân chuồng có các
chứa các nguyên tố dinh dưỡng vi lượng. Trong 10 tấn phân chuồng còn có
chứa: Bo: 50-200 g, Mn: 500-2.000 g, Co: 2-10 g, Cu: 50-150 g, Zn: 200-1.000
g, Mo: 5-25 g.
Bón phân hữu cơ làm tăng năng suất cây trồng. Kết quả
nghiên cứu khoa học trong rất nhiều năm của các viện, trường,
587
cũng như kết quả điều tra kinh nghiệm của các hộ nông dân cho
thấy, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao, ổn định ở những
nơi có bón tỷ lệ N hữu cơ và N vô cơ cân đối với tỷ lệ N tính từ hữu
cơ chiếm khoảng 25-30% tổng nhu cầu của cây trồng. Ước tính do
bón phân hữu cơ năng suất cây trồng đã tăng được 10-20%. Nếu
tính riêng về thóc do bón phân hữu cơ (chủ yếu là phân chuồng) đã
đạt khoảng 2,5-3,0 triệu tấn thóc/năm.
Bón phân hữu cơ còn làm giảm bớt lượng phân khoáng cần
bón do phân hữu cơ có chứa các nguyên tố di dưỡng đa lượng,
trung lượng và vi lượng. Kết quả nghiên cứu và điều tra cho thấy
nếu bón 10 tấn phân chuồng/ha có thể giảm bớt được 40-50%
lượng phân kali cần bón.
Hiệu quả sử dụng phân hữu cơ (phân chuồng) đối với một số
cây trồng chính như sau:
Bón phân chuồng làm tăng đáng kể hiệu suất sử dụng phân
đạm. Năng suất lúa đạt cao nhất khi tỷ lệ đạm hữu cơ trong tổng
lượng đạm bón khoảng 30-40% (bón 10 tấn phân chuồng/ha thường
cho khoảng 30-35 kg N tương đương 65-75 kg urê). Cân đối hữu
cơ- vô cơ không chỉ làm tăng hiệu quả sử dụng phân khoáng mà
ngược lại phân khoáng cũng làm tăng hiệu lực phân chuồng. Trên
nền có bón phân khoáng, hiệu lực 1 tấn phân chuồng đạt 53-89 kg
thóc, trong khi không có phân khoáng chỉ đạt 32-52 kg (bảng 2).
Bảng 2. Quan hệ hữu cơ - vô cơ trong dinh dưỡng lúa
Đất Nền phân bón
Hiệu quả
(kg thóc/tấn phân chuồng)
Phù sa
Không bón phân khoáng
Có bón phân khoáng
52
89
Bạc màu
Không bón phân khoáng
Có bón phân khoáng
32
53
Với ngô, nếu chỉ bón phân chuồng thì hiệu quả đạt 30 kg ngô
hạt/tấn phân chuồng, còn nếu kết hợp với phân đạm khoáng thì hiệu
suất tăng lên 126 kg ngô hạt/tấn phân chuồng. Còn với sắn, cho dù
phân hữu cơ có hiệu lực rất cao, nhưng trong thực tiễn khó có thể
bón phân hữu cơ cho loại cây trồng này. Hiệu suất 1 tấn phân hữu
588
cơ có thể đạt 500 -800 kg sắn củ. Phân hữu cơ cũng có hiệu lực
tương tự với khoai lang, làm tăng năng suất 29 -34 tạ/ha khi bón
phân chuồng và 22 -23 tạ/ha khi bón rơm rạ. Bón phân hữu cơ còn
làm giảm hiệu lực của phân kali khoáng, nhất là với loại phân có
khả năng giải phóng kali dễ dàng như phân chuồng. Điều này có
nghĩa nếu bón phân chuồng thì có thể giảm liều lượng phân kali
khoáng. Đối với đậu tương khuyến cáo bón 5-6 tấn phân chuồng/ha
trên đất phù sa và 8-10 tấn/ha trên đất bạc màu, đất cát ven biển, đất
feralit trên nền phù sa cổ, ngoài phân bón vô cơ.
Cà phê là loại cây được trồng chủ yếu trên đất đồi dốc nên
cân đối vô cơ - hữu cơ càng quan trọng, nhất là khi trồng mới cần
bón mỗi hố 15-20 kg phân chuồng hoai mục. Trong trường hợp
thiếu phân chuồng, có thể thay thế 50% bằng phân xanh (các nguồn
thân lá cây họ đậu). Sau này, khi đã vào giai đoạn kinh doanh, nếu
điều kiện cho phép vẫn nên bón phân chuồng hoặc phân xanh cho
cà phê với chu kỳ 2 năm 1 lần. Phân hữu cơ làm tăng hệ số sử dụng
đạm, do vậy giảm lượng đạm tiêu tốn để tạo ra một đơn vị sản
phẩm và tăng hiệu suất phân đạm từ 3 -4 kg quả tươi/1 kg urê.
Không ai có thể phủ định chất hữu cơ đất quyết định tính ổn
định độ phì nhiêu đất. Mất chất hữu cơ, đất mất khả năng canh tác
và nếu muốn canh tác phải có đầu tư lớn.
Bón chất hữu cơ sẽ cải thiện được các tính chất vật lý đất,
hóa học và sinh học của đất; đồng thời hạn chế mức độ độc hại của
một số nguyên tố như: nhôm (Al), sắt (Fe); giảm bớt sự cố định lân
trong đất dưới tác dụng kết hợp Al3+, Fe3+ dưới dạng phức chất;
nâng cao sự hoà tan lân ở dạng phốt phát sắt hoá trị ba dưới tác
dụng khử ôxy.
Bón phân hữu cơ có tác dụng làm giảm rửa trôi, giảm bốc
hơi của phân đạm bón vào. Do đó, hiệu quả sử dụng của phân đạm
vô cơ tăng lên, hiệu suất sử dụng phân đạm của lúa có thể tăng lên
30-40% trên nền bón phân hữu cơ so với nền không bón.
Từ những tác dụng tổng hợp của phân hữu cơ đã nêu ở trên,
bón phân hữu cơ góp phần cải thiện được chất lượng nông sản, nhất
là với những cây rau, hoa quả, lúa đặc sản, ... như giảm làm lượng
nitrat, tăng hàm lượng vitamin, các hợp chất tạo hương, vị, v.v
589
3. Các tồn tại và giải pháp trong sản xuất và tiêu thụ phân hữu cơ
Hiện nay, trên thị trường có tất cả 9.001 loại phân bón có
trong danh mục phân bón, trong đó có 2.408 loại phân hữu cơ chế
biến, gồm: phân hữu cơ khoáng (997 loại), phân hữu cơ + hữu cơ
sinh học (737 loại), phân hữu cơ vi sinh (535 loại) và phân vi sinh
vật (139 loại). Các
Về quản lý, hiện có nhiều cơ quan khác nhau đứng ra khảo
nghiệm hiệu lực phân bón nên sẽ khó cho việc phân định chịu trách
nhiệm về chất lượng. Về việc cấp giấy phép kinh doanh, sản xuất
loại phân bón đặc thù nay còn tuỳ tiện (có cơ sở không có giấy
phép), có cơ sở có giấy phép lại không sản xuất, hoặc sản xuất mặt
hàng khác. Có thể nói, trên thực tế chưa có cơ quan nào đứng ra
chịu trách nhiệm về quản lý sản lượng, chất lượng phân bón.
Về điều kiện và kỹ thuật sản xuất phân bón, cơ sở hạ tầng,
thiết bị, máy móc, phòng thí nghiệm, phòng cây vi sinh, v.v của
nhiều doanh nghiệp sản xuất còn chưa đồng bộ. Chất lượng nguyên
liệu đầu vào như: than bùn, mùn rác hữu cơ, v.v không được ổn
định và không được kiểm tra phân tích ở một số doanh nghiệp sản
xuất. Việc sử dụng tập đoàn vi sinh vật để sản xuất phân hữu cơ
sinh học hoặc hữu có vi sinh hoặc hữu cơ khoáng ở một số doanh
nghiệp cũng chỉ có tính tượng trưng hoặc chất lượng của chế phẩm
vi sinh vật không đảm bảo. Việc phối trộn tỷ lệ phân khoáng còn
mang tính thủ công (đong bằng tay hoặc xúc bằng xẻng) nên ảnh
hưởng đến chất lượng phân bón.
Về quản lý kinh doanh và lưu thông trên thị trường, trên thực
tế chất lượng phân bón trong lưu thông chưa được chú ý. Số doanh
nghiệp (DN) uy tín, có thương hiệu đầu tư công nghệ hiện đại để có
sản phẩm chất lượng cao không nhiều. Trong khi đó, phân bón chất
lượng thấp thường do các DN có quy mô nhỏ sản xuất với phương
tiện máy móc lạc hậu. Cả nước có tới hơn 60 DN sản xuất phân bón
giả nhưng trong 2 năm qua chỉ có một số ít đơn vị bị khởi tố điều tra.
Về xử phạt, mặc dù Nghị định 15/2010/NĐ-CP của Chính
phủ quy định rõ mức phạt cao nhất đối với hành vi sản xuất, gia
công phân bón giả là 150 triệu đồng, song mức này chỉ áp dụng đối
với những cơ sở bị phát hiện có lượng phân bón giả tương đương
590
100 triệu đồng. Điều này vô hình chung khiến việc xử lý vi phạm
gặp khó khăn.
Việc sử dụng phân bón cũng chủ yếu dựa trên khuyến cáo
của cơ sở sản xuất phân bón. Các cơ quan nhà nước như: khuyến
nông, v.v chưa có chỉ đạo cụ thể.
4. Định hướng phát triển sản xuất và sử dụng phân hữu cơ
Chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 chỉ rõ, đến năm 2020 đạt hơn 41 triệu tấn lúa, 1,1 triệu tấn cà
phê; chè búp tươi 1 triệu tấn, cây ăn quả 12 triệu tấn, rau 18 triệu
tấn; ngô 7,2 triệu tấn, đậu tương 1,1 triệu tấn. Như vậy nếu sản
lượng các nông sản hàng hóa trên đạt được cũng sẽ để lại một
lượng rất lớn phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, thân, lá, v.v).
Với đàn lợn khoảng 35 triệu con năm 2020; đàn gà có
khoảng hơn 306 triệu con năm 2020; đàn trâu đạt gần 3 triệu con và
đàn bò gần 13 triệu sẽ cho 200-210 triệu tấn phân chuồng (Gia súc
nhốt chuồng mỗi năm thải ra một lượng phân (kể cả chất độn):
Trâu, bò: 8- 9 tấn; lợn: 1,8 – 2 tấn; dê, cừu: 0,8 – 0,9 tấn; ngựa: 6 – 7
tấn). Đây là nguồn dinh dưỡng quan trọng đã và đang góp phần làm
tăng năng suất cây trồng cũng như ổn định độ phì nhiêu của đất.
5. Kết luận
Sử dụng phân hữu cơ bón cho cây trồng là tập quán truyền
thống của nông dân Việt Nam. Tập quán này vẫn được duy trì, phát
triển và có giá trị cho đến ngày nay theo tốc độ phát triển của ngành
trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất nông sản hàng hoá có hiệu quả kinh
tế và chất lượng cao. Vấn đề đặt ra là các nhà khoa học, nhà quản lý
cần phải tiếp tục hoàn thiện các biện pháp sản xuất, chế biến, sử
dụng và quản lý phân hữu cơ để đạt hiệu quả cao hơn, bao gồm cả
nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón khoáng trên cơ sở bón phân
cân đối hữu cơ- vô cơ để đạt được mục tiêu sản xuất hàng hóa có
năng suất, chất lượng cao theo hướng bền vững.
Nông nghiệp thế kỷ 21 không phải là nền nông nghiệp sinh
học mà là một nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch. Để đáp
ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng, nhiệm vụ của
loài người là phải tạo ra một nền nông nghiệp thâm canh bền vững.
Trong đó cùng với việc sử dụng tối thích phân khoáng, tái sử dụng
591
tàn dư thực vật làm phân bón, giảm đến tối đa những chất phế thải
và việc mất dinh dưỡng để không làm ô nhiễm môi sinh. Đồng thời
phải làm cho đất phát huy tác dụng tích cực hơn, trở thành nơi đồng
hóa chất thải, biến chất thải thành nguồn chất dinh dưỡng; phụ phế
phẩm nông nghiệp trở thành một phần của hệ thống sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Ánh, Bùi Đình Dinh, Võ Minh Kha, 1998. Phân bón - Sử dụng,
bảo quản, phân biệt thật giả. Trung tâm Thông tin Khoa học Kỹ thuật
Hóa chất, Hà Nội.
2. Đỗ Ánh, 2002. Độ phì nhiêu của đất và dinh dưỡng cây trồng. NXB
Nông nghiệp Hà Nội, 2002.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các nghị định, thông tư
liên quan đến dinh dưỡng cây trồng và phân bón.
4. Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Trọng Thi, Bùi Huy Hiền, Nguyễn Văn
Chiến (2003). Bón phân cân đối cho cây trồng ở Việt Nam- Từ lý
luận đến thực tiễn. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
5. Lê Văn Căn (chủ biên) - 1978. Giáo trình Nông hóa. NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
6. Bùi Đình Dinh, Đỗ Ánh, Võ Minh Kha (1996). Phân bón - Sử dụng,
bảo quản, phân biệt thật giả - Trung tâm Thông tin KHKT Hóa chất,
Hà Nội, 1996.
7. Võ Minh Kha, 2003. Sử dụng phân bón phối hợp cân đối (IPNS,
Nguyên lý và giải pháp). NXB Nghệ An.
8. Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2005. Kết quả nghiên cứu khoa học -
quyển 4. Kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (1969-2004). NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
9. Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2009. Kết quả nghiên cứu khoa học -
quyển 5. Kỷ yếu 40 năm thành lập Viện (1969-2009). NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
10. Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2005. Sổ tay phân bón. NXB Nông
nghiệp Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- zs0ubqv8znbh_hien_phan_huu_co_6025.pdf