Kết quả nghiên cứu thu được cho phép đưa ra một số kết luận sau:
- Tăng nồng độ phospho, tích số canxiphospho và giảm nồng độ canxiTP huyết tương
ở bệnh nhân suy thận lọc máu chu kỳ.
- Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ canxi, phospho, tích số canxi-phospho huyết tương đạt
mục tiêu theo hướng dẫn của K/DOQI tương
ứng là 58%, 30% và 33,3%.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nồng độ phospho và canxi huyết tương ở bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 86 (1) - 2014 7
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Summary
PROGESTERONE LEVEL ON THE DAY OF HCG AFFECTED TO
IN VITRO FERTILIZATION OUTCOMES
The objectives of our study were: 1/ to assess the correlation of progesterone level on the day
of hCG injection with the in-vitro pregnancy rate in IVF; 2/ to evaluate factors related to the
elevated progesterone level and 3/ to analyze the regression of progesterone level and other
factors related to the in-vitro pregnancy rate. Materials and methods: A retrospective study of
1395 patients undergoing IVF/ICSI at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology from
Jan 2010 to May 2012. Age ≤ 38; FSH ≤ 10 IU/L; embryo transfer on day 2 - 3; included long
protocol, flare-up, antagonist protocol. Excluded egg donor; PESA/ICSI. Results: mean
progesterone value was significantly higher in non - pregnant (0.88 ± 0.77 vs 0.76 ± 0.65).
Elevated progesterone > 1.5 ng/ml group was related to significant lower pregnancy rate
compared to that of progesterone ≤ 1.5 (21.6% vs 30.7%). Therefore, elevated progesterone
level was related to clinical pregnancy rate in IVF. Elevated progesterone > 1.5 ng/ml rate in ovar-
ian stimulation was 9%. At the cut-off value of progesterone > 1.5 ng/ml, clinical pregnancy rate
was 1.63 fold higher and implantation rate was 1.53 fold higher compared to
progesterone value ≤ 1.5 ng/ml. In conclusion, elevated progesterone level on the day of hCG in
ovarian stimulation negatively impacts on clinical pregnancy outcome in IVF.
Key words: progesterone, in vitro fertilization outcomes
8 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
NỒNG ĐỘ PHOSPHO VÀ CANXI HUYẾT TƯƠNG
Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Hoa
Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
Rối loạn phospho và canxi toàn phần (canxiTP) huyết thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn
cuối. Nghiên cứu nhằm xác định nồng độ phospho và canxiTP ở bệnh nhân suy thận mạn và tìm hiểu mối liên
quan giữa nồng độ phospho với một số chỉ số khác ở bệnh nhân suy thận. Kết quả nghiên cứu cho thấy: 1)
Ở nhóm bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ, nồng độ phospho huyết tương là 2,09 ± 0,46 mmol/L,
nồng độ canxiTP huyết tương là 2,11 ± 0,20 mmol/L, tích số canxi - phospho huyết tương là 4,40 ± 1,05
mmol2/L2. Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ canxi, phospho, tích số canxi - phospho huyết tương đạt mục tiêu
theo hướng dẫn của K/DOQI tương ứng là 58%, 30% và 33,3%. Có 26,3% bệnh nhân đạt cả 3 mục tiêu về
nồng độ canxiTP, phospho, tích số canxi - phospho huyết tương, có 5,8% không đạt bất cứ mục tiêu nào. 2)
Ở nhóm bệnh nhân suy thận lọc máu chu kỳ, nồng độ phospho huyết tương có tương quan thuận mức độ
chặt, rất chặt với nồng độ creatinin cũng như tích số canxi-phospho huyết tương. Tăng nồng độ phospho,
tích số canxi - phospho huyết tương và giảm nồng độ canxiTP ở nhóm bệnh nhân suy thận lọc máu chu kỳ.
Nồng độ phospho, tích số canxi-phospho huyết tương có tương quan chặt, rất chặt với nồng độ creatinin
huyết tương.
Từ khóa: suy thận, tăng phospho huyết
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận mạn tính (CKD - chronic kidney
disease) là một trong những vấn đề sức khỏe
cộng đồng nổi cộm trên toàn thế giới. Bệnh
thận mạn tính có thể dẫn đến bệnh thận
giai đoạn cuối (ESRD - end - stage renal
disease) và đây là nguyên nhân làm tăng nguy
cơ bệnh tim mạch, suy tim và làm tăng chi phí
điều trị [1].
Rối loạn chuyển hóa muối khoáng là yếu tố
dự báo tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong ở bệnh
nhân lọc máu chu kỳ. Rối loạn phospho và
canxi huyết thường gặp ở bệnh nhân suy thận
mạn giai đoạn cuối. Tăng phospho huyết liên
quan đến cường cận giáp trạng thứ phát và
loạn dưỡng xương thận [2]. Tăng phospho
huyết còn làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh
tim mạch ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
tính nói chung và bệnh nhân lọc máu chu kỳ
nói riêng do nồng độ phospho tăng có thể làm
tăng lắng đọng canxi ở mạch máu và các mô
mềm đặc biệt ở mô tim [3].
Tỷ lệ mô tim bị lắng đọng canxi được tìm
thấy ở 60% bệnh nhân lọc máu chu kỳ khi
khám nghiệm tử thi. Sự lắng đọng này thường
được tìm thấy ở cơ tim, màng ngoài tim, động
mạch chủ, van hai lá dẫn đến loạn nhịp tim, rối
loạn chức năng thất trái, hẹp động mạch chủ,
hẹp van hai lá, sung huyết tim và tử vong [6].
Vì vậy, việc kiểm soát tốt nồng độ phospho
huyết là nền tảng của việc theo dõi và quản lý
bệnh nhân suy thận mạn không những để làm
giảm bớt sự tiến triển của cường cận giáp
trạng thứ phát mà còn giúp làm giảm nguy cơ
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Hoa, trường Đại học Y Dược
Thái Nguyên
Email: hoanguyenthi74@yahoo.com.vn
Ngày nhận: 26/9/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
TCNCYH 86 (1) - 2014 9
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
lắng đọng canxi và giảm nguy cơ tử vong do
bệnh tim mạch. Vì vậy, đề tài này được thực
hiện với mục tiêu:
Xác định nồng độ phospho và canxiTP ở
bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ
Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ phos-
pho với một số chỉ số khác ở bệnh nhân suy
thận mạn lọc máu chu kỳ
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: gồm 2 nhóm.
+ Nhóm chứng: 30 người khỏe mạnh,
không mắc các bệnh lý thận, tiết niệu và các
cơ quan khác.
+ Nhóm bệnh: 69 bệnh nhân suy thận mạn
đang lọc máu chu kỳ 3 lần/tuần tại khoa Thận
nhân tạo, bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái
Nguyên.
Nhóm chứng được lấy máu tĩnh mạch vào
buổi sáng, lúc đói. Nhóm bệnh được lấy máu
ngay trước khi lọc máu chu kỳ.
Mẫu máu được ly tâm lấy huyết tương và
làm xét nghiệm ngay.
2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng
4/2013 đến tháng 6/2013.
3. Địa điểm nghiên cứu
- Khoa Hóa sinh, bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên.
- Khoa Thận nhân tạo, bệnh viện Đa khoa
Trung ương Thái Nguyên.
4. Phương pháp: mô tả, thiết kế nghiên
cứu ngang.
5. Thiết bị nghiên cứu
Máy xét nghiệm hóa sinh tự động OLYM-
PUS AU400.
Hóa chất do hãng BECKMAN COULTER
cung cấp.
6. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Định lượng nồng độ canxiTP, phospho
huyết tương theo phương pháp so màu.
- Định lượng creatinin huyết tương theo
phương pháp Jaffe đo màu.
- Định lượng ure huyết tương theo phương
pháp động học enzym.
7. Xử lý số liệu: Xử lý số liệu theo
phương pháp thống kê y học sử dụng phần
mềm Stata 10.
8. Đạo đức trong nhiên cứu
Đề tài đã được hội đồng Khoa học trường
Đại học Y Dược Thái Nguyên phê duyệt theo
quyết định số 460/QĐ-QLKH ngày 10/4/2013
và được hội đồng Y đức bệnh viện Đa khoa
Trung ương Thái Nguyên thông qua.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 69 bệnh
nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ gồm 33
nam và 36 nữ có độ tuổi từ 24 - 84 tuổi, tuổi
trung bình là 49,7 ± 16,9. Nồng độ ure,
creatinin tương ứng là 20,4 ± 5,4 mmol/L và
712,4 ± 204,7 µmol/L.
Nhóm chứng gồm 30 bệnh nhân (15 nam,
15 nữ) có độ tuổi từ 18 - 53 tuổi, tuổi trung
bình là 35,7 ± 8,9.
2. Nồng độ phospho và canxiTP ở nhóm
bệnh nhân nghiên cứu
Nồng độ canxiTP ở nhóm bệnh nhân suy
thận lọc máu chu kỳ thấp hơn có ý nghĩa so
với nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,01). Nồng độ phospho huyết
tương, tích số canxi - phospho ở nhóm bệnh
nhân suy thận lọc máu chu kỳ cao hơn có ý
nghĩa so với nhóm chứng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p < 0,01) (bảng 1).
10 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Nồng độ phospho và canxiTP ở nhóm nghiên cứu
Chỉ số
Nhóm chứng Nhóm bệnh p
CanxiTP (mmol/L) 2,19 ± 0,11 2,11 ± 0,20 < 0,01
Phospho (mmol/L) 0,89 ± 0,19 2,09 ± 0,46 < 0,001
Tích số canxi x phospho (mmol2/L2) 2,24 ± 0,25 4,40 ± 1,05 < 0,001
Nhóm nghiên cứu
Bảng 2. Nồng độ phospho và canxiTP ở nhóm bệnh so với phân loại của K/DOQI
Chỉ số n (%)
CanxiTP (mmol/L)
< 2,1
2,1 - 2,38
> 2,38
23 (33,3)
40 (58,0)
6 (8,7)
Phospho (mmol/L)
< 1,13
1,13 - 1,78
> 1,78
0 (0)
20 (30,0)
49 (70,0)
Tích số canxiTP x phospho (mmol2/L2)
< 4,44
4,44 - 5,76
> 5,76
38 (55,1)
23 (33,3)
8 (11,6)
Tỷ lệ bệnh nhân suy thận lọc máu chu kỳ có nồng độ canxi, phospho cũng như tích số canxi-
phospho đạt mục tiêu theo khuyến cáo của K/DOQI năm 2003 tương ứng là 58%; 30% và 33,3%.
Số bệnh nhân có nồng độ phospho không đạt mục tiêu theo khuyến cáo của K/DOQI là khá cao
chiếm 70%.
Bảng 3. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu về nồng độ phospho,
canxi theo hướng dẫn của K/DOQI
Tình trạng n (%)
Không đạt mục tiêu nào 4 (5,8)
Đạt ít nhất 1 mục tiêu 65 (94,2)
Đạt ít nhất 2 mục tiêu 44 (63,8)
Đạt 3 mục tiêu 18 (26,1)
TCNCYH 86 (1) - 2014 11
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Tỷ lệ bệnh nhân có một trong ba chỉ số hoặc canxiTP, hoặc phospho hoặc tích số canxi-
phospho đạt mục tiêu là rất cao (94,2%) trong đó có 26,1% số bệnh nhân có cả 3 chỉ số đạt mục
tiêu. Chỉ số 4 bệnh nhân (5,8%) không có chỉ số nào nằm trong giới hạn cho phép.
3. Mối liên quan giữa nồng độ phospho với nồng độ canxiTP và một số chỉ số khác
Bảng 4. Tương quan giữa nồng độ phospho với một số chỉ số khác
Chỉ số n r p
Creatinin (µmol/L) 69 0,62 < 0,001
CanxiTP (mmol/L) 69 -0,03 > 0,05
CanxiTP x phospho (mmol2/L2) 69 0,92 < 0,001
Nồng độ phospho huyết tương không tương quan với nồng độ canxi huyết tương (r = -0,03,
p > 0,05). Nồng độ phospho huyết tương có tương quan thuận mức độ rất chặt với tích số
canxi - phospho huyết tương (r = 0,92, p < 0,001).
IV. BÀN LUẬN
Rối loạn chuyển hóa muối khoáng thường
xảy ra ở giai đoạn sớm của bệnh thận mạn
tính và bệnh thận giai đoạn cuối. Nồng độ
phospho máu bắt đầu tăng khi mức lọc cầu
thận là 50 - 60 mL/phút. Những thay đổi về
chuyển hóa muối khoáng có thể dẫn đến
những vấn đề về liên quan đến lâm sàng như
bệnh về xương, triệu chứng của bệnh cơ
xương và chậm phát triển [2].
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn
chuyển hóa muối khoáng đặc biệt là tăng
phospho và canxi huyết làm tăng tỷ lệ tử vong
ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ thông qua quá
trình canxi hóa mạch máu [3; 2]. Một số yếu tố
thúc đẩy quá trình canxi hóa mạch máu là
tăng nồng độ hormon tuyến cận giáp trạng
(parathyroid hormon), kiềm hóa tổ chức, tăng
nồng độ phospho, tăng nồng độ canxi
huyết đặc biệt là tăng tích số canxi-phospho
huyết [3].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy: ở nhóm bệnh nhân suy thận lọc máu chu
kỳ, nồng độ phospho, tích số canxi-phospho
huyết tương cao hơn, nồng độ canxi huyết
tương thấp hơn so với nhóm chứng là những
người khỏe mạnh. Nồng độ phospho trong
nghiên cứu này của chúng tôi cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Thủy
[4] và tác giả Phan Thị Thanh Hải [5]
(2,09 ± 0,46 mmol/L so với 1,6 ± 0,5 mmol/L
và 1,85 ± 0,46mmol/L) có thể do đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là những bệnh nhân
suy thận mạn lọc máu chu kỳ còn tác giả
Nguyễn Thị Kim Thủy nghiên cứu trên đối
tượng là bệnh nhân suy thận từ giai đoạn 1
đến giai đoạn 4. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn so với tác giả Vũ
Lệ Anh và cộng sự nghiên cứu trên bệnh
nhân suy thận giai đoạn 5 [6].
Tăng nồng độ phospho trong máu là yếu tố
nguy cơ độc lập làm tăng tỷ lệ tử vong cũng
như suy giảm chức năng thận ở những bệnh
nhân mắc bệnh thận mạn tính. Kết quả nghiên
cứu của tác giả Tentori cho thấy ở những
bệnh nhân có nồng độ phospho huyết tương
từ 3,6 - 5,0 mg/dL (1,15 - 1,6 mmol/L) thì tỷ lệ
tử vong là thấp nhất, tỷ lệ này cao hơn ở
12 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
những bệnh nhân có nồng độ phospho huyết
tương > 6 mg/dL (> 1,92 mmol/L) [7]. Trong
một phân tích tổng hợp khác cho thấy khi
nồng độ phospho huyết tương tăng lên 1 mg/
dL thì nguy cơ tử vong tăng lên 18%
(RR = 1,18 CI 1,12 - 1,25) [1]. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có tăng
phospho huyết tương là 70%, tỷ lệ này trong
nghiên cứu của tác giả Vũ Lệ Anh là 88% [6].
Đánh giá dựa vào hướng dẫn của K/DOQI
để phân loại các chỉ số canxi, phospho và tích
số canxi-phospho làm 3 mức độ: tăng, giảm
hoặc bình thường [8]. Kết quả nghiên cứu cho
thấy tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ canxi,
phospho và tích số canxi-phospho đạt mục
tiêu (mức độ bình thường) tương ứng là 58%,
30% và 33,3%. Có 26,3% bệnh nhân được
kiểm soát đồng thời cả 3 chỉ số. Tuy nhiên,
có 5,8% không kiểm soát được cả 3 chỉ số
trên. Kết quả này tương đương với kết quả
của tác giả Singh nghiên cứu trên 101 bệnh
nhân suy thận lọc máu chu kỳ tại Nepal [2].
Tăng nồng độ phospho huyết tương là
do giảm quá trình lọc cũng như bài tiết
phospho qua thận. Nồng độ phospho tăng
theo mức độ suy giảm chức năng thận. Trong
nghiên cứu này có mối tương quan thuận mức
độ chặt giữa nồng độ phospho huyết tương
với nồng độ creatinin huyết tương (r = 0,62,
p < 0,001).
Tăng nồng độ phospho huyết tương còn
gây ức chế quá trình tạo cancitriol. Giảm nồng
độ cancitriol sẽ gây giảm hấp thu canxi tại
ruột. Như vậy, nồng độ phospho huyết tương
càng tăng thì nồng độ canxi huyết tương càng
giảm. Nồng độ canxiTP huyết tương trong
nghiên cứu này ở nhóm bệnh nhân suy thận
lọc máu chu kỳ thấp hơn so với nhóm chứng
(2,11 ± 0,2 mmol/L so với 2,19 ± 0,11 mmol/
L). Nồng độ canxiTP trong nghiên cứu của
chúng tôi tương đương với kết quả nghiên
cứu của tác giả Phan Thị Thanh Hải [5]. Theo
kết quả nghiên cứu trên 51 bệnh nhân suy
thận mạn cho thấy: có mối tương quan nghịch
mức độ vừa giữa nồng độ phospho với nồng
độ canxi huyết tương (r = -0,33, p < 0,05) [5].
Tuy nhiên, trong nhiên cứu này chưa thấy mối
tương quan giữa nồng độ phospho huyết
tương với nồng độ canxi huyết tương
(r = -0,03, p > 0,05). Nồng độ canxi huyết
giảm kéo dài sẽ gây cường chức năng tuyến
cận giáp và phì đại tuyến giáp. Ở bệnh nhân
suy thận mạn có nồng độ canxi máu giảm, khi
nồng độ canxi máu tăng trở lại mức bình
thường và tăng hơn mức bình thường là biểu
hiện có cường cận giáp thứ phát [5].
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu thu được cho phép
đưa ra một số kết luận sau:
- Tăng nồng độ phospho, tích số canxi-
phospho và giảm nồng độ canxiTP huyết tương
ở bệnh nhân suy thận lọc máu chu kỳ.
- Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ canxi, phos-
pho, tích số canxi-phospho huyết tương đạt
mục tiêu theo hướng dẫn của K/DOQI tương
ứng là 58%, 30% và 33,3%.
- Có 26,3% bệnh nhân đạt cả 3 mục tiêu về
nồng độ canxi, phospho, tích số canxi -
phospho huyết tương. Tỷ lệ bệnh nhân không
kiểm soát được nồng độ phospho huyết tương
là 70%. Có 5,8% không kiểm soát được cả 3
chỉ số canxi, phospho, tích số canxi-phospho
huyết tương.
Ở nhóm bệnh nhân suy thận lọc máu chu
kỳ, nồng độ phospho huyết tương có tương
quan thuận mức độ chặt, rất chặt với nồng độ
creatinin cũng như tích số canxi - phospho
huyết tương.
TCNCYH 86 (1) - 2014 13
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
KHUYẾN NGHỊ
Cần định lượng nồng độ phospho huyết
tương 1 tháng/lần ở bệnh nhân lọc máu chu
kỳ để kiểm soát tốt hơn nồng độ phospho
huyết tương.
Lời cảm ơn
Xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Y
Dược, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi để đề tài
được thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kong X, Zhang L, Zhang Ll et al
(2012). Mineral and bone disorder in Chinese
dialysis patients: a multicenter study. BMC
Nephrol, 13, 116 - 123.
2. S Singh KU-D, G Aryal (2012). Value of
Canxium and Phosphorous in chronic kidney
disease patients under hemodialysis: A retro-
spective study. Journal of Pathology of Nepal.
2 (4), 293 - 296.
3. Llach F (1999). Hyperphosphatemia in
end-stage renal disease patients: pathophysi-
ological consequences. Kidney Int Suppl, 73,
31 - 37.
4. Nguyễn Thị Kim Thủy (2011). Biến đổi
nồng độ phốt pho ở bệnh nhân suy thận mạn
tính. Tạp chí Y Dược học Quân sự, 6, 117 - 121.
5. Phan Thị Thanh Hải, Nguyễn Gia Bình
(2010). Nghiên cứu hàm lượng canxi, phos-
pho, parathyroid hormon và hoạt độ phos-
phatse kiềm toàn phần trong huyết thanh của
bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn III và IV.
Tạp chí Y học Việt Nam, 8 (2), 77 - 84.
6. Vũ Lệ Anh, Nguyễn Thành Tâm, Trần
Thị Bích Hương (2010). Rối loạn chuyển hóa
canxi, phospho và PTH ở bệnh nhân bệnh
thận mạn giai đoạn trước chạy thận nhân tạo.
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 14 (1),
407 - 413.
7. Tentori F (2010). Mineral and bone dis-
order and outcomes in hemodialysis patients:
results from the DOPPS. Semin Dial, 23 (1),
10 - 14.
8. Foundation NK (2003). K/DOQI clinical
practice guideline for bone metabolism and
disease in chronic kidney disease. Am J Kid-
ney Dis, 42 (3), 1 - 201.
Summary
PLASMA PHOSPHORUS AND CALCIUM LEVELS
OF CHRONIC KIDNEY DISEASE PATIENTS ON MAINTENANCE
HEMODIALYSIS IN THAI NGUYEN CENTRAL GENERAL HOSPITAL
Disturbances of blood phosphorus and calcium levels are commonly observed in patients with
chronic kidney disease. The objectives of the study are: 1) Evaluate the values of plasma
phosphorus and calcium levels in hemodialysis patients. 2) Analyze the correlation between
phosphorus concentration with other factor. Result: in hemodialysis patients, the mean values of
plasma phosphorus, calcium and calcium phosphorus product were 2.09 ± 0.46 mmol/L, 2.11 ±
0.20 mmol/L and 4.40 ± 1.05 mmol2/L2 respectively. 58%, 30% and 33.3% cases of hemodialysis
met K/DOQI target value for calcium, phosphorus and calcium -phosphorus product respectively.
26.3% of the patients met the three K/DOQI targets and 5.8% did not meet any of the
14 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
recommended targets by K/DOQI. 2) There is a strong significant correlation between phospho-
rus, calcium-phosphorus product and plasma creatinin levels. Conclusion: 1) Increasing calcium -
phosphorus product, hyperphosphanemia and hypocalcemia are complications common in hemo-
dialysis patients. 2) There is a strong significant correlation between phosphorus, calcium - phos-
phorus product and plasma creatinin levels.
Key word: renal failure, hyperphosphatemia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 15_61_1_pb_2789.pdf