Là một đơn vị mới ra đời, Đảng bộ và nhân dân
phường Cải Đan phải đối mặt với nhiều khó khăn
thử thách: thiếu lãnh đạo, thiếu kinh nghiệm,
ngân sách hạn hẹp. Nhưng với phương châm
tuyệt đối tin tưởng vào đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước;
với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền, Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên và thị xã Sông Công, Ban
Chấp hành Đảng uỷ phường đã nỗ lực đưa
phường Cải Đan phát triển đi lên. Nhờ vậy mà
sau hơn 10 năm thành lập, nền kinh tế phường
Cải Đan đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng
“Công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ”, diện mạo của phường được thay đổi
theo chiều hướng tích cực.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhìn lại quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phường Cải Đan - Sông Công - Thái Nguyên (1999 - 2010), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tnu.edu.vn
NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
PHƯỜNG CẢI ĐAN - SÔNG CÔNG - THÁI NGUYÊN (1999 - 2010)
Nguyễn Minh Tuấn*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Phường Cải Đan (thuộc thị xã Sông Công, Thái Nguyên) được thành lập vào năm 1999 theo Nghị
định số 18/NĐ - CP của Chính phủ nước CHXHCNVN. Đến nay, phường Cải Đan trở thành một
đơn vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau hơn 10 năm
thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Đảng bộ thị xã Sông Công và trực tiếp
là Đảng bộ phường Cải Đan, cơ cấu kinh tế của phường đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Nhờ đó,
đời sống của người dân ngày một ổn định, bộ mặt của phố phường ngày càng thay đổi theo hướng
tích cực.
Từ khoá: công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng kinh tế
Đảng bộ phường lãnh đạo quá trình phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn 1999-2005*
Phường Cải Đan mới thành lập năm 1999, trên
cơ sở xã Cải Đan cũ nên nông nghiệp là ngành
kinh tế giữ vai trò chủ đạo; sản xuất hàng hóa
chưa phát triển, kết cấu hạ tầng yếu kém. Giai
đoạn đầu mới thành lập (1999 - 2005), dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ phường, kinh tế của Cải
Đan có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu ngành.
Bên cạnh ngành nông nghiệp là chính thì các
ngành công nghiệp, dịch vụ bước đầu phát triển
mạnh, dần chiếm tỷ trọng cao.
Nông nghiệp:
Xác định cây lúa là cây trồng chính và có vai trò
quan trọng nhất nên ngay từ khi mới thành lập,
Đảng bộ, UBND phường đã kịp thời lãnh đạo
nhân dân đẩy mạnh hoạt động sản xuất, tăng
năng suất và sản lượng lương thực để đáp ứng
nhu cầu của nhân dân trong vùng và phục vụ cho
hoạt động trao đổi buôn bán.
Mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do
một số doanh nghiệp, trường học lấy đất để xây
dựng và làm đường giao thông, nhưng diện tích,
năng suất và sản lượng lúa trong giai đoạn này
vẫn tăng lên đáng kể. Năm 2002, diện tích lúa
của phường là 306,8 ha, tổng sản lượng là 1737
*
Tel: 01234865145; Email: thansa6@gmail.com
tấn. Năm 2004, năng suất lúa bình quân của
phường là 47,2 ta/ha, đối với lúa cao sản đạt 54
tạ/ha, so với năm 2003 đã vượt 3,2 tạ/ha. Đến
năm 2005, tổng diện tích lúa của phường tăng lên
386,1 ha, tổng sản lượng lương thực là 1.788,03
tấn đạt 121,7% kế hoạch. Đối với lúa cao sản
tổng diện tích là 140 ha, năng suất đạt 55 tạ/ha
cao hơn 5tạ/ha so với kế hoạch đề ra, tổng sản
lượng là 770 tấn, cao hơn so với năm 2004 [4].
Có được kết quả đó là do Đảng bộ phường
thường xuyên chỉ đạo mở rộng diện tích canh tác,
thúc đẩy đưa các giống lúa mới vào sản xuất, áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để năng
cao năng suất. Các hội nghị đầu bờ tường xuyên
được tổ chức để tổng kết và đưa ra những giải
pháp kịp thời.
Bên cạnh cây là cây trồng chính, Đảng bộ
phường khuyến khích nhân dân trồng xen canh
các loại hoa màu như: ngô, khoai lang, đỗ, lạc,
rau màuCán bộ khuyến nông tích cực nghiên
cứu tìm hiểu sự thích nghi của các loại cây trồng
mới với đất đai trên địa bàn phường và đẩy mạnh
hoạt động áp dụng khoa học - kĩ thuật vào sản
xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Trong số các cây trồng xen canh, ngô là cây
trồng chủ yếu trong vụ đông, góp phần quan
trọng đưa sản lượng lương thực của phường tăng
mạnh. Đến năm 2005, toàn phường có 119 ha
trồng ngô, năng suất bình quân đạt 27,33 tạ/ha,
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tổng sản lượng ngô là 325,23 tấn, trong đó ngô
nếp chiếm 40% diện tích trồng. Với diện tích lớn
và tập trung nên cây ngô đã thực sự trở hàng hóa
trong vụ đông. Diện tích các cây trồng khác như
khoai lang, đậu, đỗ, lạc cũng tăng lên. Do đó, sản
lượng lương thực bình quân trong phường tăng
lên 570 kg/người/năm, cao hơn nhiều so với tỷ
lệ chung của tỉnh và cả nước [4].
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi trên địa bàn
phường cũng khá phát triển, bao gồm các loại gia
súc như: trâu, bò, lợn chủ yếu để lấy sức kéo,
phân bón và từng bước hướng tới việc lấy thịt.
Các loại gia cầm như gà, vịt, ngan cũng được
nuôi khá phổ biến với quy mô gia đình, nhằm
phục vụ nhu cầu thực phẩm hằng ngày. Trên địa
bàn phường bắt đầu xuất hiện các trang trại chăn
nuôi lợn, gà tập trung tại các tổ dân phố Ao Ngo,
Nguyên Giả. Đặc biệt, trên địa bàn phường đã có
2 trang trại nuôi lợn hướng nạc, riêng xóm Ao
Ngo nhiều hộ nông dân đã chăn từ 20-25 con lợn
một lứa cho thu nhập khá cao.
Trong giai đoạn này do ảnh hưởng của các dịch
bệnh ở gia cầm, gia súc như: cúm gia cầm, long
móng nên hoạt động chăn nuôi của nhân dân
trong phường cũng bị ảnh hưởng. Nhưng nhờ có
sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ, UBND trong
công tác kiểm dịch, tiêm vác xin phòng dịch nên
hoạt động chăn nuôi trên địa bàn phường vẫn
được giữ vững. Đến năm 2005, đàn trâu, bò đã
tăng lên hơn 800 con, rất nhiều gia đình trong
phường nuôi từ 4-5 con trâu, bò [4].
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ:
Trong giai đoạn 1999-2005, các ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã có
những bước tiến triển quan trọng. Trên địa bàn
phường, các nhà máy, xí nghiệp, công ty vừa và
nhỏ bắt đầu hình thành và phát triển.
Tính đến năm 2004, trên địa bàn có 62 hộ đang
kinh doanh, sản xuất hiệu quả và cho thu nhập ổn
định. Chợ phường Cải Đan đang được xây dựng,
các kiốt bán hàng đang được hình thành [4].
Đến năm 2005, trên địa bàn phường trên địa bàn
phường đã có 15 doanh nghiệp đang hoạt động,
65 hộ đăng ký kinh doanh, nhiều dự án đã và
đang vào đầu tư trong địa bàn như: Công ty
TNHH một thành viên Vạn Xuân đã đền bù và
giải phóng mặt bằng xong đang chuẩn bị xây
dựng; kho bạc nhà nước Sông Công; ngân hàng
đầu tư tỉnh Thái Nguyên, trường Cao đẳng Xây
lắp điện; dự án nghĩa địa tập trung đang được Sở
Xây dựng thiết kế và chuẩn bị xây dựng; công ty
chế biến thức ăn gia súc gia cầm Đại Minh đang
được xây dựng, dự kiến sẽ đi vào sản xuất, vào
đầu quý II năm 2006, hiện tại đang chuẩn bị
tuyển thêm công nhân là con em của những hộ
gia đình có ruộng thu bị hồi vào làm việc. Sự ra
đời của các doanh nghiệp trên địa bàn phường đã
góp phần tạo thêm việc làm, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp, dịch vụ.
Địa chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông
thủy lợi:
Tính đến năm 2005 trên địa bàn phường đã có 5
tuyến đường giao thông nông thôn với tổng chiều
dài là 1.008 mét, tổng giá trị quyết toán là
205.383.000 đồng, trong đó nhà nước hỗ trợ 50
triệu đồng, còn đa số do nhân dân tự nguyện
đóng góp. Nhờ đó, việc giao thông đi lại của
người dân trong phường được thuận lợi hơn và
tạo điều kiện trong thu hút đầu tư, phát triển kinh
tế.
Cùng với việc xây dựng hệ thống giao thông vận
tải, công tác xây dựng hệ thống thuỷ lợi cũng có
những tiến triển quan trọng. Năm 2004, phường
nghiệm thu và đưa vào sử dụng trạm bơm điện
Phố Mới, đã góp phần tăng diện tích đất canh tác,
tạo điều kiện luân canh tăng vụ trên vùng đất khô
cằn, đặc biệt là phát triển các cây vụ đông. Cũng
trong năm 2004, nhờ xử lý tốt các vụ vỡ đê tại
kênh cấp I Xuân Thành và kênh cấp II tại xóm
Nguyên Gon, cùng với việc trạm khuyến nông
phục vụ tốt nguồn nước tưới đã tạo điều kiện đưa
năng suất lúa lên cao.
Là một phường mới đựơc thành lập nên Cải Đan
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách
trong quá trình phát triển kinh tế: dịch cúm gia
cầm bùng phát và có nguy cơ quay trở lại đe dọa
hoạt động chăn nuôi của phường, giá cả một số
vật tư phục vụ sản xuất không ổn định, đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của nhân dân.
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Song dưới sự lãnh đạo thường xuyên của Đảng
bộ phường, việc tổ chức thực hiện kịp thời của
UBND và sự đoàn kết nhất trí ủng hộ của nhân
dân toàn phường, việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của Cải Đan trong giai đoạn
1999-2005 đã đạt đựợc một số kết quả quan
trọng. Đời sống của nhân dân đã ổn định, niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ
ngày càng được củng cố.
2. Giai đoạn 2005-2010
Trong giai đoạn 2005 - 2010, phường Cải Đan
tiếp tục thu được nhiều thành tựu về kinh tế, văn
hóa và xã hội. Để đạt được những kết quả đó là
do Đảng bộ phường Cải Đan luôn đề ra những
chủ trương, biện pháp kịp thời, tạo động lực cho
sự phát triển của phường trong thời kì mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường
lần thứ 2 “phấn đấu phường Cải Đan trở thành
phường công nghiệp-nông nghiệp-tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ phường, cùng với sự nỗ lực của 11 tổ dân phố,
các ban ngành, đoàn thể và nhân dân trong
phường nên các mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội đều hoàn thành vượt kế hoạch đề ra.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh đều tăng hơn
so với trước. Đến năm 2006, số hộ đăng kí kinh
doanh trên địa bàn phương tăng lên 65 hộ, có 20
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đi vào hoạt động.
Với việc tăng mạnh hoạt động kinh doanh đã tạo
ra một cơ chế hoạt động kinh tế linh hoạt, nguồn
thu nhập ổn định, góp phần cải thiện mức sống
của người dân và tăng thu ngân sách cho phường.
Khi kinh tế phát triển, bên cạnh những nhu cầu
về sinh hoạt hằng ngày, nhu cầu xây dựng tăng
lên nhanh chóng, các công trình xây dựng bắt
đầu mở rộng trên quy mô lớn: các trường học,
các công ty, xí nghiệp lần lượt mọc lên, các khu
dân cư hiện đại đang được quy hoạch. Chính vì
vậy, trong thời gian này có 6 dự án bồi thường
giải phóng mặt bằng, sẽ hứa hẹn đem đến bộ
mặt mới cho phường Cải Đan. Những thay đổi
trên toàn phường đã phản ánh, đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, đẩy
nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn.
Nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt và chăn
nuôi vẫn là hai ngành sản xuất chính. Với những
chính sách khuyến nông: khuyến khích sử dụng
nhiều giống lúa mới; công tác phát triển thủy lợi
được đẩy mạnh với hệ thống kênh, mương được
sửa chữa và xây dựng mới nên hoạt động trồng
trọt được đẩy mạnh hơn nữa. Trong đó, lúa vẫn
là cây sản xuất chính.
Đến năm 2009, diện tích trồng lúa đạt 385 ha,
năng suất lúa đã đạt tới 50 tạ/ ha, tổng sản lượng
lúa đạt 1792 tấn, bằng 102% kế hoạch. Trong đó,
lúa cao sản với 146 ha đạt tới 55 tạ/ha, tổng sản
lượng lúa cao sản đạt 803 tấn. Bên cạnh cây lúa,
các cây lương thực khác ngô cũng đạt sản lượng
cao, với diện tích là 185 ha, đạt năng suất bình
quân là 39,5 tạ/ha, tổng sản lượng đạt 663,5 tấn.
Khoai lang, đậu, đỗ các loại rau mầu, cây ăn quả
đều phát triển tốt và cho thu nhập khá cao. Tổng
sản lượng lương thực tới năm 2009 đạt 1900 tấn
vượt 0.89% so với những năm đầu của giai đoạn
2006-2010 [4]. Như vậy, trong trồng trọt, sản
lượng cây lương thực đều đạt sản lượng cao vượt
mức chỉ tiêu của các kế hoạch đề ra, từ đó góp
phần khẳng định vị thế của ngành nông nghiệp,
tạo ra bước đệm để phát triển kinh tế phường
toàn diện hơn.
Chăn nuôi là một trong những ngành kinh tế chủ
chốt trong nông nghiệp của Cải Đan. Những năm
gần đây, với những diễn biến phức tạp của các
bệnh dịch ở gia cầm, lợn, trâu, bò đã gây sự tổn
thất lớn về thu nhập từ chăn nuôi. Trước tình
hình đó, lãnh đạo của phường, bằng những biện
pháp đã hạn chế tối đa những thiệt hại do bệnh
dịch mang lại. Trong giai đoạn 2006 - 2010, chăn
nuôi đã có những biến đổi theo chiều hướng tích
cực hơn, tạo ra sự cân bằng với ngành trồng trọt.
Số lượng đàn trâu bò và lợn phát triển nhanh,
trong đó đàn trâu bò tăng lên 600 con trên toàn
phường, đàn lợn có xu thế ổn định và vẫn được
duy trì so với trước. Mặc dù dịch cúm gia cầm tái
phát ở một số địa phương, nhưng với những biện
pháp phòng ngừa hiệu quả nên sau khi bệnh dịch
được kiểm soát, số lượng đàn gia cầm lại tiếp tục
phát triển, tăng số lượng lên đáng kể.
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Những kết quả đó là do sự nỗ lực không ngừng
của toàn thể nhân dân trong phường và quan
trọng là sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng bộ, của
các cơ quan chức năng trong việc tìm ra những
bước đi phù hợp thúc đẩy ngành nông nghiệp
phát triển, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh
tế.
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Bên cạnh việc phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn, Đảng bộ phường và đã thu được nhiều kết
quả tích cực về vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng,
phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội.
Trong từng tổ dân phố, các công trình giao thông
từng bước được sửa chữa và đầu tư nâng cấp.
Các tuyến đường hầu hết được đổ bê tông cốt
thép, trong đó có tuyến đường Bắc Xuân Miếu và
tuyến đường Thống Nhất và nhà văn hóa Xuân
Gáo là những công trình lớn của phường với số
tiền lên tới hàng trăm triệu đồng, trong đó một
phần chi phí do nhà nước hỗ trợ, một phần lớn là
do nhân dân đóng góp. Đến năm 2010 trên toàn
phường đã làm mới 5713 mét đường bê tông [3].
Với việc bê tông hóa đường giao thông đã tạo
điều kiện đi lại thuận lợi cho nhân dân trong địa
bàn, từng bước hình thành diện mạo nông thôn
mới.
Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ
phường Cải Đan đã thường xuyên quan tâm tới
việc làm thủy lợi. Với tuyến kênh nội đồng của
hai tổ dân phố Nguyên Bẫy và Phố Mới được
đưa vào sử dụng, tổng chiều dài là 610 m đã giúp
ích bà con nông dân rất nhiều trong sản xuất. Bên
cạnh đó, 2 tuyến kênh 12-9A và 12-9B do Sở
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn trực tiếp thi
công cũng đã được đưa vào sử dụng [3]. Qua 5
năm thực hiện những chủ trương trên, đến năm
2010, toàn phường đã xây dựng được 3485 mét
kênh mương nội. Việc tưới tiêu nước trên đồng
ruộng, đặc biệt là vùng đất cao trở nên dễ dàng
hơn, nhân dân có thể chủ động nước trong sản
xuất và sinh hoạt.
Với chủ trương đúng đắn coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, công tác xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội, Đảng bộ phường Cải Đan đã tạo ra sự
tin yêu của quần chúng. Sự đoàn kết của Đảng bộ
phường, toàn dân đã đưa đến sự thắng lợi trên
nhiều lĩnh vực sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
của của Đảng bộ phường nhiệm kỳ 2: Phát triển
kinh tế luôn luôn tăng trưởng, cơ sở hạ tầng
được xây dựng ngày một khang trang, an ninh
quốc phòng ổn định, giữ vững đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân ngày càng cải thiện, bộ
mặt của phường ngày càng đổi mới.
Ưu điểm, hạn chế và khuyến nghị
Trong quá trình Đảng bộ phường lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1999 đến năm
2010 nổi lên những ưu điểm sau:
Một là, Đảng bộ phường đã vận dụng sáng tạo
những chủ trương, đường lối của Đảng vào quá
trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp, dịch vụ.
Hai là, trên cơ sở ưu tiên xây dựng kết cấu hạ
tầng nông thôn để thực hiện hiệu quả quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước
đã được cải thiện.
Ba là, trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, Đảng bộ phường luôn chú trọng công
tác tổ chức cán bộ, đảng viên, biến quyết tâm của
Đảng bộ thành hành động thực tiễn của quần
chúng.
Bên cạnh những ưu điểm, Đảng bộ phường còn
có một số hạn chế: việc triển khai thực hiện chủ
trương ở các ngành, các cấp còn lúng túng;
việc tổ chức xây dựng và thực hiện các quy
hoạch chưa tốt; việc chuyển dịch kinh tế chưa
hiệu quả, vẫn còn mang tính thuần nông.
Nhiệm vụ của Đảng bộ phường trong giai đoạn
tới là “lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mục
tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tạo đà cho
phát triển kinh tế bền vững, sớm đưa phường Cải
Đan trở thành phường công nghiệp, nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ” [4].
Để thực hiện được mục tiêu đó cần:
- Đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm,
phát triển ngành nghề đa dạng, phong phú, áp
dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng; mở rộng
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mô hình trồng ngô bao tử, ngô nếp ngô lai; xây
dựng cánh đồng sạch, cánh đồng chuyên canh;
mở rộng phát triển mô hình chăn nuôi lợn
ngoại, gà công nghiệp, gà đẻ trứng, gà thả
vườn; nhân rộng mô hình nuôi nhím sinh sản,
mô hình nuôi ếch Thái Lan.
- Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 7 khóa X đề ra: tiếp tục xây dựng
các cánh đồng cao sản, đẩy mạnh thâm canh,
tăng vòng quay của đất nên 3 vụ/năm; tích cực
phối hợp với phòng Nông nghiệp, trạm Khuyến
nông, trạm Vật tư nông nghiệp của thị xã hỗ
trợ về kỹ thuật, cây giống, con giống có năng
suất cao để nông dân đưa vào sản xuất.
- Tạo điều kiện cho các gia đình mở trang trại
nhỏ và vừa, khuyến khích động viên nhân dân
phát triển đa dạng trong chăn nuôi. Thường
xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân chủ động
tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm không để
bệnh dịch lây lan thành dịch.
- Lãnh đạo phường cần xây dựng cơ chế, chính
sách nhằm huy động tối đa các nguồn lực để phát
triển kinh tế; cần phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở tại các tổ
dân phố.
KẾT LUẬN
Là một đơn vị mới ra đời, Đảng bộ và nhân dân
phường Cải Đan phải đối mặt với nhiều khó khăn
thử thách: thiếu lãnh đạo, thiếu kinh nghiệm,
ngân sách hạn hẹp. Nhưng với phương châm
tuyệt đối tin tưởng vào đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước;
với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền, Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên và thị xã Sông Công, Ban
Chấp hành Đảng uỷ phường đã nỗ lực đưa
phường Cải Đan phát triển đi lên. Nhờ vậy mà
sau hơn 10 năm thành lập, nền kinh tế phường
Cải Đan đã có sự chuyển dịch nhanh theo hướng
“Công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ”, diện mạo của phường được thay đổi
theo chiều hướng tích cực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ
phường Cải Đan nhiệm kì I, năm 1999.
[2]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ
phường Cải Đan nhiệm kì II, năm 2005.
[3]. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ
phường Cải Đan nhiệm kì III, năm 2010.
[4]. Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội (từ năm 2000 đến năm 2010).
SUMMARY
PROCESS OF ECONOMIC RESTRUCTURING OF CAI DAN WARDS
(SONG CONG - THAI NGUYEN) 1999-2010
Nguyen Minh Tuan*
College of Sciences - TNU
Cai Dan wards was found in 1999 under Decree No. 18/ND - CP of the Government of the Democratic
Republic of Vietnam. Up to now, Cai Dan wards has become a typical unit of economic development
towards industrialization and modernization. After more than 10 years of establishment, under the
leadership of the Thai Nguyen Provincial Party Committee, Party Committee of Song Cong town,
especially the leadership of Cai Dan Communite, the economic structure of the wards have shifted
towards increasing rates critical industries, services, gradually reducing the agricultural sector. So that,
people's lives is stable and more stable, surface of the Cai Dan wards varies increasingly positive trend.
Key words: industrialization and modernization, the economic, restructuring, economic
*
Tel: 01234865145; Email: thansa6@gmail.com
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 53 - 57
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhin_lai_qua_trinh_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_phuong_cai_dan.pdf