Nếu việc khiếu nại là có sơ sở, chủ hàng xuất khẩu phải giải quyết bằng một trong những
phương pháp sau:
- Giao hàng còn thiếu.
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng.
- Sửa chữa hàng hỏng.
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời hạn
sau đó.
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau tại hội
đồng trọng tài (nếu có thoả thuận trọng tài) hoặc tại toà án
27 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 1636 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ
bản của kinh doanh thương mại quốc tế
trong nền kinh tế thị trường
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ
bản của kinh doanh thương mại quốc tế
trong nền kinh tế thị trường
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Phiên bản trực tuyến:
MỤC LỤC
1. Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
3. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
5. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
6. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
7. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Tham gia đóng góp
1/25
Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong
Thương mại Quốc tế
Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế
Khái niệm và vai trò của Thương mại Quốc tế đối với sự phát triển của mỗi Quốc
gia.
Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một quốc gia với
quốc gia khác, là một bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc tế của một nước với các nước
khác trên thế giới.
Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia. Từ sự khác biệt
về tài nguyên, khoáng sản, lực lượng sản xuất, kỹ thuật công nghệ… đã làm cho chi phí
để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác biệt giữa nước này với nước khác.
Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia. Thương mại Quốc
tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi,
kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh doanh Thương mại Quốc tế.
Thương mại Quốc tế cho phép mua được những hàng hoá và dịch vụ ở những thị trường
có giá rẻ hơn, sau đó bán chúng ở những thị trường có giá cao. Nhưng điều lý thú hơn
cả là không phải lúc nào ta cũng mua được các sản phẩm có giá rẻ và bán chúng với giá
đắt mà cái chính là chúng ta lợi dụng được lợi thế so sánh, nhờ đó qua trao đổi Quốc tế
mà cả hai bên đều có lợi.
Nói đến Thương mại Quốc tế không thể không tìm hiểu về các lý thuyết kinh tế, đặc
biệt là quy luật lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi
phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Một quốc gia phải tập
trung vào sản xuất và trao đổi sản phẩm mà ở đó thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn
giữa các mức chi phí cá biệt của Quốc gia đó với mức chi phí trung bình Quốc tế trên
thị trường Thế giới. Do đó có thể thấy cốt lõi của lợi thế so sánh là sự khéo léo lựa chọn,
biết kết hợp giữa ưu thế của một nước với ưu thế của nước khác để đạt được lợi thế tối
đa trên cơ sở một khả năng hạn chế.
Như vậy, một Quốc gia muốn phát triển thì phải bảo đảm hiệu quả tối đa của việc chuyên
môn hoá trên cơ sở lợi thế so sánh. Làm được điều đó thì bất cứ một quốc gia nào cũng
có thể tham gia vào thị trường Thương mại Quốc tế một cách có lợi nhất.
2/25
Vị trí của công tác nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế đối với một quốc gia.
Nước ta cũng như nhiều nước khác có khả năng rất lớn về nhiều mặt như: tài nguyên
thiên nhiên, lao động... song không chỉ nhằm vào chúng một cách độc lập mà hy vọng
đạt hiệu quả cao. Tức là nói ngắn gọn không thể có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên cơ sở hoàn toàn tự cấp tự túc.
Để khai thác hiệu quả tiềm năng trên, chúng ta phải có vốn, khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại. Để có những yếu tố này chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp mà
phương pháp cơ bản nhất là thông qua Thương mại Quốc tế trong đó chủ yếu và giữ vị
trí chủ động là hoạt động nhập khẩu. Trong điều kiện chúng ta còn tương đối lạc hậu
về kinh tế công nghệ kỹ thuật thấp kém thì việc thay thế lao động thủ công bằng lao
động máy móc hiện đại hoá lực lượng sản xuất không thể ngày một ngày hai mà chỉ có
thể tiến hành từng bước bằng nhập khẩu trong một thời gian dài. Việc thay đổi chiến
lược kinh tế từ "đóng cửa” sang "mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở sẽ
tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng của nước
chúng ta trong phân công lao động Quốc tế một cách có lợi nhất. Thương mại Quốc tế
chỉ ra cho một nước lợi thế của mình, nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi
nhất. Nhập khẩu sẽ giúp chúng ta gỡ những vướng mắc mà những nước nghèo thường
mắc phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu công
nghiệp hoá.
3/25
Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu đó
là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc
tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau
giữa nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều
có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền
kinh tế Thế giới thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng.
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng
hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu mã cho phép thoả
mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của
sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển
trong xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra động lực bắt buộc
các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, tạo ra sự phát triển xã hội và
sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự
cấp, tự túc.
- Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc quá hiện đại mà
trong nước không thể sản xuất được).
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau,
tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của
đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
4/25
Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong
thương mại quốc tế
Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của môi trường, điều kiện kinh
doanh cùng với sự năng động sáng tạo của người kinh doanh đã tạo ra nhiều hình thức
nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra đây một vài hình thức nhập khẩu đang được sử dụng
tại các doanh nghiệp của nước ta hiện nay.
Nhập khẩu trực tiếp:
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy
đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của
Nhà nước cũng như quốc tế.
Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động và
phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường, lựa
chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh
và được hưởng toàn bộ phần lãi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt
động đó thua lỗ.
Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ
hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức.
Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, còn
hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập.
Nhập khẩu uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp
hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng
không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối tác kinh doanh... nên đã uỷ thác cho
doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng
hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài
để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi
5/25
là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được
quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp Xuất
nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không
phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại
diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục
nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài
khi có tổn thất.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ
được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế
doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải
lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài
- Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
Nhập khẩu liên doanh.
Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự
nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu
trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương
biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo
hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu.
Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên
doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần
vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc
phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo
thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch
xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính
theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh
nghiệp Nhà nước).
6/25
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập
khẩu
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế:
Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc
phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. Vì nó thể hiện ý chí của Đảng lãnh
đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng
lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu
được tiến hành giữa các chủ thể các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động
của các chính sách, chế độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi
thực hiện, sửa đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đãi
của một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước đó
mà còn ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xã hội với những nước đó. Đồng
thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy định luật pháp Quốc
tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động của mình trong hoạt động nhập khẩu, do
đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.
Tỷ giá hối đoái.
Nhân tố này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án
kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới
tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố
này sẽ gây ra những biến động lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ
khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu thì lại bất lợi cho
xuất khẩu và ngược lại.
Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi,
tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Vì vậy khi tiến hành
bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững
xem hiện nay quốc gia mà mình định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc
ấn định này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh
hàng nhập khẩu.
7/25
Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài.
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị
trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu bên kia là thị trường ngoài
nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản
ánh sự biến động của mỗi thị trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một
mặt hàng nào đó trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập
khẩu và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các
nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung cấp, về sự đa
dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác dụng
đến thị trường nhập khẩu.
Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp Thương mại trong và
ngoài nước.
Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ đó làm giảm nhu cầu hàng
nhập khẩu. Còn nếu như sản xuất kém phát triển không sản xuất được những mặt hàng
đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó
nó ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm
nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn nhu cầu nhập khẩu đẩy
nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động bị thu hẹp,
mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh, hoạt động nhập khẩu lại được
khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi
nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát
gắt gao.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và ngoài nước, sự
phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết định đến sự chu chuyển,
lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các nền kinh tế. Chính vì vậy, nó tạo
thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính
là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với
việc thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các
doanh nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu của
Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động, tinh thần sáng
tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách trong nền kinh tế.
8/25
Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, nó can thiệp sâu
tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới hình thức nào, thuộc thành
phần kinh tế nào.
Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động quản lý, cung
cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính xác, nhanh chóng cho
các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát
triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt
động nhập khẩu, đảm bảo cho họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như xã hội và cũng nhiều
trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp
thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc:
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động vận chuyển và
thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công việc có thể tiến hành thuận
lợi, kịp thời. Còn việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là một công
việc hết sức quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc
nghiên cứu và áp dụng những công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống
thông tin và giao thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định
đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều
nhân tố khác. Vì vậy hoạt động nhập khẩu hết sức phức tạp và có mối tác động qua lại
tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong nền kinh tế.
9/25
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất
hàng hoá.
Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đòi hỏi cần được tiến
hành liên tục thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trường trong nước.
Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản phẩm nhập khẩu,
từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như vậy phải trả lời được những
câu hỏi sau:
* Thị trường trong nước cần những mặt hàng gì? Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ra sao?
Cần phải xác định được nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng một cách cụ thể
về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, số lượng để nhập khẩu hàng hoá
về thoả mãn đúng, đủ, kịp thời những nhu cầu đó.
* Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở
trong nước như thế nào?
Mỗi sản phầm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của mỗi sản phẩm bao
gồm các pha: pha giới thiệu, pha phát triển, pha hưng thịnh, pha bão hoà, pha suy thoái,
ở mỗi pha chu kỳ sống, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu
hiện ra thành hành động mua cũng cũng rất khác nhau. Do vậy để kinh doanh nhập khẩu
đạt hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm và nắm bắt được
sản phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống.
Bên cạnh nghiên cứu nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu, cần phải nghiên cứu để biết được
cung trong nước về hàng hoá đó. Chênh lệch nhu cầu về hàng hoá và cung trong nước
của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
mạnh mẽ đến cung của một hàng hoá là khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất
của hàng hoá đó. Do vậy, muốn biết được nên kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gì với số
lượng là bao nhiêu cần phải nghiên cứu tình hình trong nước về sản xuất mặt hàng đó
như thế nào.
10/25
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế.
Một trong những yếu tố quan trọng của thị trường là cung về hàng hoá. Kinh doanh nhập
khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là một yếu tố khách quan.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái
sản xuất trên phạm vi quốc tế. Tức là việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu
thông mà còn nghiên cứu cả trong lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật hoạt động của chúng- thể
hiện qua nhu cầu, cung ứng, và giá cả - liên hệ với điều kiện của doanh nghiệp và nhu
cầu về hàng hoá nhập khẩu ở trong nước để quyết định kinh doanh mặt hàng gì và lựa
chọn đối tác kinh doanh thích hợp.
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị
trường hàng hoá.
Có thể hiểu dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng hàng hoá đó được
giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc gia, một khu vực hay trên
toàn thế giới) trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường không phải là yếu tố tĩnh mà thường xuyên biến động do nó chịu
sự tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu dung lượng thị trường
nhằm mục đích xác định được vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Còn việc
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường để có thể dự đoán được sự
biến động của nó trên cơ sở đó vạch ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và
ngắn hạn cho doanh nghiệp.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tập trung vào những nhân tố
chủ yếu sau:
* Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: bao gồm: sự vận
động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của sản xuất, lưu thông và
phân phối hàng hoá.
- Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh
hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nắm vững ảnh hưởng của tình hình kinh tế tư bản
chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng các kết
quả nghiên cứu thị trường và giá cả để chọn thời gian giao dịch thích hợp nhằm đạt hiệu
quả kinh doanh cao nhất.
- Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên cả ba khâu sản
xuất, lưu thông, tiêu dùng. Một số hàng hoá chịu ảnh hưởng của các yếu tố mang tính
chất thời vụ do đó việc sản xuất, lưu thông, tiêu dùng những hàng hoá này cũng rất khác
11/25
nhau nên sự tác động của nhân tố thời vụ đến dung lượng thị trường của những hàng hoá
khác nhau cũng rất khác nhau. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm
của mặt hàng kinh doanh và tính chất thời vụ của nó để ra các quyết định đúng đắn về
hành động mua, vận chuyển và phân phối hàng hoá đó trong nước.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài.
Có những nhân tố không làm thay đổi dung lượng thị trường hàng hoá một cách nhanh
chóng mà ta có thể dễ dàng nhận biết ngay được. Những nhân tố này có thể gây những
biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng phải trải qua một quá trình chứ không
phải trong một thời gian ngắn. Có thể đến các nhân tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật,
các biện pháp và chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và
tập quán người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời:
Các nhân tố có thể kể đến là: các yếu tố tự nhiên, thiên tai, bão lụt, hạn hán.. gây ra sự
biến đổi cung cầu của một số mặt hàng nhất định. Cần phải nghiên cứu các yếu tố này
để có thể đối phó được với các tình huống bất ngờ xảy ra.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới.
Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc
xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả Thương mại Quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng
thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu.
* Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy.
Tuỳ theo mục đích mà dự báo xu hướng biến động của giá cả trong thời gian ngắn và
dài. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích
lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm. Dự báo trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp
cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại.
* Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá.
Các nhân tố tác động lâu dài:
- Nhân tố chu kỳ: sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua
các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hoá đó trên
thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của
giá cả hàng hoá là một điều tất yếu.
12/25
- Nhân tố lũng đoạn và giá cả: lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với
cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu vực thị trường tuỳ theo mối
quan hệ giữa người mua và người bán.
- Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo những xu hướng
khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xảy ra khi trên thị trường có xu hướng
cung lớn hơn cầu khiến cho giá có xu hướng giảm xuống. Cạnh tranh giữa những người
mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có xu hướng lớn hơn cung làm cho giá cả trên thị
trường có xu hướng tăng lên. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả.
- Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của nó, mà
còn được quyết định bởi giá trị của một đơn vị tiền tệ hiện hành.
Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường là sự biểu hiện giá trị của nó thông qua
những đồng tiền mạnh (như Đôla Mỹ, Demac Đức, Bảng Anh...). Do đặc điểm của nền
kinh tế thị trường, bản thân giá trị của đồng tiền cũng có thể bị thay đổi. Lạm phát và
giảm phát làm cho giá cả của hàng hoá tăng lên hay giảm xuống một cách bất thường.
* Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch.
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự đoán được xu
hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác định được mức giá cho
từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập.
Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các trung tâm giao
dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới về hàng hoá đó. Đồng thời
cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ khu vực thị trường các nước bạn hàng
đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan
để định giá cho chính xác.
Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào hàng của các đơn
vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính đến các thay đổi của sản phẩm
và các yếu tố có liên quan để đưa ra một mức giá nhập khẩu hợp lý, nâng cao hiệu quả
kinh doanh cho doanh nghiệp.
13/25
Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng
nhập khẩu
Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Lựa chọn đối tượng giao dịch
Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề lựa chọn đối tượng để giao dịch và lựa
chọn thương nhân. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu
sản xuất và tiêu dùng trong nước, chúng ta cần nghiên cứu tình hình chung của nước
đó như khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu của họ, chính sách, luật pháp, tập quán
thương mại... Khi lựa chọn thương nhân để giao dich, trong điều kiện cho phép, hiệu quả
nhất là nên chọn người sản xuất để nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi muốn thâm nhập
vào thị trường mới, mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý
môi giới lại có ý nghĩa quan trọng. Để lựa chọn được chính xác và đúng đắn, không nên
căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần phải tìm hiểu khách hàng về thái
độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh
doanh, uy tín và mối quan hệ của họ trong kinh doanh.
Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương pháp chủ yếu sau:
- Điều tra qua tài liệu và sách báo hay còn gọi là điều tra tại phòng làm việc. Đây là
phương pháp phổ biến nhất và tương đối tốn kém. Tài liệu thường dùng để nghiên cứu
là các bản tin giá cả thị trường của VNTTX và của trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại,
các báo cáo của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, các báo tạp chí như: MOCI
(Pháp), Far Eastern Economic Review (Anh), Financial Time (Anh)...
- Điều tra tại chỗ (Fiel reseach) theo phương pháp này người ta cử người đến tận thị
trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân. Phương pháp này tuy tốn
kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm được những thông tin chắc chắn và
toàn diện.
Ngoài hai phương pháp trên đây, người ta còn có thể sử dụng các phương pháp sau:
mua, bán thư, mua dịch vụ thông tin của các công ty điều tra tín dụng, thông qua người
thứ ba để tìm hiểu...
Đàm phán và ký kết hợp đồng.
a. Thương lượng, đàm phán hợp đồng nhập khẩu.
14/25
Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lựa chọn đối tượng giao dịch, các doanh
nghiệp tiến hành xúc tiến việc chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập khẩu. Nhưng để tiến tới
ký hợp đồng mua bán với nhau, người nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao
dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch, công việc này trong hoạt động
ngoại thương gọi là đàm phán có thể đàm phán giao dịch qua thư tín, điện thoại... nhưng
đối với những hợp đồng lớn, phức tạp, cần giải thích thoả thuận cụ thể với nhau thì nên
giao dịch đàm phán với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán theo phương pháp
này tuy chi phí cao nhưng đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng.
Trình tự đàm phán như sau:
- Hỏi giá: do bên mua (bên nhập khẩu) đưa ra, tức là phải nêu rõ tên hàng, quy cách,
phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán (loại tiền thanh toán, thể
thức thanh toán...). Về phương diện pháp lý thì đây là lời thỉnh cầu trước khi bước vào
giao dịch, về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho
biết giá cả hàng hoá và các điều kiện mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm
của người hỏi giá.
- Phát giá: luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Phát giá có thể do người
bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán ngoại thương, phát giá là chào hàng
thường do người xuất khẩu thể hiện ý định bán hàng của mình bằng cách nêu rõ các điều
kiện đã nêu trong hỏi giá (chú ý có thêm điều kiện giao hàng).
- Hoàn giá: bên mua không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới.
- Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng.
- Xác nhận: hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất với nhau về điều kiện giao dịch
có thể lập hai văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho nhau.
Trong các bước giao dịch đàm phán trên thì chào hàng và đặt hàng là hai khâu được
quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. Việc giao dịch,
đàm phán sau khi đã có kết quả sẽ dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu.
b. Hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng kinh tế ngoại thương, trong đó có sự thoả thuận
của đương sự có quốc tịch khác nhau về chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, nghĩa vụ
thanh toán, trả tiền nhận hàng.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương của nước ta bắt buộc phải thể hiện dưới hình thức văn
bản. Bởi đây là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định
rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm
15/25
do không thống nhất về quan niệm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện.
Hợp đồng nhập khẩu có các điều khoản chủ yếu như sau:
+ Phần mở đầu: Ghi thông tin về số hợp đồng, ngày và nơi ký hợp đồng, về chủ thể hợp
đồng (tên giao dịch Quốc tế, địa chỉ, số điện thoại...)
+ Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải ghi rõ, chính xác để không xảy ra hiểu lầm, có
thể ghi rõ địa danh sản xuất (xuất xứ hàng hoá), nhà sản xuất, quy cách, tên thông dụng,
tên thương mại, tên khoa học (nếu có)...
+ Điều khoản số lượng: Ghi rõ số lượng, khối lượng, trọng lượng, quy cách, đơn vị đo
lường... Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải dự liệu theo một sai số có thể chấp
nhận được. Trọng lượng hàng hoá có thể tính cả trọng lượng bì hoặc không (phải ghi
rõ). Cũng có thể tính trọng lượng hàng hoá theo trọng lượng thương mại tức là có độ ẩm
tiêu chuẩn.
+ Điều khoản phẩm chất: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng
hoá, tính năng cơ, lý, hoá, công suất, hiệu suất (máy móc), thẩm mỹ... để phân biệt hàng
hoá này với hàng hoá khác. Cũng có thể căn cứ vào mẫu mã hàng hoá và các tài liệu kỹ
thuật, nhãn hiệu hàng hoá hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán
Thương mại Quốc tế.
+ Điều khoản bao bì: Điều quan trọng nhất trong kinh doanh Thương mại Quốc tế là
phải bảo đảm hàng hoá có bao bì phù hợp tính năng, hình dáng kích thước của hàng hoá
và phương thức vận tải.
Còn về phương thức xác định giá cả của bao bì: nếu bên bán chịu trách nhiệm cung cấp
bao bì, thì việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp: giá cả bao bì được tính vào
giá cả hàng hoá (không tính riêng), giá cả của bao bì do bên mua trả riêng, và giá cả của
bao bì được tính như giá cả của hàng hoá.
+ Điều khoản cơ sở giao hàng: Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động
kinh doanh XNK đều có thể áp dụng một trong 13 điều khoản cơ sở giao hàng Incoterm
2000
+ Điều khoản giá cả: bao gồm đồng tiền tính giá và mức giá. Đồng tiền tính giá có thể
dùng tiền của nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền
ổn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá tức mức giá Quốc tế mà các bên phải tuân
theo. Phương pháp quy định giá có thể theo các loại sau:
Giá cố định: tức là giá được quy định khi ký kết hợp đồng mà không sửa đổi.
16/25
Giá quy định: được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Giá linh hoạt: là giá có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Giá di động: người ta quy định mức giá ban đầu, sau đó tính toán lại trong khi thực hiện
hợp đồng trên cơ sở giá ban đầu.
Nhưng trong việc xác định giá cả, thông dụng hơn cả người ta luôn luôn định rõ điều
kiện cơ sở giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy là vì điều kiện giao hàng
đã bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người bán phải chiụ trong việc mua hàng
như: vận chuyển, bốc dỡ, mua bảo hiểm, chi phí lưu kho, làm thủ tục hải quan... Vì vậy
trong các hợp đồng mua bán, mức giá bao giờ cũng được xác định căn cứ và điều kiện
cơ sở giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng ấy thường được ghi bên cạnh rõ ràng.
+ Điều khoản giao hàng: nội dung của điều khoản này xác định thời hạn, địa điểm,
phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người
bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên không có thoả thuận gì khác thì
thời hạn này là lúc di chuyển rủi ro, tổn thất từ người bán sang người mua. Giao hàng
không đúng hạn có thể thiệt hại và phải bồi thường. Có ba kiểu quy định giao hàng: giao
hàng có định kỳ, giao hàng không có định kỳ và giao hàng ngay.
Phương thức giao hàng: có thể quy định tiến hành tại một địa điểm nào đó, có thể giao
sơ bộ, giao cuối cùng hoặc có thể giao nhận về số lượng, chất lượng...
Thông báo giao hàng: các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ thông báo
giao hàng. Tức là quy định nội dung và số lần thông báo khi người bán giao hàng xong.
+ Điều khoản thanh toán trả tiền: trong việc thanh toán trả tiền hàng, các bên thường
phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiển, phương thức trả
tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái.
Đồng tiền thanh toán: giống như các điều khoản trên quy định trong Thương mại Quốc
tế, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được.
Thời hạn thanh toán: trong Thương mại Quốc tế, bên nhập khẩu có thể trả tiền trước, trả
tiền sau hoặc trả tiền ngay.
Phương thức thanh toán: trong giao dịch Quốc tế, phương thức thanh toán phổ biến nhất
là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức tín dụng chứng
từ được sử dụng rộng rãi và an toàn nhất. Nó là sự thoả thuận mà trong đó một ngân
hàng theo yêu cầu của bên mua trả tiền cho bên bán hoặc bất cứ người nào theo lệnh của
bên bán trong một thời hạn nhất định khi bên bán xuất trình bộ chứng từ đầy đủ và đã
thực hiện mọi yêu cầu được quy định trong một văn bản được gọi là thư tín dụng (letter
17/25
of credit L/C). Có hai loại thư tín dung: thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C)
và thư tín dụng không thể huỷ ngang (ỉnevocable L/C).
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại L/C do ngân hàng mở (ngân hàng phát hành L/C)
có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào không cần báo trước cho người hưởng lợi (bên
bán). Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại L/C mà trong thời hạn hiệu lực của nó,
ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ hoặc sửa đổi nội dung, đó là cam kết chắc chắn
đối với người bán trong thanh toán tiền hàng, đồng thời bảo đảm hàng hoá cho người
mua.
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán khi giao hàng
hoá, dịch vụ cho người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền. Có hai loại phiếu nhờ
thu được sử dụng đó là: nhờ thu không kèm chứng từ và nhờ thu kèm chứng từ. Loại
phiếu nhờ thu không kèm chứng từ là phương thức trả tiền nhờ thu phiếu trơn (clean
collection). Theo phương thức này, ngân hàng không nắm được chứng từ, người mua
có thể dùng bộ chứng từ nhận được từ nước ngoài để đi nhận hàng mà không cần qua
ngân hàng xong vẫn trì hoãn được việc trả tiền. Loại phiếu nhờ thu kèm chứng từ là
phương thức trả tiền phải kèm chừng (documentary collection). Theo phương thức này,
ngân hàng khống chế bộ chứng từ, người mua muốn có chứng từ để nhận hàng thì phải
trả tiền và chấp nhận trả tiền.
+ Điều khoản bảo đảm hối đoái: vì đồng tiền trên thế giới luôn bị lạm phát, mất giá hay
bị thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau, vì vậy các bên có thể thoả thuận quy định
những điều kiện bảo đảm tỷ giá hối đoái. Có thể dùng vàng hoặc đồng tiền mạnh, ổn
định.
+ Điểu khoản bảo hành: là sự bảo đảm của người bán về chất lượng hàng hoá trong thời
gian nhất định được gọi là thời hạn bảo hành. Người ta thường thoả thuận về phạm vi
đảm bảo của người bán, thời hạn bảo hành và trách nhiệm của người bán trong thời hạn
bảo hành.
+ Điều kiện bất khả kháng: trong trường hợp nếu có rủi ro xảy ra, bên đương sự được
hoàn toàn và trong một chừng mực nào đó được miễn trách nhiệm nếu rủi ro đó có tính
chất khách quan mà không thể khắc phụ được. Trách nhiệm của bên gặp rủi ro là phải
lập tức thông báo cho bên kia bằng văn bản. Người ta thường thoả thuận chỉ định một tổ
chức chứng nhận sự việc xảy ra, thường là phòng thương mại.
18/25
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu
với tư cách là một bên ký hợp đồng phải tổ chức hợp đồng đó. Đây là một công việc rất
khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp Quốc gia, Quốc tế, đảm bảo uy tín
của cả hai bên. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, đơn
vị kinh doanh phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu
quả của các nghiệp vụ giao dịch.
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công
việc sau:
Xin giấy phép nhập khẩu:
Hiện nay, việc xin giấy phép nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt
Nam vẫn được áp dụng trong trường hợp:
- Nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp phải xin giấy
phép XNK của Bộ Thương mại.
- Nếu là hàng hoá không thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp không cần
phải xin giấy phép.
Mở L/C.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán bằng L/C thì bên mua phải lập L/C. Thời
gian mở L/C nếu hợp đồng không quy định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng,
thông thường thì L/C được mở khoảng 20-25 ngày trước thời hạn giao hàng. Cơ sở mở
L/C là các điều khoản trong hợp đồng nhập khẩu. Người nhập khẩu phải căn cứ vào đó
để điền vào mẫu xin mở L/C gọi là giấy mở tín dụng khoản nhập khẩu.
Thuê tàu lưu cước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành
dựa vào ba căn cứ sau: những điều khoản của hợp đồng mua bán, đặc điểm của hàng hoá
nhập khẩu và điều kiện vận tải. Chủ hợp đồng phải chú ý tới từng loại hàng hoá để thuê
phương tiện vận tải cho phù hợp. Hàng hoá có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, hàng
hoá có khối lượng nhỏ thì thuê tàu chậm, hàng lỏng thì thuê Tanker, hàng tươi sống thuê
phương tiện vận tải có thiết bị làm lạnh... Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm
19/25
nghiệp vụ, có thông tin về thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì
vậy thông thường, chủ hàng thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận
tải chuyên nghiệp. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa hai bên nhận uỷ thác thuê
tàu và uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác.
Có hai loại hợp đồng uỷ thác:
• Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm.
• Hợp đồng uỷ thác chuyến.
Chủ hàng xuất nhập khẩu căn cứ vào đặc điểm vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn
loại hình hợp đồng uỷ thác cho thích hợp.
Mua bảo hiểm.
Hàng hoá chuyên chở trên đường thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất vì thế chủ hàng nhập
khẩu thường mua bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm có uy tín. Hợp đồng bảo hiểm có
thể là hợp đồng bảo hiểm hoặc là bảo hiểm chuyến. Để ký hợp đồng bảo hiểm cần nắm
vững những điều kiện bảo hiểm:
• Bảo hiểm mọi rủi ro.
• Bảo hiểm có tổn thất riêng.
• Bảo hiểm miễn tổn thất riêng.
Ngoài ra có một số loại bảo hiểm phụ: vỡ, rò, rỉ, mất trộm, ôxi hoá... và bảo hiểm đặc
biệt: chiến tranh, đình công, bạo động, dân biến...
Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên 4 căn cứ:
• Điều khoản hợp đồng.
• Tính chất hàng hoá.
• Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng.
• Loại tàu chuyên chở.
• Tình hình khí hậu thời tiết, chính trị, xã hội...
Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải
quan gồm ba nội dung chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: chủ hàng phải khai báo các loại chi tiết hàng hoá lên tờ khai về: loại
hàng hoá (hàng mậu dịch, phi mậu dịch, hàng trao đổi tiền ngạch biên giới, hàng tạm
nhập tái xuất), số lượng, khối lượng, giá trị hàng hoá, phương tiện vận tải, nước giao
20/25
dịch... kèm theo đó là giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, bản kê chi tiết để cơ quan hải quan
kiểm tra thủ tục giấy tờ.
- Xuất trình hàng hoá: hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc
kiểm tra, mọi chi phí liên quan đến việc đóng mở hàng hoá, chủ hàng phải chịu. Yêu cầu
việc xuất trình hàng hoá phải đảm bảo trung thực.
- Thực hiện các quyết định của hải quan: nghĩa vụ của chủ hàng là phải chấp hành mọi
quyết định của hải quan về việc: nộp thuế trong vòng 30 ngày nếu hàng hoá được nhập,
hoặc nộp phạt nếu hàng hoá sai quy định, tịch thu nếu hàng hoá nằm trong danh mục
cấm nhập của Nhà nước.
Kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và giao nhận với tàu.
Hàng nhập khẩu về qua cửa khẩu sẽ được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo chức
năng của mình mà tiến hành công việc kiểm tra đó. Nếu phát hiện những tổn thất, thiếu
hụt, mất mát hay đổ vỡ cơ quan chức năng sẽ lập biên bản rõ ràng. Người nhập khẩu với
tư cách là một bên đứng tên vận đơn thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng
có tổn thất, yêu cầu lập biên bản giám định.
Theo quy định của Nhà nước về việc giao dịch hàng với tàu, các cơ quan vận tải, ga
cảng có trách nhiệm nhận hàng hoá trên các phương tiện vận tải vào ga cảng, bảo quản
hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho đơn vị nhập khẩu theo
lệnh của đơn vị ngoại thương đã xuất khẩu hàng hoá đó. Thông báo cho các đơn vị nhập
khẩu ngày tàu về cảng.
Thanh toán.
Đây là khâu trọng tâm, cuối cùng của tất cả các giao dịch, kinh doanh trong Thương mại
Quốc tế.
Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C, đơn vị mở L/C gửi giấy xin mở tín dụng
khoản nhập khẩu đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm
chi để ký quỹ theo quy định về việc mở L/C và một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí
cho ngân hàng ngoại thương, đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và
nếu thấy chứng từ hợp lệ thì trả tiền cho ngân hàng, sau đó nhận chứng từ đi lấy hàng.
Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiềnhàng bằng phương thức nhờ thu thì
sau khi nhận được chứng từ ở ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh nhập khẩu
được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định, nếu trong thời gian này đơn vị
kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính đáng để từ chối thanh toán thì ngân hàng
coi như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ. Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ,
21/25
mọi tranh chấp giữa bên bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải
quyết giữa các bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài.
Chú ý: chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao
cho ngân hàng nhằm thu hồi vốn nhanh.
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập
khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi làm
mất thời cơ khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại là người bán nếu hàng hoá có chất lượng hoặc số lượng không phù
hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao hàng bị vi phạm, hàng giao
không đồng bộ.
Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng hoá bị tổn thất trong quá trình chuyên chở
hoặc nếu sự tổn thất đó do người vận tải gây ra.
Đối tượng khiếu nại là Công ty bảo hiểm nếu hàng hoá- đối tượng của bảo hiểm bị tổn
thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc lỗi của người thứ ba gây nên, nếu những rủi ro này
đã được mua bảo hiểm.
Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám
định, COR, ROROPC hay CSC...), hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu
khiếu nại Công ty bảo hiểm)...
Nếu việc khiếu nại là có sơ sở, chủ hàng xuất khẩu phải giải quyết bằng một trong những
phương pháp sau:
- Giao hàng còn thiếu.
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng.
- Sửa chữa hàng hỏng.
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời hạn
sau đó.
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể kiện nhau tại hội
đồng trọng tài (nếu có thoả thuận trọng tài) hoặc tại toà án.
22/25
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ bản của kinh doanh thương mại quốc
tế trong nền kinh tế thị trường
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
23/25
URL:
Giấy phép:
Module: Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
24/25
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
25/25
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhap_khau_hang_hoa_mot_hoat_dong_co_ban_cua_kinh_doanh_thuong_mai_quoc_te_trong_nen_kinh_te_thi_truong_852.pdf